Saturday, 30 July 2011

“Lời Mẹ ru con đến những khu vườn”

Ru con trưa nắng (í a) trong mộng, cười ngon.

Ru mộng con thơm, lời Mẹ ru con nghe ra nỗi niềm.

Ru con nghiêng nằm con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông..”

(Trịnh Công Sơn – Lời Mẹ ru)

(Rm 3: 8)

Có lẽ cũng phải nói ngay ở đây rằng: ru cho con ngủ, vẫn cứ là chức năng của người mẹ, mà thôi. Và hơn nữa, ru con ngủ đến độ “con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông…” thì chừng như, đó vẫn là đặc trưng/đặc thù riêng của mẹ Việt Nam, mà thôi. Phải thế không bạn? Phải thế không tôi?

Thật ra thì, với tác giả họ Trịnh, lời Mẹ Việt Nam ru, còn mang nhiều ý nghĩa khác nữa như:

“Thuở mẹ ru, mẹ ru con ngủ, Con ngủ trên mây, con ngủ trên mây Tiếng khóc ban đầu, ban đầu còn đau, còn đau, còn đau…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thật sự thì, tiếng “khóc ban đầu, ban đầu”, “còn đau, còn đau”, chắc gì là tiếng của con trẻ, mà có khi còn là tiếng của bà mẹ nữa, chứ không chừng. Như truyện kể, ở ngay dưới:

“Có chú bé con, cứ lon ton chạy đến bên mẹ rồi lại hỏi:

-Mẹ ơi, sao mẹ lại cứ khóc hoài khóc mãi thế hả mẹ?

-Tại vì… ừ, tại vì Mẹ là phụ nữ.

-Con vẫn chưa hiểu ý Mẹ muốn nói gì. Là phụ nữ, sao mẹ lại cứ phải khóc như thế?

-Mẹ có nói nhiều, thì con cũng chẳng bao giờ hiểu được điều ấy đâu. Sự đời là thế đó…

Thời gian trôi nhanh. Người con dấu yêu vẫn không tìm ra được câu giải đáp, chú bé lại lon ton đến hỏi bố:

-Bố ơi, sao mẹ lại hay khóc thế hả bố?

-Phụ nữ là thế đấy con à. Khóc, là bản chất của phụ nữ mà!

Chú bé con nay lớn dần thành trai tráng, còn rất trẻ. Dù thế, chú vẫn hỏi mình và hỏi người: sao phụ nữ, lại cứ phải khóc nhỉ?

Cuối cùng, thì người trai trẻ chạy đến bèn nhà hiền triết, rất kinh nghiệm, thì được vị ấy cho biết: “Khi xưa Thượng Đế tạo nên đàn bà, Ngài đã ban cho họ nhiều cung cách đặc biệt, khác hẳn nam nhân. Ở đôi vai, Ngài ban cho họ đủ sức cứng cát, để họ có thể đùm bọc cả và thế giới. Với đôi tay, Ngài tạo cho họ đôi tay mềm mại tươi mát. để, họ vỗ về nhiều yêu thương. Nơi tâm can, Ngài còn ban cho họ sức mạnh tiềm ẩn, công thêm lòng kiên nhẫn vượt mức chịu đựng, để các bà có thể cưu mang dỗ dành cả đàn con đông đảo. Ngài cũng phú ban cho họ lòng dũng cảm khó sánh vì, để họ có thể chăm lo nuôi nấng gia đình nhỏ. Cũng rất khó.

Khó đây là ở chỗ: họ có thể đùm bọc và phục vụ bạn bè/người thân cả khi người đó có xuôi tay, ngã gục. Có điều tuyệt vời hơn nữa, là: dù nhọc nhằn, mệt mỏi mấy đi nữa, các bà các cô vẫn chẳng khi nào hé miệng để vãn than, nỗi nhục nhằn. Thượng Đế lại cũng ban cho người phụ nữ phụ một tình cảm tươi mát, dễ chịu để các bà có thể thương yêu đàn con đông đảo, ở mọi nơi. Suốt đời. Cả vào lúc, đàn con lớn nhỏ cứ hè nhau làm mẹ mình đau khổ.Thượng Đế vẫn ban cho các bà một sức mạnh vô song, để còn nâng đỡ chồng chỏi mọi khuất tất, mỗi khi người chồng của mình vấp ngã. Làm như thế, Thượng Đế tạo dựng phụ nữ từ xương thịt của người nam. Để bảo vệ con tim của họ.

Không những thế, Ngài còn ban cho các bà tính khôn ngoan, sáng suốt để biết rằng: người chồng tốt, là nguời chẳng bao giờ làm tổn thương danh dự phụ nữ. Không khi nào phụ rẫy vợ mình. Có thế, người người mới thông hiểu được sức chịu đựng vô song, của bất kỳ người nữ nào khác. Chỉ phụ nữ, mới có thể đứng cạnh và đứng sau chồng mình, tạo thuận lợi cho chồng thành công. Nhằm giúp tất cả nữ phụ hoàn thành chức năng, Ngài trao phó, Thượng Đế lại đã ban thêm cho phụ nữ nguồn nước mắt dôi dào, dễ rơi trào. Thế nên, mỗi khi ta thấy người phụ nữ khóc, hãy đem bình an đến với họ, tự thâm tâm. Hãy trân trọng giọt “nước mắt ngà, của phụ nữ…”

Khóc, vào khi ru con ngủ, các bà mẹ đều có thể khóc bằng tiếng ru vời vợi, như ở dưới:

“Lời mẹ ru đêm vắng ngón tay hồng Ru con khôn lớn ( .í... ... a) con Rồng Rồng Tiên con ngủ cho yên. Một đời ru con nên mắt ưu phiền đôi khi cũng ưu phiền con ngủ giấc hiền Mưa nhỏ ngoài đêm lá đổ ngoài sân Lá đổ ngoài sân để ru mẹ ngủ…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khóc, khi nhớ con, mẹ nào mà chẳng khóc bằng nuớc mắt, cũng rất thật. Chí ít, là khi, người mẹ để mất đi đứa con, chưa gặp mặt. Hoặc, khi lòng mình nhiều hối hận, hơn một lần trót dại. Nghe xúi dại. Và, cứ tưởng Đạo mình sẽ dễ dãi, cũng bỏ qua.

