Chuyện Phiếm đọc
trong tuần thứ 22 thuờng niên năm C 01-9-2013
“Ngàn xa bốn bề sao im vắng.”
Sông nước như say sưa khúc mơ màng.
Lưu luyến cho long khách giang hồ,
Qua bong mây trôi êm đềm ngày mơ.”
(Hoàng
Giác – Bóng Ngày Qua)
(Rm 1: 10-12)
Có một lần, bạn đạo trong đời cứ hỏi
bầy tôi đây là bần đạo: sao bạn “phiếm”
nhiều chuyện Đạo rất “lạo xạo”, mà có biết về cụ đạo họ và tên Vũ Sinh Hiên
không? Nghe đâu cụ này từng có chuyến Mỹ du năm ấy rất nổi bật, vân vân và vân
vân...”
Vốn dĩ không ngại phiếm chuyện đạo cả
chuyện đời của bạn đạo rất thân thương là người anh trên mình một lớp, sao dám
chối từ! Vâng. Bạn hiền họ Vũ tên Hiên của bần đạo cũng từng bị cái mà bạn và
tôi nay cứ hát lời muộn màng, im vắng quá chăng?
Bạn
hiền tên “Hiên” của bần đạo, tuy không hát những lời “lăng nhăng” đến là thế,
mà chỉ dám viết về cái gọi là “lấy vải thưa che mắt thánh” như sau:
“Cách
đây 9 năm, nhân dịp một đoàn hợp xướng ở TP. Hồ Chí Minh được mời sang Thái Lan
trình diễn do một nhạc trưởng người Nhật Bản tổ chức, gồm nhiều ban hợp xướng tại
các nước Đông Nam Á. Tôi đề nghị ca trưởng cho phép tôi được có mặt trong
thành-phần các ca viên xuất ngoại, 14 người với tôi là 15, bởi tôi vốn từng là
thành viên của ban hợp xướng này từ trước năm 1975.
Chúng
tôi nhờ một văn phòng dịch vụ lo thủ tục xin cấp phát hộ chiếu cho 15 người. Đến
ngày hẹn, 06/11/2002, chúng tôi lên phòng Quản Lý Xuất Nhập Cảnh Công An TP. Hồ
Chí Minh để nhận hộ chiếu thì chỉ có 14 người được cấp, riêng tôi được nhân
viên của phòng trả lời: “Ông cứ về rồi lãnh đạo sẽ trả lời sau.” Trong suốt 9
năm trời, không một cấp lãnh đạo nào trả lời trả vốn cho tôi. Những hứa hẹn hoặc
những lệch lạc bằng miệng kiểu này để rồi... “Non arriver où” (không
đi đến đâu) thì mọi người dân sống ở nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều
đã quen. Không ai trả lời nhưng có một mẩu tin nhắn gởi vào điện thoại di động
của tôi: “Đừng lấy vải thưa che mắt thánh”. “Thánh” nào đây nhỉ? “Thánh” nào mà theo dõi tôi trên từng cây số vậy.
“Thánh” nào mà săn sóc con dân trong nước kỹ càng đến thế, nhưng biên giới và hải
đảo dần dần rơi vào tay kẻ lạ thì “Thánh” lại không biết...” (xem Vũ Sinh
Hiên, Sau Một Chuyến Đi, viết tại Phú
Nhuận tháng 10/2011)
Hôm nay, lại có người cũng như tôi tức
“bầy tôi đây là bần đạo” chứ không phải bạn, tức: các bạn đạo của tôi, vẫn âm
thầm những hỏi và hát. Hỏi và hát, là hỏi: các “thánh” nhà mình có hay hát những
câu như ở nhạc bản trên, rằng:
“Lòng
ngậm ngùi buồn vắng cố hương
Tiếng đàn gió hòa tiếng mến thương
Thuyền đời còn nhiều lúc lênh đênh
Tình đời gần còn lúc có xa
Nhớ đâu hình bóng ngày qua.”
(Hoàng Giác – bđd)
Có thể là, bạn hiền của tôi, nhà họ
Vũ tên Hiên hoặc các bạn khác cũng hiền như Hương Nam, Vũ Nhuận và nhiều nữa,
cũng từng hỏi và hát những điều như thế. Và như thế, tức: nhiều người, có lẽ
cũng giống bầy tôi đây chứ nhưng không như “bạn đạo” đang đọc giòng suy-tư này,
vẫn trải qua những ngày nhớ đến các “hình bóng ngày qua” trong đời bềnh bồng,
tin tưởng vào chuyện đời thường.
