ước gì anh cùng em chuyện trò
Cùng nhau nghe sóng xô ghềnh đá
ngàn câu hát yên bình”
(Jim Brickman/Võ Thiện Thanh – Ước Gì)
(Lc 10: 2-3)
Thì, em vẫn sống. Đấy, là chuyện thật. Thì, anh đây. Giờ này. Vẫn cứ ước. Ước, là ước chuyện thật gần, dễ thực hiện. Như: cùng em chuyện trò. “Nghe sóng vỗ”. Nhưng, mộng ước của anh, và của em, tưởng là dễ. Nhưng kỳ thật, rất khó hiện thực. Như câu chuyện vừa xảy ra, ở giải Túc Cầu Thế Giới FIFA 2010 tại Nam Phi, nghe phát sợ:
“Tin cho biết: Một người đàn ông đứng tuổi sống ở miền quê hẻo lánh phía Bắc nước Nam Phi, mê xem trận túc cầu giữa Đức và Úc trên truyền hình, không để vợ con dự xem chương trình lễ lạy, như mọi ngày. Đã tranh nhau, giành giựt thiết bị điều khiển từ xa, đến xô sát. Ông đã chết trên đường đến bệnh viện. Phát ngôn viên Cảnh sát nói: Người này tên David Makoeya, 61 tuổi sống ở Makweya, một làng thuộc tỉnh Limpopo, bị vợ là Francina và hai con là Collin và Lebogang tấn công, dập đầu ông vào tường để giành thiết bị điều khiển từ xa, ông nắm trong tay. Hôm ấy là ngày Thứ Tư đen
Ước gì, anh ở đây: để ta cùng tham dự thánh lễ. Để, ta xem bóng đá, vẫn là những nguyện và ước, rất chính đáng. Tuy, rất nhỏ. Như, cuộc sống hàng ngày. Nhưng sao kết quả lại não nùng, đến như thế? Đó chính là, điều lạ kỳ trong sống đời thường nhật. Ở đời. Đó mới hiểu được ước vọng hay nguyện ước, đôi khi tuy nhỏ. Nhưng, khó thực hiện.
Nguyện ước của giới trẻ hôm nay, trong sinh hoạt cộng đoàn, là mộng ước giản đơn. Nho nhỏ. Không tranh giành. Cãi vã. Đấu tranh. Vẫn chỉ là những nguyện và ước, đơn thuần. Mộc mạc. Được diễn tả ở bài hát có câu ca đơn thuần. Khúc chiết. Rất như sau:
“Người yêu em hỡi!
Ước gì em đã không lỡ lời
ước gì ta đừng có giận hờn
Để giờ đây cô đơn vắng tênh
đời em đã vắng anh rồi…”
(Jim Brickman/Võ Thiện Thanh – bđd)
Vâng. Mộng ước của giới trẻ, nay là thế. Đôi lúc, cứ vắng tênh. Cô đơn. Vẫn chiếm lĩnh hồn anh. Hồn em. Nên, mộng ước dù giản dị vẫn khó thành. Khó, như mộng ước của người đời sống những chuỗi ngày dài lâu. Rất thọ. Như truyện nhỏ, ở bên dưới:
“Có vị bác sĩ nọ, cứ giữ thói quen hằng ngày, vẫn lang thang tàn tàn trên con lộ đầy đá sỏi có hàng cây râm mát, vào buổi sáng. Bất chợt ông gặp một nữ phụ có dáng dấp cao niên. Hiền lành. Đầy đức độ. Nghĩa là, làm gì thì làm, cụ chẳng muốn phiền hà một ai, ngoài chính mình. Và, người nữ phụ vẫn lặng lẽ ngồi trên ghế đá công viên, chậm rãi điếu xì-gà còn khúc cuối, vẫn không vứt. Thấy thế, bác sĩ bèn đến gần, lên tiếng hỏi:
-Xin cho tôi hỏi một câu hơi lẩn thẩn, nghĩ không ra. Nhìn kỹ, tôi đoán là bà, là chị đang sống đời sống bình lặng. Rất hạnh phúc. Thế, đâu là bí kíp, để được như vậy?
