Chuyện
Phiếm đọc trong tuần 18 Thường niên năm B 05/8/2018
“Rộn
ràng một nỗi đau”
Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui.
(Ngô
Tịnh Yên/Trần Duy Đức – Nếu Có Yêu Tôi)
(2Thessalônikê 1: 4-6)
Nỗi đau rộn ràng ư? Đã
đau rồi, thì bao giờ mà chẳng rộn-ràng. Rộn và ràng, theo nghĩa “khẩn trương”
thân thương thật gấp rút. Nếu không, chắc sẽ không còn đủ thì giờ mà hát với xướng,
những câu sau đây:
“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi
Ôi buồn làm sao nói lời tạ ơn.
Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.
(Ngô
Tịnh Yên/Trần Duy Đức – bđd)
Và cứ thế, người nghệ
sĩ lại cứ ca hoài/ca mãi một câu hát được trích-dẫn rất nhiều lần, như sau:
“Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai lúc mắt tôi khép lại
Đừng đợi ngày mai có khi tôi đành xuôi tay
Trôi dạt về đâu chốn nào tựa nương.
Và:
“Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời
Đừng đợi ngày mai có khi tôi thành mây khói
Cát bụi làm sao mà biết mỉm cười.
Rộn ràng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui.”
(Ngô Tịnh Yên/Trần
Duy Đức – bđd)
Nỗi đau và niềm vui
đây, có giống câu truyện kể ở bên dưới không?
“Truyện rằng:
Cậu bé 8 tuổi lần đầu tiên bước
vào lớp ngày tựu trường.
Cô giáo hỏi:
-Này, em tên gì thế?
-Em tên Mohamed.
Cô giáo bèn nói tiếp:
-Em đang ở Mỹ, từ nay mọi người
sẽ gọi em là Mike nha.
Tan trường cậu bé trở về
nhà. Mẹ cậu bèn hỏi:
"Ngày đầu đi học ra sao,
Mohamed?"
Cậu bé nói:
-Con đang sống ở Mỹ, từ nay tên
con sẽ là Mike.
-Mày xấu hổ vì cái tên Mohamed
hả? Mày muốn làm nhục cha mẹ, tổ tiên, truyền thống, và tôn giáo mày hả? Rồi bà
mẹ đánh cậu bé một chập.
Lúc chồng về tới nhà, bà ta kể
lại. Thế là ông cha lôi thằng bé ra đánh thêm chập nữa.
Hôm sau tới trường, thấy mình
mẫy cậu bé bị bầm dập, cô giáo hỏi,
-Em bị gì vậy Mike?"
Mike trả lời:
-Liền sau khi vừa trở thành
người Mỹ, em bị 2 đứa khủng bố Hồi giáo chúng tấn công em!
“Bị Hồi-giáo tấn công”, không sợ bằng bậc thày nọ có
quan-niệm lạ về Cuộc sống, Giáo huấn và Sự
việc liên quan đến Cách mạng Tôn giáo” như đã viết, rằng:
“Từ hồi nhỏ, tôi vẫn hát những ca khúc kể về cuộc đời Đức
Giêsu đã thuyết phục tôi suốt nhiều năm trường cho tới khi khôn lớn tôi vẫn
nhận ra rằng đời mình còn có vấn-đề quan-trọng không kém, đó là: làm sao kể
truyện Ngài đây?
Quả thật, có nhiều cách kể về đời Đức Giêsu, nhưng kể
cách nào, đó mới là vấn-đề. Và, vấn-đề này luôn mang tính nghiêm-chỉnh rất khó
lường…
Ở thế kỷ thứ tư và thứ năm, ngôn ngữ nhà Đạo luôn luôn kể
rằng Đức Giêsu là “Ngôi Thứ Hai” trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời và Ngài luôn trở
nên Một với Thiên-Chúa Cha”. Với người theo Đạo Chúa, thì: mặc-khải lớn về
Thiên-Chúa là Đấng có xương thịt, mà ta vẫn gọi bằng cụm-từ “Con Thiên Chúa”,
qua đó sự việc Ngôi Lời đã mặc tính xác thịt ôm trọn những gì mọi người nghĩ về
Thiên-Chúa trong cuộc sống của con người, như Ánh Sáng chiếu rọi nhân-trần,
Ngài tỏa sáng trên ta về bản-chất và ý-định của Thiên Chúa và đường lối để ta
sống.