“Bóng
Ngày Qua”, lại vẫn nghe như: “Ngàn
sao bốn bể sao im vắng”, thấy cũng ngán. Ngán ngẫm nhiều, khi nghệ sĩ cứ
hát thêm những câu rất mến thương như sau;
“Một
bóng đang lạnh lùng đi
Chìm đắm trong đêm
Đi không bờ bến
Đôi mắt đăm đăm nhìn cõi
hư vô
Tìm lại ngày xa ... vắng
... xa
Mờ xa khuất đồi xanh êm ấm
Xa thế nhân say mơ giấc
điên cuồng
Không biết chăng một
bóng trong sương
Ngơ ngác đang đi tìm một
ngày qua.”
(Hoàng
Giác – bđd)
Cũng
một ngày, lòng những “ngậm ngùi vắng bóng
cố hương”, “trong sương”, bần đạo bầy tôi vội đưa mắt liếc vào tuần báo The Catholic Weekly hôm 23/6/2013, bèn
thấy đôi giòng chảy của đấng bậc thuộc giới chóp bu ở Tổng Giáo Phận Sydney, cũng
có lời bàn về những “bóng hình qua” của cả một Giáo hội rất thánh, như sau:
“Con
số những người đi đạo, đặc biệt là người Đạo Chúa và người đạo Hồi, đang trên
đà gia tăng, trên thế giới. Có thể, những người theo chủ nghĩa thế-tục sẽ không
thấy vui khi thấy thống kê ra như thế, nhưng hãy cứ tin rằng: vấn đề người đi Đạo
ở Úc, lại đã khác và vẫn tạo nhiều kinh ngạc.
Kinh
ngạc đầu, cho thấy con số người đi Đạo ở Úc đã gia tăng kể từ hai thống kê vào
năm 2006 và 2011. Vào năm 2011, có đến 5,550,000 người Công giáo đi Đạo tại Úc,
như thế là đã gia tăng đến 310,000 so với năm 2006 là năm cũng có gia tăng khoảng
125,000 người so với năm 2001, trước đó.
Lý
do của sự gia tăng này là nhờ vào sinh suất và số người di cư từ nước khác đến
Úc, dù cho khi đó, từ năm 2006 đến 2011, có đến 100,000 người bảo là mình không
còn là Công giáo nữa.
Tổng
dân số Úc châu tiếp tục gia tăng bất kể số người Công giáo ở đây đã tụt giảm từ
1.3% xuống 25.3% vào năm 2011. Nhưng người đạo Hồi ở Úc lại gia tăng đến mức
đáng kinh ngạc, tức lên 70% trong vòng 10 năm từ 476,000 vào năm 2011. Nói
chung, tỷ lệ phần trăm số người này tuy còn thấp ở mức 2.2% dân số, nhưng số
dân theo đạo Hồi ở Úc thuộc nhóm sắc tộc có mức độ gia tăng nhanh nhất ở thế giới
phương Tây. Họ đến từ các nước khác nhau như: Thổ Nhĩ Kỳ cho chí đảo quốc Fiji.
Nói
tóm lại, không một ai từng đến nhà thờ Công giáo đặc biệt là các xứ đạo ở
Sydney, lại kinh ngạc thấy rằng gần như một phần tư các người Công giáo như thế
sinh tại nước ngoài và một phần sáu những người thuộc quá trình không nói tiếng
Anh, đang ở Úc.
Chẳng
có gì khiến ta ngạc nhiên khi thấy con số người trẻ Công giáo vẫn thường xuyên
thờ phượng Chúa đã suy giảm cũng khá nhiều; thế nhưng, họ vẫn tỏ ra chính thống
hơn vào năm 1996 ngoại trừ việc tin vào Chúa sống lại và một phần ba những người
này còn tin việc Chúa xuống thế làm người.” (xem Hồng Y Goerges Pell Tổng Giám mục Sydney, Numbers up, percentage down, The
Catholic Weekly 23/6/2013, tr. 8)
Đấng
bậc vị vọng nói như thế, có giống người viết nhạc lại hát, như sau chăng?
“Lời
nhủ thầm đàn đứt dây tơ
Áí làm chi cuộc sống trong mơ
Cuộc đời còn nhiều lúc khắt khe
Lòng người còn nhiều lúc sắt se
Quên đi hình bóng ngày qua.”