Khóc, nhiều khi, không chỉ là chức năng của riêng người mẹ. Mà là, cung cách diễn tả nỗi niềm chua cay. Nghẹn ngào. Khó bộc lộ. Khóc, có lúc, là hối hận triền miên, do sai sót. Không nắm rõ tình tiết luật lệ, ở Đạo Chúa. Như, câu hỏi của độc giả nọ gửi về ban biên tập báo The Catholic Weekly Sydney, với lời lẽ đơn sơ. Thật thà. Và dễ cảm thông như sau:

“Tôi lấy làm lạ, sao có một số báo Công giáo lại cứ cho rằng: việc nạo giết thai nhi, theo luân lý, chẳng bao giờ được cho phép làm thế, trừ khi sự sống của người mẹ có nguy cơ không cứu nổi, nếu sanh con. Nay, xin mạn phép hỏi linh mục rằng: quyết đoán như thế có đúng không? Trường hợp này là thế nào?(Một giáo dân)

Với đức thày nhà Đạo ở Sydney vốn rất nghe quen và chuyên trị về thần học/giáo luật, thì câu hỏi đây, tuy đầy thắc mắc, nhưng cũng dễ. Dễ, là vì xưa nay có bao giờ Hội thánh lại ung dung cho phép những chuyện như thế xảy ra đâu. Thế nên, lời bàn của Đức thày, ở đây, vẫn thế này:

“Ông bạn ngạc nhiên là phải. Bởi, có khi nào chuyện nạo phá thai lại được cho phép thực hiện cách dễ dàng như thế đâu. Cả khi sự sống của người mẹ khó có cơ cứu vãn nữa. Nhưng, hãy để tôi có đôi lời giải thích, cho minh bạch. Ngọn ngành.

Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã đề cập rất dài về vấn đề này, trong tông thư có tựa đề là Evangelium Vitae (tức “Lời Sự Sống”) ban hành năm 1995. Nhận thấy có sự mù mờ dễ lẫn llộn trong đầu óc của rất nhiều người về định nghĩa thế nào là phá thai, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã định nghĩa rất rõ như sau: “Nạo phá thai có suy tính đơn giản vẫn là hành động giết người, cách trực tiếp/có cân nhắc, dù dưới hình thức nào cũng thế. Giết người, ngay giai đoạn đầu bản thể vừa hiện hữu, cho đến khi cưu mang và sinh đẻ.” (x. Tông thư Phúc Âm của Sự Sống #58)

Sau khi tóm tắt các luận cứ từ luật tự nhiên, ngang qua Kinh thánh, Truyền thống và Giáo huấn của Hội thánh, Chân Phuớc Gioan Phaolô II đã khẳng định với quyền uy đầy đủ của vị Giáo hoàng đương đại bằng ngôn từ không mờ tối, ngài còn nói rất rõ: Hội thánh nghiêm cấm việc phá thai, như sau: “Với quyền uy được Chúa ủy thác cho thánh Phêrô và các vị kế nhiệm của ngài cùng hiệp thông với các Giám mục –là các vị từng lên án việc phá thai trong nhiều trường hợp có hội ý cẩn trọng được lan truyền nhiều nơi trên thế giới, các vị đã đồng chấp thuận về tín lý này- Tôi tuyên bố rằng việc trực tiếp phá thai, là việc nạo giết thai nhi có ý thức coi đó như mục đích hoặc phương tiện, cốt tạo sự bất ổn nặng về luân lý, bởi đây là hành động giết người có chủ tâm. Rõ rang là, giết chết đi hữu thể vô tội.” (x. Tông thư Lời của Sự Sống #62)

Và Chân Phước Gioan Phaolô II cũng lặp lại lời khẳng định rằng giáo huấn này không luật trừ: “Không một ai, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, bằng vào bất cứ mục đích gì, ngang qua luật pháp gì lại có thể biến hành động tự nó đã phi pháp, lại trở thành hợp lệ được. Bởi, điều ấy nghịch với Luật của Chúa viết trong tâm khảm mỗi người, được chính lý trí của mình dạy cho mình biết, và cũng được Hội thánh công bố, cách minh nhiên.” (x.Tông Thư Lời Sự Sống như đã dẫn #62)

Qua Giáo huấn không sai sót này, rõ ràng việc nạo giết thai nhi chẳng bao giờ được biện minh, cho phải lẽ. Dù, có để cứu vớt sự sống của người mẹ, đi chăng nữa. Cũng không thể chấp nhận được. Chính Đức Chân Phước Gioan Phaolô II từng nói rõ: “Không hoàn cảnh nào. Cũng chẳng vì mục đích gì hết…” lại có thể biến việc nạo giết thai nhik thành hành động hợp lệ, được hết.Dù cho có sử dụng việc đó như cái cớ để cứu vớt sự sống của người mẹ, nữa.

Nói khác đi, việc này cũng đơn giản như sử dụng nguyên tắc ai cũng biết là cứu cánh biện minh cho phương tiện được. (x. Rm 3: 8). Trực tiếp nạo giết thai nhi, vốn là hành động bất hợplấy sự sống của chính mình được.

Thánh nữ Gianna Beretha Molla còn chỉ dẫn nhiều điều về vấn đề này. Là một bác sĩ khoa nhi người Ý có ba con rất kinh nghiệm về sinh sản, thánh nữ lại được chẩn đoán là ngay vào tháng thứ hai bào thai em bé có xơ bướu ở tử cung. Bác sĩ đề nghị bà hoặc nạo phá, bào thai hoặc cắt khối u độc ấy mới tránh được mọi rắc rối về sau. Bà bèn chọn giải pháp sau. Quyết tâm cứu thai nhi, bằng mọi giá. Cũng may, là vụ giải phẫu thành công cứu được thai nhi dù nguy hiểm cho tính mạng của người mẹ. Và 7 tháng sau, khi phải quyết định, một là sự sống của chính mình hoặc của đứa con, thì bà nói với bác sĩ giải phẫu rằng: “Nếu các ngài phải quyết định chọn lựa chính tôi hoặc đứa bé, thì hãy cứ chọn đứa trẻ, đừng do dự. Tối nhắc lại, hãy cứu em bé.”

Vào tảng sáng ngày 21/4/1962, Gianna sinh con gái bèn đặt tên cho bé là Gianna Emanuela. Và, bác sĩ làm đủ mọi cũng không cứu sống được cả mẹ lẫn con, nên một tuần lễ sau đó, tức ngày 28/4/1962, trong cơn đau đến cùng cực, bà đã kêu tên cực trọng mà rằng: “Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết long. Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết long hết linh hồn con. Con phú hồn con trong tay Chúa.” Và, bà đã trút hơi thở cuối cùng, ngay sau đó. Hưởng dương 39 tuổi. Và, chính Chân Phước Gioan Phaolô II là người đã phong thánh cho Gianna Beretta Molla vào ngày 16/5/2004.