-Chẳng có gì ghê gớm đâu, thưa ông. Ban ngày, tôi chỉ lưa thưa hút có mươi điếu. Cỡ bằng này. Tối đến, tôi dặm thêm một điếu chót. Chẳng là bao. Mỗi tuần, tôi chỉ cố nốc mỗi chút rượu chỉ bằng chai Giô-ni đi bộ. Và, thời gian còn lại, tôi chỉ kịp đánh chén mỗi thức ăn nhanh, cho nó lẹ. Thế thôi. À quên, ngày cuối tuần, tôi có thói quen chỉ lai rai dặm thêm vài viên thuốc lắc. Xập xình, mỗi điệu nhún. Thế thôi.
-Lạ nhỉ. Bí kíp sống thọ kiểu này, thú thật đây lần đầu tôi nghe biết. Thế, năm nay cụ thọ được bao nhiêu?
-Tuần tới này, tôi tròn ba tám. Có gì ngán.”
Hai truyện kể. Hai thái cực. Vẫn nói lên một thực tại. Thực tại, là chuyện thực kể về những ước và nguyện, của nhiều người. Nguyện và ước, không đơn điệu. Chỉ giản đơn, như mơ ước của nghệ nhân có ý/lời trích như sau:
“Ước gì anh ở đây, giờ này.
ước gì em được nghe giọng cười
Và hơi ấm, đã bao ngày qua mình luôn sát vai kề!”
(Jim Brickman/Võ Thiện Thanh – bđd)
Nhà Đạo mình, vẫn có những chuyện giản đơn, đầy mộng ước. Nhưng thực hiện được, cũng không dễ. Chuyện ấy, như sau:
“Người bảo các ông:
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin
chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.
Anh em hãy ra đi.
Nay Thầy sai anh em đi
như chiên con đi giữa bầy sói.”
(Lc 10: 2-3)
Đã đành, lời Chúa trích ở trên không mộng ước, nhưng là lệnh truyền. Mời gọi. Ngài mời và gọi mọi người hãy ước ao gặt hái thành quả Ngài gieo vãi, suốt nhiều năm.
Về những ước nguyện của nhà Đạo, nhiều đấng bậc nhà mình vẫn có thói quen nhìn vào số lượng lượt/người dự lễ, để biết là: lúa đồng nhà mình đã chín rộ? Hoặc, thấy số linh mục phục vụ tại chỗ, vẫn còn đông, để kết luận rằng “ơn kêu gọi” nhà Đạo, nào sa sút! Nhưng, đó mới chỉ là số lượng của vụ gặt. Của, lúa chín rộ. Còn, tay nghề của thợ gặt, hoặc chất lượng vụ mùa, giờ này ra sao? Đó mới là vấn đề, cần nhận thức.
Trả lời câu hỏi trên, nghệ sĩ ngoài đời, vẫn nhanh nhẩu đáp, bằng câu hát:
“Em xa anh, đã bao ngày rồi,
Nghe như tháng năm ngừng trôi.
Đi xa, em nhớ anh thật nhiều.
Này người,
Người yêu em hỡi!”
(Jim Brickman/Võ Thiện Thanh – bđd)
Em xa anh, có thể là em chỉ mới xa thánh lễ của anh, ở nhà thờ. Cũng có thể, ta xa tình yêu của những người anh. Người chị. Ở Nước Trời. Thế thì, xá gì chuyện phôi pha, và mộng ước. Thế thì, vội gì ta cãi tranh/tranh luận về ý nghĩa, lý lẽ của Tiệc Thánh. Của, nghi thức phụng vụ ở nhà thờ.