(Hoàng
Giác – bđd)
“Quên
đi hình bóng ngày qua”, có thể là tâm trạng của ai đó trong Giáo hội, chứ
tuyệt nhiên không thể và không là lập trường và động thái của nhà Đạo có các bạn
hiền của mình. Bởi, bạn đạo mình vẫn cứ “tin” rằng “niềm tin” đi Đạo của bạn và
của tôi, là bần đạo bầy tôi đây cũng từng tìm hiểu ý/lời của bậc thày giảng dạy
đã có lời rất thẳng thắn rất nhắn nhủ, khi bần đạo tìm tới để hỏi han, lan man
một tình tiết, rất như sau:
“Ta
thấy đó. Tin là thứ gì đó rất tự-do. Thứ tự do thoát khỏi những gì là chính ta.
Chính đó là đáp ứng. Ứng đáp, từ chính ta. Chính vì ta đã đáp-ứng lại ai đó,
người mà ta chưa từng gặp gỡ, vào lúc trước. Đó, chính là động-tác dính dự; tức:
chính ta chọn được ràng buộc chính mình vào một người nào, để rồi ta cho nó đi
vào với đối kháng; và, ta biết là mình đã tin vào người đó rồi. Ta không chỉ
tin-tưởng vào những gì ta nghe biết mà thôi, nhưng còn tin vào người đó. Ta đặt mình trong tay người
đó, tức: người đó biết rõ mọi sự, hơn cả ta. Và, ta tin vào Chúa, tức: do bởi ta đã gặp Ngài. Ngài là Đấng ta được gặp. Nơi Ngài,
ta có khả-năng để tin theo. Ta tin vào Đức Giêsu và vào Hội thánh của Ngài. Ta
cũng tin vào dân con được Chúa tin-tưởng. Và thông thường, ta làm việc đó mà
không biết rõ chi tiết hoặc chưa từng làm sáng tỏ câu chuyện mình muốn nói, thật
ra là có ý nghĩa. Ta không cần đến những chuyện như thế. Ta đã có mặt ở đó. Và,
ta tin. Thế là đủ.
Niềm
tin, thật ra là quyết định của ta. Là, chọn lựa do ta tự-do tạo ra và nhất
quyết can dự.
Khi sự
việc đến với ta, ta lại không tìm được Chúa. Mà, chính Chúa đã tìm ta. Sau đó,
ta mới lại khám phá ra: đó chính là Ngài. Và, Ngài tiếp tục là Đức Chúa. Tiếp
tục là Đấng ban cho ta quà niềm-tin. Ta không thể xác chứng điều đó cho bất cứ
ai. Nhưng, đến lượt mình, ta lại có thể kể cho ai khác biết được chuyện đó và
làm chứng cho mọi người, rằng: như thế là Chúa, bởi tự thân, ta chẳng biết cách
làm như thế. Và từ đó, ta biết ơn Chúa và tri ân những người từng làm nhân
chứng cho ta. Bởi, cùng đồng hành với họ, ta trở thành kẻ tin, cũng rất vững.
Ngày
nay, người ta nói nhiều về nhu cầu đòi Giáo hội phải canh-cải việc ‘rao truyền
Đạo Chúa’. Điều này có nghĩa: Giáo hội cần yêu cầu những người trong Đạo phải
quyết tâm tin. Phải thật sự có niềm tin đích-thực. Tin, như thể mình chưa bao
giờ tin được như thế. Có thể là: trước đây, những người như thế cũng từng đồng
hành mang theo sự tin tưởng, rất tương tự. Nhưng, xem ra như thể: mình đã chẳng
tin vào những chuyện ra như thế? Giáo hội, cũng có nhiều người từng lĩnh-nhận
bí-tích thanh-tẩy, cũng đi lễ và rước Chúa vào lòng cũng như từng nghe giảng
giải các sự việc này khác, nhưng chưa từng ngồi lại mà nhìn vào chính mình, để
tìm xem những gì đã và đang thực sự xảy đến bên trong con người mình. Chúa vẫn
hiện diện với mình ở trong đó. Và, Ngài trao ban cho mỗi người và mọi người quà
tặng niềm-tin. Mọi kẻ tin đều xác chứng được điều đó, cho chính họ. Nhưng chừng
như họ chưa từng có lập trường tư riêng tạo cho mình, để rồi khi niềm-tin sờ
chạm chính con người mình, thì mình mới đáp ứng theo cung cách riêng tư và thực
sự. Tất cả mọi người, ai cũng cần gặp lại người-chứng là những người sờ chạm
vào người mình, để rồi dẫn đưa mọi người đi vào mà đáp ứng với niềm-tin
trung-thực hơn là chính mình từng ban phát cho người khác. Và, điều này ta gọi
là “cải-tân rao truyền Lời Chúa”.