Trong đời mình, thánh nữ Gianna Beretta Molla đã sống đích thực lời dạy của Hội thánh trong việc bảo vệ sự sống của thai nhi, hy sinh chính cuộc đời mình hơn là giết chết chính con mình. Có lần thánh nữ từng quả quyết: “Với tư cách là y sĩ, không ai được phép can thiệp vào sự việc này. Quyền của con trẻ có ngang bằng quyền của người mẹ, phải được sống. Không một y sĩ nào lại có quyền quyết định những việc như thế. Giết bào thai trong bụng mẹ, tức là mang tội tày trời, với nhân thế.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 20/11/2008, tr. 10)

Tội tày trời, bao giờ chẳng là thế. Chí ít, là theo luật Đạo. Luật tự nhiên. Luật của lương tâm. Trách nhiệm. Có nhân quyền. Người nhà Đạo, không có gì phải chối cãi. Không giống như người đời, ở ngoài đời, vẫn cứ ru ời ợi, nhưng lời ru còn vang vọng rất nhiều đời. Nhiều kiếp người, như sau:

“Lời mẹ ru như tiếng hát trên trời

ru con ru mãi (i...i... a...)

Nên người mẹ vui

Ru bạc tóc thôi

Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn

Nên mây xa đường trần

con ngủ giấc hồng

cho mẹ tròn lưng

Thuở mẹ ru

mẹ ru con ngủ

Con ngủ trên mây

con ngủ trên mây

Tiếng khóc ban đầu

ban đầu

còn đau

còn đau

còn đau…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Cũng một lời lẽ rất tương tự, thánh nhân nhà Đa vẫn từng ru dân con trong Giáo hội, để rồi hỏi:

"Sao ta không cứ làm điều dữ đi,

để nhờ đó mà được điều lành? "

như có những kẻ vu cho chúng tôi

nói câu đó.

Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.”

(Rm 3: 8)

Cũng trong tình huuống rất “ru ời ợi”, thánh nhân còn khẳng định them:

“Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không?

Không hơn gì cả!

Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng

mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị tội lỗi thống trị.

Như có lời chép rằng:

Không ai là người công chính,

dẫu một người cũng không;

chẳng ai có lương tri,

chẳng ai kiếm tìm Thiên Chúa.

Người người đã lìa xa chính lộ,

chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi;

chẳng có một ai làm điều thiện,

dẫu một người cũng không.”

(Rm 3: 9-12)

“Chẳng một ai làm điều thiện”. Phải chăng đó là một nhận định, về cách hành sử của người đời. Xưa cũng như nay. Một hành xử, nhìn theo nhãn giới của nghệ sĩ ở đời, sẽ như sau:

“Rồi một mai con đã lớn khôn rồi con thôi thơ ấu (... ...a) Mẹ rời thật mau Mẹ rời chiêm bao Đời mẹ ru con bao lâu mỏi mòn Nên lâu cũng mỏi mòn Bây giờ mẹ nằm Lá đổ ngoài sân..”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hẳn bạn cũng như tôi, sống ở đời, chẳng dám quyết đoán những lời như thế. Bản thân tôi, đâu là người lành thánh, nên càng không dám nói. Và, cũng chẳng dám ru. Lâu lâu, giỏi lắn cũng chỉ dám quay về với chuyện vui ngưởi đời kể lể, mà nhận ra được chân lý nào đó. Chí ít, là thứ chấn (tình rất có) lý, của cuộc đời, ở phía chân trời nào đó, có những truyện kể rất ngắn để suy tư, như câu truyện ở bên dưới, rất ư là ngắn. Không khó hiểu. Dễ lựa chọn:

“Truyện rằng:

Ở ngoà toà hôm ấy, vị quan toà chất vấn bị can, bằng ngôn ngữ không mấy khó hiểu, như câu hỏi:

-Có phải bà là vợ của nạn nhân không?

-Chính là thế, thưa toà.

Thế tại sao bà lại dính vào chuyện thúc ép ông nhà tự vẫn?

-Không phải thế đâu, thưa Toà. Tôi nói nhỏ với ông ấy có vài câu rất đơn giản, răng: “Này, tôi bảo cho mà biết: đừng có hòng Mà tính chuyện ly hôn với chẳng ly dị. Giữa tôi và đầu xe lửa, ông cứ việc chọn”. Và thế là ông ấy chọn cái đầu tầu khỉ gió kia, đấy chứ…”

Vâng. Chính thế. Rút cuộc một đời, chuyện gì cũng chỉ là lựa chọn chọn. Lựa chọn sự sống, của riêng mình, hay của ai đó. Chí ít, là con mình. Còn ở trạng thái thai nhi. Chọn ai và chọn gì cũng đều kéo theo một hậu quả. Có khi là sơ xuất, đến chết người. Cuối cùng, cuộc sống nhà Đạo cũng thế. Tức, cũng tùy vào lựa chọn của mỗi người. Bởi thế nên, vấn đề đặt ra hôm nay, chính là: Tôi sẽ chọn thứ gì đây. Niềm vui. Sống ích kỷ. Hay, huấn truyền cùng Lời Vàng của Hội thánh, rất Kitô? Câu trả lời xin dành cho tôi. Cho bạn. Cho mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Chỉ dám chọn cho mình,

một quyết định

liên can đến chính mình mà thôi.

Chẳng dám khuyên,

cũng chẳng chọn

giùm ai.

Bao giờ..

.

Saturday, 23 July 2011

“Rồi đây, mây xám bay qua rồi”

“Trong gió reo hẹn ước, không thôi” Là lúc, tin yêu lên ngôi Ta hát, khúc chung đôi.”

(Lê Trọng Nguyễn – Chiều Bên Giáo Đường)

(1Cr 10: 25-27)

Bên giáo đường, vào buổi chiều, mà lại thấy “mây xám bay qua rồi”, và những là: “tình yêu lên ngôi”, “ta hát khúc chung đôi”, thì ôi thôi, thật quá đẹp! Tuy là thế, nét đẹp ấy còn nhân lên thêm rất nhiều lần, khi người người hát câu tiếp:

“Vàng rơi, bên gót chân son mềm,

Trên lối đi về xứ hoa duyên

Tà áo trinh nguyên tung bay, nụ cười thân ái.”