Đấy kìa, cứ thử nghe ý kiến của bạn Đạo Sydney, vẫn muốn bàn và muốn luận về tình huống lễ thánh/thánh lễ, có linh mục “bụi” Chris Riley của giới “Bụi đời” ở Sydney, từng nhận định về thánh lễ, như sau:
“Có những điều khả dĩ thu hút được giới trẻ đến với thánh lễ, hầu hết có thể kể ra đây:
Về những lời sẻ san, gọi là “chia sẻ”:
“Người trẻ bây giờ, thích nghe lời nào khả dĩ đánh động tâm can họ, thật mạnh. Chí ít, là những lời phù hợp với cuộc sống thực tế của họ. Tức, những gì khiến họ có thể bỏ lại đằng sau, để đến với thánh lễ. Được thế, họ sẽ đến với nhà thờ/nhà thánh, ngay tức thì. Nói cách khác, làm sao tạo được những gì thật sự lôi cuốn đám trẻ. Nghĩa là làm thế nào để ta có một chút gì đó, có cảm xúc rất thách thức. Tức, người trẻ nào cũng muốn mình được nuông chiều, nuôi dưỡng, bằng nhiều cách. Khác nhau.”
Về âm nhạc, ở thánh lễ:
“Bình thường, người người tìm đến với hội ngộ, có tuyên dương. Ca khen. Chúc tụng. Bằng âm nhạc cổ điển. Nhè nhẹ. Rất ít nghe. Bởi, khi nghe nhạc loại này, ta sẽ không ngờ rằng: nhạc cổ điển vẫn tiềm tàng trong văn hoá/văn minh, là mạch chính. Của mình. Tôi muốn nói, loại nhạc như thế vẫn đẩy đưa/lôi kéo hết mọi người. Nói cách khác, âm nhạc và ca từ sử dụng ở nhà thờ, nếu quá dở, sẽ làm cho mọi người dần dà chán ngán, bỏ đi. Đi nơi khác, tìm những gì thích thú, sảng khoái hơn.”
Về lớp người trẻ:
“Giới trẻ nay có nhu cầu nối kết với hết mọi người. Vào buổi lễ, nếu biết thu phục giới trẻ, thì rồi ra chắc chắn ta cũng sẽ cuốn hút được nhiều người. Bởi, người trẻ nào cũng muốn cảnh báo mọi người, rằng: họ không là đám trẻ duy nhất đến với lễ. Nhiều người như họ cũng muốn tham dự thánh lễ lắm đấy, nhưng họ chưa có dịp tỏ bày lập trường đầy thôi.”
Về lặng thinh:
“Theo tôi nghĩ, cũng nên có nơi êm ả. Lặng im. Khả dĩ thu hút được lớp người trẻ đến với lễ. Một phần, vì xã hội hôm nay không có chỗ để mọi người tìm yên lặng, như khi trước. Đúng ra, ta cũng nên làm thế, mỗi tuần một lần. Tìm đến nơi vắng vẻ, im ắng, người trẻ vẫn giữ được sự lặng thinh, chứng tỏ rằng mình cũng làm được việc đó.” (X. The Australian Catholics, Easter 2010, p.9)
Thật rất đúng. Và, cũng phải. Phải và đúng, bởi hầu hết người mình đều muốn người trẻ lũ lượt đến nhà thờ dự Tiệc Thánh, chứ đâu muốn thấy số người chăm chút đi lễ là để không còn mang nặng mối lo toan, phải xưng tội. Hoặc, cũng dự lễ đấy, nhưng lòng trí cứ để đi đâu. Xa tít mù tắp.
Phải và đúng, là ý kiến: về sẻ chia/chia sẻ sao cho kết hợp hài hoà kinh nghiệm rất thực của mọi người với lời giảng cao siêu/nhiệm mầu, như thời trước. Phải và đúng, về nhạc thánh…rất thót, sao tạo được nét vui, đầy nhựa sống từ ca từ cho đến cách diễn tả. Tức, làm sao thích hợp với ý nghĩa “Phục Sinh”, của Tiệc Thánh. Chứ đừng ỉ ôi. Âu sầu. Rầu rĩ. Dù vào mùa Chay. Cứ loay hoay. Đầy doạ nạt.