Chúa
lúc nào cũng sẵn sàng có mặt với ta một khi ta chuẩn bị cho chu đáo. Chúa thực
sự hiện diện ở trong đó, nơi ta; nên, mọi biến đổi đều ở nơi ta, và trong ta.
Đến với
niềm tin là quy-trình luôn thăng-tiến trong mọi quan hệ. Quan-hệ giữa Chúa và
ta, cũng như giữa ta và người khác. Đó là: sự thể đã và đang hiện hữu, rất đích
thực. (xem
Lm Kevin O’Shea CSsR, “Tin, Động-tác phát tự con tim”, giáo án giảng dạy tại
Đại Học Công Giáo Strathfield Sydney 25/5/2013)
Vâng. Đúng như đấng bậc thày dạy của
bần đạo nói ở trên: Ngày nay, người ta
nói nhiều về nhu cầu đòi Giáo hội phải canh cải việc ‘rao truyền Đạo Chúa’. Canh
cải, không chỉ từ bên trên bằng cách đặt ra “Năm Thánh Đức Tin”, mà thôi. Canh
cải, không chỉ cứ bảo mãi, rằng: “Đừng
lấy vải thưa(mà) che mắt thánh.” Bởi, nếu quan niệm các thánh chính là mọi
dân con đi Đạo và sống Đạo mà thánh Phaolô từng gọi thế, thì mắt thánh đây
nhiều như “mắt khóm” ở quê làng trồng trọt. Canh cải việc truyền Đạo, còn là
cải canh cả tâm tư/tâm-tưởng, lẫn linh đạo. Như nhận định của ai đó, trên báo
chí, rất như sau:
“Năm
2007, các nhà khảo sát nghiên cứu xuất từ Đại Học Công giáo và Đại học Monash ở
Úc có đưa ra một báo cáo về linh-đạo của thế hệ Y, so với niềm tin đi Đạo của
những vị thuộc thế trước đó.
Điều
thú vị gặp được ở bản báo cáo này, là: họ nhận thấy rằng niềm tin tưởng của thế
hệ trẻ thay đổi chỉ chút ít so với các thế hệ trước đó, tức: vẫn nhấn mạnh lên
tầm ảnh hưởng có từ niềm tin của bậc cha mẹ lưu truyền cho con cái.
Một
khám phá khác nữa, là: thế hệ Y so với các thế hệ trước đó, đánh giá cao lên
quan hệ gần gũi với bè bạn và lên cuộc sống vui tươi, hấp dẫn. Trong khi giới
trẻ ao ước một thế giới an hoà, chính đáng và lành mạnh, thì chuyện tôn giáo và
linh đạo thông thường vẫn không được coi là quan trọng.
Nói
chung thì, bản kháo sát thách thức các trường Công giáo hãy thử dấy lên và dẫn
truyền nơi người trẻ một đánh giá cao hơn nữa truyền thống linh đạo nơi Hội
thánh.” (xem
Molly Hancock, Spirituallity Among Young
People, Australian Catholics Winter 2013 tr. 13)
Không cần biết các
bạn “trẻ người non dạ” nói ở đây có thuộc về thế hệ Y hoặc Z hay không. Chỉ cần
biết, bạn trẻ cũng như bạn già chúng ta, vẫn cứ kiếm tìm niềm tin “xuyên suốt”
những tháng ngày rày nung náu. Nung và náu, vẫn quyết tâm sống một cuộc sống có
tình thương yêu đích thực trong thế giới phàm trần vẫn đang thiếu tình thương
yêu chuyền cho nhau.
Sống quyết tâm có tin và yêu trong
thế giới phàm trần, còn là sống như người anh người chị đi trước, cũng từng
sống thân thương, mẫu mực như truyện kể ở bên dưới:
“Cha Giuse Bùi Văn
Nho, cha sở họ Jeanne d’Arc Ngã Sáu Chợ Lớn thuật truyện như sau:
Một đêm thanh vắng,
mọi người đang an giấc, thành phố ngủ yên, bỗng chuông điện thoại reo vang. Tôi
cầm ông nghe.