(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

“Nụ cười thân ái” ấy, hôm nay đây, không chỉ thấy có ở giáo đường, vào buổi chiều. Nhưng, sẽ còn thấy dài dài, khi “tà áo trinh nguyên tung bay’, “trên lối đi về xứ hoa duyên”, “gót chân son mềm”, ánh vàng rơi.

Phải thế không anh? Có đúng không chị? Hỡi người anh/người chị của tôi và của bạn, vẫn cứ lân la bên giáo đường, những buổi chiều? Hỏi là hỏi thế, chứ bần đạo đây, nay biết chắc một điều, là: nhiều người/nhiều vị, dù đã có tuổi hay chỉ mới có tên ở xứ đạo lền khên bên nhà, vẫn thích mục “khi-ly-khi-tô” ở nơi nào, hơn là đến “bên giáo đường”, mà nguyện cầu!

Dĩ nhiên, đây chẳng là xác quyết của một ai. Nên, cũng không cần bằng chứng. Bởi, tìm bằng chứng mà làm gì, khi trên trang mạng ngày nay vẫn thấy đầy những truyện kể rất dễ nể, như sau:

“Truyện rằng:

Có cô vợ trẻ, thuờng đi làm về trễ, nên chồng ở nhà cũng không thấy có gì để lo lắng. Nhưng một hôm, cô về trễ hơn mọi ngày nên nghĩ rằng chồng mình ở nhà sẽ rất lo, bèn vội báo cáo ngay khi vào tới cửa:

-Hú hồn! Thoát rồi anh ạ!

-Thoát, là thoát gì thế, em?

-Thoát chết đấy! Tối nay trên đường về, em gặp một tên vô lại nó dí dao vào cổ em rồi quát tháo: Yêu thì tha, kêu la thì chết!

-Trời ơi! Thế rồi làm sao? Em giải quyết thế nào?

-Em xin tha. Thế là nó tha, chẳng cần yêu iếc gì hết….”

“Chẳng cần yêu”, ý nghĩa câu nói ở trên là thế nào, làm sao biết? Chỉ biết mỗi điều, là: chắc cô vợ và tay tệ nạn cũng chỉ hiểu ý nghĩa chữ “yêu”, không theo lẽ Đạo, nên mới thế? Chắc, người người ở đời vẫn hiểu tình yêu theo nghĩa chữ, ở bên dưới:

“Theo hoá học, tình yêu là phản ứng hoá học sinh ra axít.

Theo vật lý, tình yêu là lực hút mạnh hơn lực của trái đất, vẫn cứ hút.

Theo toán học, thì tình yêu là phép trừ của túi tiền, phép chia của trái tim, phép nhân của cộng đồng nhân loại, và phép cộng của rắc rối, trong cuộc đời.

Theo văn học, thì tình yêu là cuốn sách dầy đọc từ đầu trang đến cuối trang, vẫn không hiểu gì cả!…”

Vâng “yêu” là như thế. Cả người nói lẫn người nghe vẫn chẳng hiểu gì, như ca từ ta cứ hát:

“Hồi chuông thiêng sức loang mây trời

Rung nắng Xuân chiều xuống chơi vơi

Lời hát vang đưa cô liêu bên giáo đường yêu.”

(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

Không hiểu gì, là bởi: làm gì có chuyện “đưa cô liêu bên giáo đường yêu.” Giáo đường bao giờ mà chẳng rất “yêu”, chứ nào có cô liêu. Cô đơn. Hay cô độc! Có cô liêu chăng, chỉ gồm những bạn gặp phải tình buồn, chốn yêu đương thần thánh, có giáo đường thần thiêng đồng đạo vẫn yêu Chúa. Yêu người. Nên, đâu dám hát lời ca buồn, sau đây:

“Nguyện cầu gục đầu bên hoa mắt, ướt nhòa

Hồn anh buồn trống duyên anh còn sống đời bềnh bồng

Nguyện cầu gục đầu bên nhau mắt, ráo sầu

Xa dần đen tối tìm màu Xuân mới, trên làn môi.”

(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

Mắt em và mắt tôi, dù có “ướt nhoà”, “sầu buồn”, “hồn anh (có) buồn trống”, “sống đời bềnh bồng” gì đi nữa, thì “màu Xuân mới” vẫn cứ đến “trên làn môi” của anh và của tôi, vẫn đang cười. Rất nở rộ. Và, hồn anh/hồn tôi, cũng như hồn mọi người dù khô cứng, đọng ngưng, vẫn hy vọng tình Chúa đỡ đần. Giùm giúp. Cũng chóng thôi.

Hồn khô cứng, rất ngưng đọng, là tâm trạng của dân con đi Đạo vào mọi thời. Chí ít, là thời có nhiều thứ hấp dẫn hơn chuyện “Chiều bên giáo đường”, kể ở trên. Giáo đường hôm nay, còn nhiều người vẫn ưu tư/thắc mắc về động thái/hành xử ở giáo đường, mỗi sáng chiều. Vì ưu tư/thắc mắc, nên có vị đã phải chạy đến với đấng bậc để hỏi han, lan man một tình tiết rất như sau:

“Thưa cha. Con cũng chẳng biết những gì đang xảy đến với con vào lúc này. Nhưng, sao con cứ thấy tâm hồn khô khan, nguội lạnh mỗi khi đọc kinh cầu nguyện không giống như dạo trước. Tức là, độ này con không còn thấy sốt sắng đi nhà thờ đọc kinh, hoặc chầu Mình Thánh Chúa nữa. Và, con cảm thấy như Chúa đang ở nơi nào đó, rất xa vời đối với con. Nhiều lúc, con lại nghĩ là: không biết mình có nên tiếp tục đọc kinh cầu nguyện không, khi lòng mình ra chai đá, cả vào lúc này. Theo cha nghĩ thì con nên làm gì đây, bây giờ? (Một giáo dân thắc mắc rất nhiều điều)

“Thắc mắc rất nhiều điều”, đâu có là tâm trạng của anh/của chị, rất hôm nay. Không thắc mắc, mới là chuyện lạ. Bởi, bình thường thì đấng bậc nhà mình đâu còn gì để làm, hoặc để phán nếu chẳng có ma nào thắc mắc, với hỏi han! Cụ thể như đấng bậc ở Sydney này những mong và đợi xem có người anh/người chị nào thắc mắc rất như thế, để còn thưa. Và đấng bậc, nay thưa rằng:

“Có thể nói, chị là người thứ hai trong vòng có một tháng trời, vẫn hỏi tôi những câu như thế. Và, tôi tin chắc crằng òn nhiều người khác nữa, cũng thắc mắc những điều tương tự, do bối rối. Bởi thế nên, chúng tôi mới có mục giải đáp các thắc mắc cho bà con, ở cột này.