Đã đành là, người Đạo Chúa vẫn cho rằng Kinh thánh luôn
mặc-khải về Thiên-Chúa như Lời của Ngài”. Quả thật, thần-học chính-thống của
Đạo Chúa từ ngàn xưa, vẫn khẳng-định rằng sự việc mặc khải Thiên-Chúa đầy tính quyết-định chính là Đức Giêsu bằng xương
bằng thịt.
Và, Kinh thánh chính là “Lời” trở thành “lời lẽ”, thế nên mặc-khải về Chúa bằng “lời lẽ”
của con người.
Thành thử, Đức Giêsu chính là “Lời” trở thành xác phàm, thế nên mặc-khải về Chúa đã thành hiện-thực trong cuộc
sống của con người. Thành thử ra, Đức Giêsu mang mặc đặc-tính đầy xác-quyết hơn
cả Thánh Kinh…” (X.
Marcus J. Borg, Jesus: Uncovering the
Life, Teachings and Relevance of a Religious Revolutionary, HarperOne 1989,
tr. 5-7)
Niềm vui và nỗi đau ở
đời người, còn được diễn tả trong truyện kể của người mình, cũng huê-dạng như
sau:
“Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó
luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một
may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng
hoàng như được ai mời một chén rượu quý. Cái ngọt của rượu cứ vương mãi ở cổ
như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt
một đời người.
Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ
đợi chồng con (được một ngày mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối.
Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: Phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm
vào nhau, như những con rối trong tuồng múa nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ
có ở những nơi đất hẹp người đông. Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam là hai nơi điển
hình đáng kể nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra
hai bên phố. Ngay trước những cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán.
Ở một con ngõ vào xóm người ta cũng có
thể chăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà
bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán
cháo.
Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba
thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy
ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong.
Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, giản dị, thưởng thức món
ăn thật hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trọng
thưởng thức món ăn của mình.
Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Lang thang mãi, mỏi chân
và khát nước, thấy thèm một ly trà quá. Thật may, một cái quán bán nước trà, kẹo
lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Đức Thắng và Đoàn thị Điểm. Quán
không có bảng hiệu, vài cái bàn thấp và ghế đẩu, nhưng gần như mọi người đã ngồi
hết, tôi đứng loay hoay một vài giây, có người giúi cho vào tay chiếc ghế đẩu,
mà chẳng nói một câu gì.
Tôi vội cám ơn và nhận được một nụ cười.
Ngồi xuống, chưa kịp gọi thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba
mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo.
Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống ngay một góc
bàn đã có bốn người ngồi trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ,
cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát,
vừa ngọt, vừa thơm, đúng là trà mộc Thái Nguyên. Uống ngụm nước mà như uống một
nụ cười. Hình như những người ở trong quán này ai cũng hào phóng nụ cười.
Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, lúc đó tôi mới để ý nhìn chung quanh. Quán trà
nhỏ xíu nhưng rất ấm cúng và giản dị. Chị chủ quán đang loay hoay với những chiếc
ấm, những hộp, những gói trà và những chiếc ly thủy tinh. Ánh lửa ở chiếc lò ga
hắt lấp lóe một bên má chị, nhìn thấy cả đuôi lông mày của con mắt bên đó kéo
dài một nét thanh thanh, cái bóng nhỏ bé của chị hắt một vệt rất mờ trên vách.
Cả quán có ba chiếc bàn vuông và một
chiếc bàn dài, bàn vuông thì ngồi được hai người, bàn dài thì được bốn người.
Vì quán rất hẹp, nên kê gần nhau lắm. Bàn nào hình như cũng chen thêm ghế, và
khách ngồi sát vai nhau rất là thân mật. Họ chụm đầu vào nhau, trò chuyện, nhai
kẹo lạc ròn thành tiếng, khói trà nghi ngút bốc lên ngang mặt mọi người, nhưng
sau làn khói mỏng manh đó những con mắt vẫn ánh lên khi họ nhìn nhau trò chuyện.
Thỉnh thoảng họ lại giơ tay đập vào vai nhau rất thân thiện.
Quán trà bình dân này không có tiếng hát, tiếng nhạc vỡ ra từ máy phát thanh
hay truyền hình như ở các nơi khác, nên không khí rất êm ả. Khách nói chuyện với
nhau rất khẽ, khẽ đến nỗi không nghe được tiếng, chỉ thấy những bàn tay xòe ra,
nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau
múa lên. Nếu họ nói to thì chắc là quán đang ồn lắm.