-Đây, bệnh viện Hồng
Bàng, xin mời cha đến, có sư bà muốn xưng tội. Tôi ngạc nhiên đáp:
-Sư bà thì làm sao
xưng tội được! Nếu bà muốn theo đạo, thì phải dạy giáo lý cần thiết cho bà rồi rửa
tội ngay cho bà đi.
-Thưa cha, bà sư này
là người Công giáo, xin mời cha đến ngay, bà đang trong tình trạng nguy hiểm vì
thổ huyết quá nhiều.
Bà phước coi bệnh
viện xác nhận với tôi như thế, trong điện thoại. Tôi chạy ngay đến bệnh viện,
thấy sư bà nằm liệt giường, không nói được, nên tôi hỏi vắn tắt để biết bà có
là người Công giáo không thôi.
-Tên thánh bổn mạng của bà là gì?
-Maria Anna.
Câu trả lời của sư bà
đủ để tôi ban các phép sau hết vì không thể hỏi thêm được nữa. Tôi giúp bà
thống hối tội lỗi, rồi ban phép giải tội và các phép cho bà. Ra khỏi trại, tôi
dặn bà phước: Tình trạng bà quá nặng, tôi phải ban các phép sau hết cho bà. Nếu
mai mốt sư bà tỉnh lại, dì phải cho tôi hay để tôi bổ khuyết cho bà. Qua bốn
hôm, bà phước cho tôi hay, sư bà tỉnh lại, tồi liền đến và trước khi xưng tội,
tôi bảo sư bà cho biết lý lịch. Thì bà kể:
“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách,
thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là đoàn
viên của đoàn Con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi, có một thanh niên ở Sàigòn quen biết
con, xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến ngày hẹn cưới, vị hôn
phu con xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh về Sàigòn và dặn
con an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà bặt vô âm
tín. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sàigòn tìm kiếm, mặc dầu cha mẹ và cha
sở can ngăn không cho. Ăn cắp ít tiền của cha mẹ, con trốn lên Sàigòn bơ vơ như
gà lạc mẹ, tìm được nhà một chị bạn đồng hương để trọ, ngày nào cũng đi dò la
tin tức mà không gặp tông tích người xưa. Một hôm, con đi dự thánh lễ tại nhà
thờ Huyện Sĩ, tình cờ trông thấy vị hôn-phu của con mà anh ta không trông thấy
con. Lễ xong, con đi theo dõi về tận nhà anh ta, mới biết anh ta có vợ và một
con. Con bủn rủn tay chân, tâm hồn hồi hộp xao xuyến như muốn té xỉu. Rồi con
buồn bã đi lang thang không biết xử trí thế nào? Về nhà thì xấu hổ với chị em
bạn, lại sợ cha sở và cha mẹ quở mắng.
Sống lây lất ở Sàigòn được bốn tháng, tiền
hết, thất nghiệp, thất tình, con vào Chợ Lớn tìm việc, bị mưa lớn, con liền trú
mưa tại một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành ở lại chùa ngủ đêm.
Sáng hôm sau, không biết vì sao mà cứ nấn ná ở lại không muốn ra đi. Nhà sư trụ
trì chùa, thương hại cho con ăn cơm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị
với con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra Huế, vì thấy con sắc sảo, thông minh,
lại tiếng hát hay (vì trong mấy ngày buồn, con thường hát nho nhỏ cho khuây).
Bỗng nhiên con đồng ý và nhà sư đã biên giấy giới thiệu và cho con cả tiền lộ
phí nữa.
Ra Huế tu được 20 năm, đã được giấy chứng chỉ
của Đức Bảo Đại, nhận là bậc chân tu, con được lệnh vô Sàigòn lập chùa cho sư
nữ vì trong Nam chưa có. Nhưng vì vào đây được ít lâu, con bị bệnh lao phải nằm
nhà thương sáu tháng rồi. Mỗi lần con thấy cha vào thăm bệnh, đi qua giường
con, con muốn nói mà không mở miệng nói ra lời, chỉ cúi đầu chào. Hôm qua con
bị thổ huyết, mới đánh bạo nói thật với bà phước, nhờ bà rước cha đến...”