Điều mà chị hoặc ai đó đang kinh qua cảm nghiệm này, là điều mà nhiều người từng trải, mà chúng ta có thói quen gọi đó là sự khô khan, nguội lạnh về đàng thiêng liêng, đạo đức. Bởi, hay rơi vào trạng huống này, người người đều thấy rằng mình ít sốt sắng hoặc chẳng sốt sắng chút nào hết. Vẫn cứ lo ra/chia trí cách nào đó, không còn thấy mình gần gũi Chúa nữa.

Nhìn vào thời xưa cũ, nhiều người thấy mình không còn như trước nữa. Tức, không dễ dàng tập trung nguyện cầu, gần gũi Chúa. Nay thì khác. Người người vẫn tự hỏi: không biết ta có nên cầu nguyện nữa hay không? Bởi, có nguyện cầu cho lắm, thì cũng đâu làm Chúa hài lòng được nữa.

Thật ra, đây là tâm trạng chung mà nhiều người đang mắc phải. Ngay đến các thánh cũng thấy những trường hợp tương tự. Ai cũng biết, Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng từng kinh qua điều mà mẹ gọi là “những đêm tối trời của linh hồn”, vào những lúc như thế, mẹ Têrêxa thấy như Chúa đang xa rời mình, quá đỗi.

Hệt như thế, thánh nữ Têrêxa thành Avila cũng từng mô tả thời gian dài đằng đẵng, khí đó thánh nữ như cảm thấy rất đau khổ vì sự khô khan/nguội lạnh, khi nguyện cầu. Thánh nữ viết: “Tôi nghĩ, với tôi, thật khó lòng bền đỗ suốt 18 năm liền, phải chịu thử thách như thế. Vẫn cứng lòng tin, là do tôi không thể tập trung suy tư, được. Trong thời gian này, ngoại trừ những lúc rước Mình Thánh Chúa vào lòng, còn ngoài ra, tôi chẳng thể nào dám cầu nguyện mà lại không dùng đến sách kinh. Linh hồn tôi lúc ấy thật đáng khiếp sợ chả dám cầu điều gì nếu; không sao đánh đuổi lũ quỷ cứ chực rình rập mình sơ hở. Bởi, thông thường thì, tôi ít khi gặp phải nỗi khổ chịu cảnh khô kha/nguội lạnh. Điều này chỉ xảy đến, khi tôi không có sách kinh, ở trong tay. Khi ấy, lập tức hồn tôi đâm bối rối; và đầu óc tôi cứ thế rong chơi. Kịp đến khi tôi bắt đầu đọc kinh, thì mọi tư tưởng mới tụ hội trở lại. Như thế, sách kinh đóng vai trò móc mồi câu linh hồn của mình.” (x. Cuộc đời #4)

Khô khan nguội lạnh về đường thiêng liêng/đạo đức có thể chỉ kéo dài một thời gian ngắn thôi. Có thể chỉ vài ngày. Hay vài tuần. Cũng có thể kéo dài cả tháng hoặc nhiều năm. Nếu phải kinh qua tình huống ngặt như thế, ta nên làm gì?

Trước tiên, là nên tiếp tục cuộc sống chuyên chăm nguyện cầu, chẳng cần biết mình thấy lòng trí ra sao. Bởi, ác thần/sự dữ vẫn muốn ta suy nghĩ rằng: nếu thấy mình không còn gần Chúa được nữa, thì cầu nguyện làm gì cho mệt xác. Nếu thế, ta lại càng không nên chào thua để chúng tung hoành mà phá phách.

Từ đó, phải nhận rằng: lời cầu nguyện của ta càng làm đẹp lòng Chúa hơn nếu ta cầu nguyện mà lòng trí lại thấy khô khan, nguội lạnh. Chúa ban cho ta lòng trí sốt sắng để thấy mình gần gũi Ngài như thể Ngài đang đoái hoài nhìn xuống mà cứu giúp, thì khi ấy việc cầu nguyện lại càng dễ hơn. Trường hợp này, ai cũng có thể làm được.

Thế nhưng, khi thấy mình khô khan, khó có thể gần gũi Chúa, thì mình càng phải cố gắng cầu nguyện hơn. Có như thế, càng quý giá trước mặt Ngài. Khi đó, có cầu nguyện cho lung, ta càng làm đẹp lòng Chúa chứ chẳng phải để làm vui lòng mình đâu chứ.

Ta biết chắc một điều, là: Chúa vẫn đánh giá cao động thái nguyện cầu như thế. Nếu ta có khuynh hướng nói rằng mình cũng chẳng muốn cầu nguyện vì thấy khô khan/nguội lạnh và không làm sao thoát khỏi tình huống này, thì khi ấy Chúa sẽ phán: “Ta không đánh giá lời cầu của con bằng cách xem con có ra khỏi cảnh khô khan/nguội lạnh được hay không, mà chỉ xem con có cố gắng đưa vào đó những gì của phần mình, thôi.”

Quả thế. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho biết là cầu nguyện bao giờ cũng đòi hỏi phấn đấu: “Cầu nguyện vừa là quà tặng/ân huệ, vừa là quyết tâm đáp trả, từ nơi ta. Cầu nguyện bao giờ cũng cần cố gắng. Các hình ảnh về việc nguyện cầu trong sách Cựu Ước, trước thời Chúa xuống thế làm người, cũng như lời cầu nguyện của Mẹ Đức Chúa và các thánh, và của chính Đức Giêsu, đều dạy ta điều này: cầu nguyện quả là sự phấn đấu. Phấn đấu kình chống ai? Chống lại mình! Chống mọi chước cám dỗ nào khiến ta xa rời việc cầu nguyện và rời xa, không còn hiệp thông với Chúa nữa.” (x GLHTCG #2725)

Cuối cùng thì, khi thấy mình ra khô khan/nguội lạnh, là lúc ta có dịp tập dượt lại niềm tin trong nguyện cầu. Sách Giáo Lý cũng viết: “Khô khan nguội lạnh, là cung cách chiêm niệm nguyện cầu khi lòng trí ta xa vời Chúa, không cò vị ngọt của tư tưởng, ký ức và cảm xúc. Cả đến xúc cảm thiêng liêng, đạo đức nữa. Đây là thời khắc có niềm tin gắn bó với Chúa khi Ngài ở trong cơn hấp hối, với mộ phần. Thấy khô khan, là do ta thiếu bám rễ sâu. Là, do lời cầu của ta đã rơi xuống đá sỏi, nên cuộc chiến đấu đòi ta hồi hướng trở về.” (x.GLHTCG #2731)