Mặc cho tiếng ồn ào của những chiếc xe
gắn máy, tiếng còi xe bóp inh ỏi, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng rao hàng và
đôi khi chen vào cả tiếng cãi cọ trước cửa quán, những người vào đây uống trà họ
giữ được không khí rất là thinh lặng, nói rất khẽ và cười rất nhẹ. Chị chủ quán
luôn luôn biết ý khách hàng, không đợi gọi, kẹo chưa hết đã mang ra, trà lúc
nào cũng được rót đầy ly đem tới, chị thong thả chuyên nước sôi từ ấm sang
bình, tiếng nước sôi trên bếp cũng nhẹ nhàng như tiếng guốc chị di chuyển, hình
như tôi nghe được cả tiếng thở của chị.
Tôi uống đến ly trà thứ hai và ăn gần hết chiếc kẹo, tỉnh hẳn người, lúc đó mới
quan sát kỹ đến những người khách chung quanh mình. Họ phần đông còn trẻ, người
già nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn
tay, múa khoa lên trong quán. Cách nói chuyện của họ làm tôi liên tưởng đến một
lớp “Sign Language” ở College tôi đã theo học cách đây mấy năm.
Câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón
tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ
ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you.Tôi đã học hết khóa
vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng
đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều
mình học.
Chị chủ quán đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc. “Đây là quán Trà của
người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây.” Tôi ngẩn người ra nhìn
chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa
đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi
vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị.
Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau,
chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được
đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá và khách
không nói được thì cứ giơ tay chỉ chỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người
câm, điếc rủ nhau đến đây uống trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng
cho họ, những người đối thoại thinh lặng.
Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ
quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngọn đèn không được sáng lắm,
nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỏ vào nhau, tôi ngắm
nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần
tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở
bệnh viện ra, có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói
được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!
Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng các
diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch họ không nói tiếng nào,
chỉ diễn tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ
qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống
như họ vậy, có khác một điều những người này không phải kịch sĩ, họ không quét
sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười
mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa.
Tôi phải nhờ chị chủ quán thông ngôn,
cái ngôn ngữ thinh lặng này. Tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng
tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết
viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che
miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì.
Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn:
Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ
giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy
nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.
Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với
nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm
của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm,
điếc được giúp đỡ thế nào?
Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống
trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ
giản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền nhỏ phòng khi con cái ốm
đau, đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.
Những buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới
thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây
cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước
trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong
quán trà thinh lặng này.
Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, sảng khoái, hình dung ra ở một
nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch. Những quán trà dành
cho tao nhân mặc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Đạo. Khi cho trà
vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp hồi cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn trường
thủy (rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân). Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn nhập
thủy (rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ). Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón
tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long giá ngọc, trước khi uống ngụm
trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi
là Du Sơn lâm thủy.*
Chao ôi là nghi lễ, thật cầu kỳ.
Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ giản dị lắm, trà do chị
chủ quán pha một bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau
bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc
của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngực mình, ngực bạn, nói
lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm
ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng
kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.
Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động
đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra.
Chao ôi, là quê hương yêu dấu! Mỗi chỗ
giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được
châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.” (Trích “Quán Trà Thinh Lặng” của Trần Mộng Tú)
Thinh
lặng hay ồn ào, vẫn là nỗi đau của đời người, được người nghệ sĩ diễn tả thêm lần
nữa, qua nét nhạc, rằng những hát:
“Có
tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi
Ôi buồn làm sao nói lời tạ ơn.
Nếu
có bao dung thì hãy bao dung bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.
(Ngô Tịnh Yên/Trần
Duy Đức – bđd)
Gặp phải nỗi đau suốt một
đời, cũng đừng tạ lỗi với ai hết. Bởi, nỗi đau ở đời người luôn sát cánh với
người đời, hệt như lời đấng thánh-hiền từng bảo ban, như sau:
“Bởi
thế, chúng tôi hãnh diện về anh em
trước
mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa,
vì
anh em kiên nhẫn
và
có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ
hay
gặp cảnh gian truân.
Đó
là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh:
anh
em sẽ được coi là
xứng
đáng tham dự Nước Thiên Chúa,
chính
vì Nước Thiên Chúa
mà
anh em chịu đau khổ.”
(2Thessalônikê 1: 4-6)
Hãnh-diện,
không vì anh chị em từng chịu đau khổ suốt mọi thời. Nhưng, vì anh chị em mình
đều vì Nước Thiên-Chúa, nên mới thế.
Trần
Ngọc Mười Hai
Và
những nỗi đau
rất
khó tả trong đời mình,
nhưng
vẫn kiễn nhẫn
sống
vui sống mạnh với mọi người
suốt
một đời.
No comments:
Post a Comment