Bà sư sống thêm hai
tuần nữa rồi qua đời khi đã hoàn toàn trở về với Chúa. Bà vừa tắt thở, có sự
rắc rối xảy ra: một nhà sư đến trách tôi đã cướp mất sư bà của họ. Thiếu chi
người khác sao cha không dụ dỗ theo đạo mà cha lại dụ dỗ người của chúng tôi?
Tôi giải thích mấy, ông cũng không bằng lòng, nhất là khi nói sư bà trước là
người Công giáo, ông càng thắc mắc hơn, không tin. Sau cùng, tôi để bên chùa tự
do làm lễ an táng theo nghi lễ Phật giáo. Sư ông vui vẻ đồng ý. Nhưng hai giờ
sau, nhà sư lại đổi ý trái ngược lại và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường
sự an táng bà này cho bên Công giáo.” Tôi
ngạc nhiên vì sự thay đổi mau chóng đó, thì được nhà sư giải thích: “Trong
khi chúng tôi thay đổi xiêm áo cho bà, đã nhận ra trong bóp của bà một lá thư
nói rõ quê quán, tên thật và tên cha mẹ, và xin tin cho cha mẹ hay là đã chịu
các Bí tích cuối cùng trước khi chết. Bà còn thêm: Tôi muốn được chôn cất theo
nghi lễ Công giáo. Vì thế, chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo và chỉ
tiễn chân bà tới huyệt.” Đám tang có rất
đông sư đi đưa và chỉ có tôi là linh mục. Sau khi tôi nghe nhà sư nói, tôi chạy
đến bệnh viện nhờ bà phước lo liệu mọi việc theo nghi lễ Công giáo, thì bà
phước trao cho tôi cái bóp của bà, tôi liền xem xét thì thấy ở một ngăn có một
mẫu ảnh thay áo Đức Bà Núi Carmêlô. Tôi tin chắc, nhờ ảnh này, bà sư đã được ơn
trở lại.” (x. Lm Bùi Văn Nho: Những trang sử đẫm mồ hôi của họ Chợ Lớn Việt
Nam, tr. 94-100)
“Được ơn trở lại”, theo lời kể và lập trường của cha sở họ Ngã Sáu
Chợ Lớn, là ơn “vẫn cứ tin” vào và tin rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Dân con mọi
người có ở nơi đây, chốn nào hoặc đạo khác, vẫn cứ thế được ơn. Dù có trải qua
20 năm lưu lạc kiếm tìm gặp gỡ Chúa nơi người ngoài luồng, ngoài Đạo. Thế đó,
là lập trường tư tưởng của ai đó đó, rất giống bà sư. Thế đó, còn là ý tưởng
nhỏ để bạn và tôi ta cứ trở về với lời của Đấng Thánh Hiền Lành từng xác quyết:
“Thật vậy, tôi rất ước ao được gặp anh em,
để chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Thánh Thần,
nhờ đó anh em vững mạnh,
nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau,
bởi vì cả anh em lẫn tôi,
chúng ta đều chung một niềm tin.”
(Rm 1: 10-12)
Thế nghĩa là, dù ta
có ở đâu đi nữa, chân trời hay góc biển, trong luồng hay ngoài luồng ơn thánh
sủng tràn đầy Đạo của Chúa, thì Chúa vẫn tìm đến ta để tuôn đổ mọi hồng ân, mà
gìn giữ ta cứ thế mà sống khích lệ nhau. Gìn giữ và sẻ san cho nhau “phần nào ân huệ của Thánh Thần.” Thế đó
mới là điều cần thiết ở trong đời. Một đời đi Đạo và sống Đạo.
Quyết thế rồi, nay cứ
mạnh dạn ca lên câu cuối nhạc bản ở trên mà rằng:
“Mờ xa khuất đồi xanh êm
ấm
Xa thế nhân say mơ giấc
điên cuồng
Không biết chăng một
bóng trong sương
Ngơ ngác đang đi tìm một
ngày qua.”
(Hoàng
Giác – bđd)
Như thế nghĩa là: dù
bóng người anh người chị có đi xa khuất mờ, thì đàn em chúng ta, cũng đừng vì
thế mà “ngơ ngác đang đi tìm một ngày
qua.” Bởi, tất cả là ân huệ. Ân huệ trên ban vẫn giữ gìn ta trong Tình Yêu
của Đức Chúa, vẫn cứ gần.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những quyết tâm
Vẫn cứ ân cần với bầu gần xa
Trong ngoài luồng.