Tóm lại, khô khan/nguội lạnh về đường thiêng liêng, đạo đức có thể có điều lợi là ta dễ đặt mình vào tình huống có ân huệ Chúa ban. Và, có thể có lợi về đường thiêng liêng, đạo đức do sự việc như thế đem đến. Cuối cùng, thì điều quan trọng vẫn là: chớ nên ngưng nguyện cầu bao giờ, dù thấy khó” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 05/6/2011, tr. 10)

Nghe lời khuyên răn/tâm sự từ đấng bậc vị vọng ở trên, tựa như nghe bài giảng thuyết, cũng rất quen. Quen từ hồi, tôi và bạn, ta học giáo lý ở nhà thờ. Rất chuyên chăm. Thầm lặng. Nghe và học như thế, có nghĩa là mình cũng từng nghe, nhưng quên lãng. Thế thì, những người chưa từng nghe và học biết, thì sao? Làm thế nào hiểu được những lời cao siêu/mầu nhiệm, rất cô đọng? Câu trrả lời, có lẽ nên để các thánh nam nữ của Giáo hội, vẫn có thừa phương cách để trả lời, và trả vốn.

Bần đạo đây, vốn đã bần và phần đạo lại lạo xạo chỉ được dăm ba chữ, nên chẳng dám có ý kiến/“ý cò” gì. Chỉ dám trích câu Kinh (rất) thánh qua đó, thánh Gioan từng có thị kiến rất “Khải huyền”, như sau:

“Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến,

thì Ta răn bảo dạy dỗ.

Vậy, hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!

Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.

Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,

thì Ta sẽ vào nhà người ấy,

sẽ dùng bữa với người ấy,

và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.”

(Kh 3: 19-20)

Về với thói quen rất cố hữu khi có những lời hỏi han khá “hóc búa” như trên, bần đạo lại cứ từ từ trở về với ca từ của nghệ sĩ trên để hát thêm lới ca cuối, có đoạn kết, rằng:

“Rồi đây mây xám bay qua rồi,

trong gió reo hẹn ước không thôi.

Là lúc tin yêu lên ngôi,

ta hát khúc chung đôi.”

(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

Khúc chung đôi, là khúc hát của tôi, chứ không hẳn bạn, vẫn muốn hát. Vào lúc này.

Trần Ngọc Mưới Hai

nhiều lúc vẫn muốn hát

vì hát là nhân đôi lời nguyện cầu.

Ở bất cứ nơi đâu.

Saturday, 16 July 2011

“Có lứa đôi yêu nhau rồi,”

hẹn rằng còn mãi khôn nguôi.”

(Johann Strauss Jr/Phạm Duy: Khúc Hát Thanh Xuân)

(2Cr 13: 11)

“Yêu nhau rồi”, thì lứa đôi chắc chắn là sẽ “hẹn mãi khôn nguôi”, như lời dịch của lão gia ngành nhạc, rất họ Phạm. Thật tình mà nói, khi sáng tác nhạc bản này, danh tài Johann Strauss Jr co chọn đầu đề bên tiếng Em (ấy chết, bên tiếng Anh chứ!) là: “When We Were Young” (tức: “Khi ta còn trẻ”) hay không?

Trong khi bên tiếng mẹ đẻ ra bần đạo, thì bậc lão thành nghệ sĩ họ Phạm lại dịch, là: Khúc Hát Thanh Xuân”. Làm như thể, tuổi thanh xuân mới có khúc hát, rất như thế. Chỉ người trẻ mới nói được “nhớ tới câu thương yêu người”, mà thôi.

Bần đạo đây, xin nhân danh các vị cao niên hoặc đứng tuổi, và xin mạn phép bạn Ngọc Trần là người viết lên câu truyện ngăn ngắn ở bên dưới đây, để có lời phản đối, một tí chút. Phản để đối đáp, đối đầu cùng đối chiếu với bạn và với tôi, bằng câu truyện kể rất dễ nể, ở bên dưới mà rằng:

“Ngày đẹp trời nọ, cặp vợ chồng khoảng trên 60, đến văn phòng luật sư làm thủ tục ly hôn. Lúc đầu vị luật sư rất lấy làm ngạc nhiên. Nhưng sau khi nói chuyện với hai vợ chồng, ông cũng hiểu được lý do tại sao, lại có chuyện này…

Hơn 40 năm chung sống, hai vợ chồng luôn cãi nhau, suốt đời. Và, dường như họ chẳng bao giờ đi đến được quyết định đứng đắn nào cả. Họ vẫn chịu đựng nhau như vậy, mãi đến hôm nay là vì con cái. Con cái họ giờ đây đã khôn lớn, có gia đình. Nên, hai vợ chồng già không còn lo điều gì. Họ muốn được tự do sau những năm chung sống, không hạnh phúc. Cả hai đều đồng ý tiến đến ly hôn.

Hoàn tất thủ tục ly hôn cho vợ chồng này, đối với vị luật sư, không phải là chuyện dễ. Ông thực sự không hiểu vì sao, sau 40 năm chung sống, cả hai đã đến tuổi 60 rồi, mà vợ chồng vẫn muốn ly hôn. Đặt tay ký giấy tờ, người vợ bèn nói với chồng:

-Tôi thực sự yêu ông, nhưng không thể sống chung thêm được nữa. Tôi xin lỗi.

-Không sao. Tôi hiểu mà!

Nhìn cảnh này, vị luật sư bèn đề nghị là hai vợ chồng nên cùng nhau đi ăn tối một lần cuối, có luật sư mời. Người vợ nghĩ bụng: “Sao lại không? Ly hôn rồi, mình vẫn là bạn cơ mà…” Bên bàn ăn, là không khí im lặng đến ngộp thở. Món ăn đầu mang ra, là gà quay. Lập tức, người chồng cầm đũa gắp ngay miếng đùi gà trao cho vợ rồi nói:

-Bà ăn đi. Đây là món bà vẫn thích đấy

Nhìn cảnh hai vợ chồng tiếp thức ăn cho nhau, vị luật nghĩ bụng:0 “vẫn còn cơ hội!” Nhưng ngay sau đó, người vợ cau có nói:

-Vấn đề là ở đấy đấy. Ông luôn tự đề cao mình một cách quá đáng. Giờ này mà ông vẫn không hiểu được tâm tư của tôi. Ông không biết là tôi ghét đùi gà đến thế nào sao?