Phải và đúng, như phản ảnh về một kinh nghiệm khác của một đấng bậc vị vọng ở
“Khi được hỏi: sao ta cứ phải dự lễ vẫn lê thê/lề mề, mỗi tuần? tôi thích trả lời rằng: cụm từ “Tiệc Thánh Thể” diễn tả đậm nét và sâu sắc hơn cụm từ “thánh lễ”, hoặc “lễ tế”. Bởi, “Tiệc Thánh” mang ý nghĩa sâu xa qui về đoạn Kinh Sách có những chi tiết giúp ta hiểu được việc ta làm đã xảy ra ở bàn tiệc, có Chúa dự. Tiệc, là tiệc tưởng niệm về một hy sinh Chúa chấp nhận, cho Ngài. Cộng thêm vào với ý nghĩa của từ vựng ta bàn luận, là cụm từ “tương quan”. Tương quan, là những gì khả dĩ giúp cho quan hệ giữa ta với Chúa, được phát triển. Rất đậm sâu. Với thời gian.
Tương quan nào, cũng là quan hệ mật thiết. Vẫn triển nở. Rất lớn mạnh. Ở nơi đó, ta vẫn có quyết tâm. Quan hệ nào, cũng có lúc thăng lúc trầm, như độ lên xuống, của đời người. Quan trọng, là làm sao tạo được sự liên tục. Nhuần nhuyễn. Cứ thế mà tiến. Tiến, theo chiều hướng tốt đẹp. Quan trọng không ít, là: hãy cứ tự hỏi xem mình mang gì đến với quan hệ ấy. Trong cuộc đời, nhiều lúc ta vẫn phải quyết định xem nên hay không nên xúc tiến có quan hệ của Tiệc Thánh, như thế. Nghĩa là, thay vì hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia --bởi, có hỏi mãi như thế, cũng chẳng đi đến đâu-- tốt hơn, ta suy xét xem nên làm cách nào để có thể lớn mạnh trong tương quan đằm thắm với Chúa. Bằng Tiệc Thánh. Qua việc dự Tiệc.” (x. Edward Dooley sj, The Australian Catholics, Easter 2010,m tr. 9)
Nghe rồi, lời cuối nói sao đây? Nói, để thuyết phục, có lẽ vẫn nên nói. Dù chỉ một lời. Nói, là cốt chuyển đến bà con mọi người, một đề nghị. Nói, để rồi cùng nhau mình có quyết tâm. Bởi, bạn cũng như tôi, ta sẽ nghĩ: sao mà thuyết phục được mọi người hãy nghe Lời Thầy, rồi thực hiện. Nên chăng, ghi thêm ở đây câu hát tiếp, làm đoạn kết cho bài phiếm, rất hôm nay?
“Em đã sống những đêm trời có ánh trăng chiếu vàng,
Em đã sống những đêm ngoài kia, biển ru bờ cát!
Ước gì Anh ở đây. Giờ này…”
(Jim Brickman/Võ thiện Thanh – bđd)
Vâng. Lại chữ “Vâng”. Của những “ước gì”, đầy hy vọng. Bởi “ước gì”, chỉ là những ước và mộng về những gì bạn và tôi, ta đều biết. Đều hiểu. Hiểu, nhưng chưa dám quyết tâm. Vậy thì hôm nay, mời bạn mời tôi, ta cứ ước. Ước rất mực. Ước khôn nguôi. Ước rôi, ta lại sẽ hát câu cuối, như lời kết gửi người anh/người chị ở Nước Trời, không xa. Vẫn cùng ước và nguyện. Nguyện ước rằng:
“Ước gì, cho thời gian trở lại,
Ước gì, em gặp anh một lần.
Em sẽ nói em luôn nhớ anh,
Và em chỉ có anh thôi.”
(Jim Brickman/Võ Thiện Thanh – bđd)
Cuối cùng thì, chỉ còn anh và tôi. Trong nỗi ước, cuộc đời. Rất thật. Như sự thật. Ở đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Cũng từng ước.
Nhưng chỉ ước
những chuyện không thật.
Thế mới chết.
(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com;
hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;
hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com