Có một điều mà người vợ không biết, là: bao năm qua, chồng bà luôn cố gắng để làm bà hài lòng. Bà không biết, đùi gà là món ông thích nhất, cũng như ông không biết là bà chưa bao giờ nghĩ là ông hiểu rõ bà hết. Ông không biết là bà thù ghét đùi gà vì bà không nói ra và ông thì chỉ muốn dành những miếng ngon nhất, những điều tốt nhất cho bà, mà thôi.

Đêm đó, cả hai vợ chồng đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, ông chồng không thể chịu đựng được nữa, ông biết rằng ông vẫn còn yêu bà và không thể sống mà lại thiếu bà. Ông muốn bà quay trở lại với ông. Ông muốn nói tiếng “xin lỗi” và “tôi yêu bà”. Ông nhấc điện thoại lên bắt đầu bấm số của bà. Chuông điện thoại reo liên hồi, ông càng tiếp tục giữ máy. Ở đầu bên kia, người vợ cũng thấy buồn. Bà không hiểu điều gì xảy đến sau bao năm chung sống. Ông ấy vẫn không hiểu mình. Bà vẫn yêu ông nhưng không thể chịu đựng cuộc sống như vậy nữa.

Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không trả lời vì biết rằng người gọi cho bà chính là ông, chứ chẳng ai khác. Bà nghĩ: “Nói làm gì nữa, khi mọi chuyện đã hết. Chính mình đòi ly hôn mà! Đã lỡ ném lao thì phải theo lao, nếu không sẽ mất mặt lắm.” Chuông điện thoại vẫn reo. Nhưng bà quyết định dứt dây nối ra khỏi điện thoại. Bà đã quên một điều là ông từng bị đau tim.

Hôm sau, bà nhận được tin ông mất. Như người quẫn trí, bà chạy nhanh đến nhà của ông, nhìn xác ông nằm sõng xoài trên chiếc đi-văng, tay vẫn giữ chặt cần điện thoại. Ông bị nghẹt máu cơ tim trong khi cố gọi cho bà. Bà vô cùng đau đớn. Một cảm giác mất mát quá lớn phủ trùm lên cả tâm trí bà. Bà phải mau mau thanh toán tài sản của ông. Khi nhìn vào phía trong ngăn kéo, bất chợt bà thấy tờ hợp đồng bảo hiểm đã được lập từ ngày cưới, do ông làm.

Đính kèm tờ hợp đồng, là mẩu giấy có giòng chữ ghi rõ: “Gửi người vợ thân yêu nhất của tôi. Vào lúc bà đọc tờ này, chắc tôi không còn sống trên cõi đời này nữa. Tôi đã mua bảo hiểm cho bà. Chỉ mất có 100 đô thôi. Nhưng hy vọng nó có thể giúp tôi thực hiện lời hứa của mình khi lấy nhau. Tôi đã không thể ở cạnh bà được nữa. Nhưng tôi muốn số tiền này tiếp tục chăm sóc bà. Đó là cách mà tôi cũng sẽ làm nếu như tôi còn sống. Tôi muốn bà hiểu cho rằng tôi sẽ luôn ở cạnh bà. Yêu bà thật nhiều.”

Nước mắt người vợ già cứ thế tuôn rơi. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói lời “xin lỗi”, và ba tiếng “tôi yêu ông.” Nhưng trễ rồi. Ông không còn nghe được tiếng bà nữa.” (trích điện thư do một người bạn chưa quen gửi hôm 09/06/2011)

Thế đấy. Chuyện ở trên, tuy không là bằng chứng cụ thể để nói lên điều mà bần đạo muốn nói. Ý bảo rằng: bậc cao niên hay đứng tuổi vẫn có thể nói tuy không thể hát được những lời này:

Ngày ấy khi Xuân ra đời

Một trời bình minh có lũ chim vui

Có lứa đôi, yêu nhau rồi

Hẹn rằng còn mãi không nguôi.”

(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

Đã “Yêu nhau rồi, mà lại hẹn: Còn mãi khôn nguôi!” , tức: sẽ không ngừng yêu nhau mãi mãi, dù đói/no, cay đắng/ngọt bùi, hoạ/phúc như lời thề trước Thượng Đế, ngày hợp hôn khi trước.Chính vì thế, người nghệ sĩ mới hứng thú có câu thơ, thêm vào bài hát. Cứ hát rằng

Nhạc lắng hương xuân bồi hồi

Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi

Nói với nhau, yêu nhau rồi

Một ngày còn mới tươi môi.”

(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

“Còn mãi tươi môi”, hay tốt tươi cuộc đời người sao đó, cũng chẳng ai biết. Chỉ biết có mỗi điều, là: hễ nói về tình yêu tươi mát, lúc ban đầu, thì người người đều sẽ hiểu. Và dễ nhớ. Tuy nhiên, nói về tình yêu có tươi và mát như ba mươi/bốn mươi năm về trước hay không, vẫn là điều chẳng ai dám quyết đoán. Bởi, sau bấy nhiêu năm chung sống, mà còn hiểu nhau, còn đồng ý với nhau về rất nhiều chuyện, đó mới là vấn đề. Đó mới khó. Khó hiểu và khó nói, như lời phẩm bình của người trẻ nọ, về thơ văn/âm nhạc của người mình, như sau:

“Hôm rồi, tình cờ tôi được nghe cô ca sĩ ở Sydney hát một bài lại được người điều khiển chương trình giới thiệu rằng: bài hát ấy do nghệ sĩ Vũ Thành An sáng tác, đó là “Bài Không tên số 50”. Nghe cô hát, bản thân tôi, lúc ấy thấy ca từ của bài này cũng rất quen, nhưng không nhớ đuợc xuất xứ cùng tác giả lời tiếng Việt, mà chỉ mang máng nhớ mình có đọc một bản dịch từ tiếng Anh ở đâu đó, có ý nghĩa cũng tương tự.

Nay, tìm đọc trong các sách, tôi mới khám phá ra rằng: đây là bài thơ lừng danh của thi sĩ gốc người thiểu số xứ Armênia, từng sinh sống bên hồ Van thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, có tên là Silva Kaputikyan (1919-2006). Những năm về sau, bà chạy sang Nga xin tỵ nạn chính trị; và rồi có chân trong Hàn Lâm Viện Quốc gia của Nga. Bà cũng được Viện Đại Học Cambridge của Anh bình chọn là người phụ nữ tiêu biểu trong năm 1998. Vì bài thơ này quá hay, nên đã có không ít người ghi sai tên thực của tác giả, hoặc cho đó là bài thơ của thi sĩ người Nga nào khác như Olga Bergols, hay thậm chí như Evgueni Evtushenko, hoặc đại thi hào người Nga là Alexander Pushkin (1799-1837) nữa.

Chưa hết, ở Việt Nam có người còn viết rõ ngay trên báo hẳn hòi, cho rằng tác giả là thi sĩ người Đức tên là Heinrich Heine (1797-1856). Có biết đâu rằng, ông thi sĩ người Đức kia chỉ sáng tác bài thơ có tựa đề là “Anh và Em” với nội dung thật khác hẳn. Kể ra, thì trí nhớ của phận hèn bọn tôi cũng không đến nỗi tệ. Và để chứng minh điều lầm lẫn này, xin trích nguyên văn dưới đây ca từ của bài không tên số 50, để thấy đuợc rằng ca từ của người nghệ sĩ nổi tiếng thời hôm trước có xuất xứ từ đâu ra:

Em bảo : Anh đi đi

Sao anh không đứng lại?

Em bảo : Anh đừng đợi

Sao anh vội về ngay?

Lời nói thoảng gió bay

Ðôi mắt huyền đẫm lệ

Mà sao anh dại thế

Không nhìn vào mắt em

Mà sao anh dại thế

Không nhìn vào mắt em

Không nhìn vào mắt sầu

Không nhìn vào mắt sâu ?

Những chuyện buồn qua đi

Xin anh không nhắc lại

Em ngu khờ vụng dại

Anh mơ mộng viễn vông

Ðời sống nghiệt ngã không

cho chúng mình ấm mộng

Thì thôi xin gửi sóng

Ðưa tình về cuối sông

Thì thôi xin gửi sóng

Ðưa tình về cuối sông

Ðưa tình về với mộng

Ðưa tinh vào cõi không.”

Có thể nói: ca từ của bài hát lần này nghe rất mượt mà, khác hẳn với ca từ ở những “bài không tên khác”, cũng do cùng một nghệ sĩ sáng tác. Có một điều mà nghệ sĩ nói ở đây đã quên sót, là không trích nốt câu thơ chót, vẫn chứa đầy ý tứ hơn. Ý tứ này đã được thi sĩ Xuân Diệu chuyển qua tiếng Việt, thì phải. Ngoài ra, cũng có nhiều bản dịch khác từ bài thơ này, như của Huyền Anh, Trần Đăng Khoa… Tựu trung, chỉ có bản của Xuân Diệu là lột tả được giọng điệu vừa trữ tình vừa nghe như lời thủ thỉ rất can trường, nhưng đầy nữ tính của nhà thơ:

Em bảo : "Anh đi đi" Sao anh không đứng lại ? Em bảo : "Anh đừng đợi" Sao anh vội về ngay ? Lời nói thoảng gió bay Đôi mắt huyền đẫm lệ Mà sao anh dại thế Không nhìn vào mắt em Mà sao anh dại thế Không nhìn vào mắt em Không nhìn vào mắt sầu Không nhìn vào mắt sâu ? Những chuyện buồn qua đi Xin anh không nhắc lại Em ngu khờ vụng dại Anh mơ mộng viễn vông Đời sống nghiệt ngã không cho chúng mình ấm mộng Thì thôi xin gửi sóng Đưa tình về cuối sông Thì thôi xin gửi sóng Đưa tình về cuối sông Đưa tình về với mộng Đưa tình vào cõi không.

Em bảo: “Anh đi đi!

Sao anh không ở lại?

Em bảo: “Đợi chờ chi”!

Sao anh xa em mãi?

Lời em buông cứng cỏi,

Lệ em trào mắt đen.

Sao anh tin lời nói,

Mà không nhìn mắt em?”

(trích điện thư tâm tình của người trẻ mang tên Anthony Trần, ở Sydney 16.06.2011)

Trích dẫn nơi đây những tâm tình rất thẳng thắn của người trẻ thích nghiên cứu về lịch sử âm nhạc của Việt Nam, bần đạo chỉ dám trích để phiếm vội đôi hàng về lời thơ và ca từ trong nhạc bản, được chuyển ngữ. Trích và dẫn, để bà con mình có được đôi phút thư giãn và thả lỏng con người, sau những ngày bàn luận cũng khá căng về thần học, với học thần. Tức, học về những gì là thần thiêng, siêng chăm, cũng rất thánh.

Trần tình với bạn và với tôi như thế rồi, nay bần đạo xin mạn phép được nói thêm về một thứ trần tình hay tình trần của người phàm trần đã có dịp hát lên cuối của bài hát mang tên “Kúc Hát Thanh Xuân” , có những lời đuợc lập đi lập lại như sau:

Rồi nắm tay cùng nói vui Những câu êm êm không rời vai. Rồi lả lơi, hình dáng ai Khuất xa biến vào nẻo khơi. Từ đó khi xuân tái hồi Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi. Nhớ tới câu thương yêu người Một ngày tuổi mới đôi mươi .”

(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

Nói đi thì lại nói lại, là nói những lời như trên, chỉ để kết hợp với lời nói làm bằng về những điều mà tác giả nọ vẫn cứ bảo “Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu”, của các thánh ở nhà Đạo. Và, nói đi thì lại nói lại lần nữa, là nói thêm đôi điều của thánh nhân rất “cao cả” của Hội thánh, từng có những lời như sau:

“Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện.

Hãy khuyến khích nhau,

hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà.

Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an,

sẽ ở cùng anh em.

(2Cr 13: 11).

Và, một khi đã nắm chắc được như lời thánh nhân khẳng định, rằng: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương, sẽ ở cùng anh chị em” , thì ta cứ tha hồ mà nói và hát. Miễn là lời nói và hát của tôi và của bạn, không làm phiền hà, một ai hết. Cũng không là “Cớ vấp phạm” cho ai hết, đích thật là điều vẫn nên nói, và nên hát. Chí ít, là hát và nói những “Khúc hát (rất) Thanh Xuân”.

Trần Ngọc Mười Hai

Ở tuổi này

chừng như vẫn còn tập nói và hát

những lời lẽ rất yêu đương,

của những người đương yêu

như bao giờ.