Saturday, 30 January 2016

“Xuân đến trên muôn nơi,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 5 Thường niên năm C 07/02/2016

“Xuân đến trên muôn nơi,”
Gió mơn man cánh mai vàng tươi.
Vườn hồng đắm say yêu thương,
Nắng xuân tô thắm bao nẻo đường.
Trời nhẹ áng mây tơ vương,
Ðưa bao lời tình đi muôn hướng.
Lòng nhớ thương về chốn xưa mùa xuân ấy.”
(Quốc Dũng – Xa Vắng)

(1 Cor 1: 17-18)

            Thật cũng lạ. Lạ ở chỗ, anh vừa hát “Xuân đến trên muôn nơi”, lại có những “vường hồng đắm say yêu thương” “tô thắm bao nẻo đường”, thế mà anh vẫn đặt đầu đề 2 chữ rất “Xa Vắng”. Xa vắng hay vắng xa “chốn xưa mùa xuấn ấy” đi nữa, vẫn còn đó lời trần tình anh hát thêm, như sau:

            “Ngày nào ấm tay trong tay, 
Trái tim em thoáng cơn sầu lây. 
Ngày nào mắt môi thương yêu, 
Tâm hồn nghe ốm đau sớm chiều. 

Hẹn hò ái ân mai sau, 
Xin luôn gặp người tình yêu dấu. 
Ðể những xuân về sẽ không buồn nhớ nhau…”
(Quốc Dũng – bđd)

Vâng. Lại, cũng có điều lạ, là ở chỗ: có những độ xuân về, anh và tôi, ta lại sẽ “không buồn nhớ nhau…” cho dài lâu. Nhưng, vẫn thấy lạ, là: hôm nay, ta phiếm rất nhiều điều để mọi người cười vui trong chốn “xa vắng” ấy. Rồi có lúc, cũng muốn khóc như người kể truyện “lạ” ở dưới rằng: có người cha nọ từng nói với con những câu như thế này: Không sao đâu con, đôi khi con trai cũng cần phải khóc, như thế cũng không sao cả". Và sau đó ông lại kể câu truyện sau đây:

Cha tôi là một người lái xe giao bánh mì. Ngày bé, mỗi khi đi chơi, tôi thường nắm lấy ngón tay út của ông. Có lần, tôi bị vấp ngã và òa khóc. Cha đỡ tôi lên âu yếm: "Không sao đâu, con trai. Đôi khi con cũng cần phải khóc, như thế cũng không sao cả". Tôi không bao giờ quên câu nói đó.

Cha con tôi cùng mê bóng đá. Dù được coi là một đứa trẻ khá lỳ lợm, tôi vẫn khóc khi đội bóng mà tôi ưa thích tuột mất chức vô địch. Lúc ấy, cha tôi vỗ vai tôi và bảo: "Không sao đâu con, đôi khi con trai cũng cần phải khóc, như thế cũng không sao cả". Chẳng hiểu sao, khi nghe cha nói thế, tôi lại nín khóc.

Rồi tôi thi vào một trường trung học xa nhà và ở ký túc xá. Có những buổi sáng mùa đông sớm tinh mơ, lạnh buốt, cha tôi ghé qua ký túc xá trên chiếc xe lớn chở bánh mì nóng đến giao cho các cửa hàng, đưa cho tôi mấy cái bánh mì nóng rực, không quên phần cho mấy đứa bạn ở cùng phòng tôi, rồi lại vội vã đi giao hàng cho kịp giờ.

Năm học lớp 12, đội tuyển bóng đá trường tôi được vào trận chung kết giải bóng đá trung học toàn quốc. Cha tôi gọi điện và nói rằng ông rất buồn vì vẫn phải giao bánh mì ở xa, nếu tới nơi tôi thi đấu, ông phải lái xe 3 tiếng đồng hồ. Nhưng ông hứa sẽ nghe tường thuật qua đài.

Hôm ấy, tôi được thay vào sân khi trận bóng đã đi đến nửa hiệp hai. Khi chạy vào sân, theo thói quen, tôi nhìn quanh một vòng. Và ở gần chỗ gửi xe, tôi nhìn thấy chiếc xe của cha. Cha đã dậy sớm, đi giao hết bánh mì, rồi lái xe 3 tiếng đồng hồ để tới đây, mong muốn được xem ít nhất là phần cuối của trận đấu có tôi. Đeo chiếc huy chương vàng, chạy lại gần cha, mắt tôi đỏ lên. Không chỉ xúc động vì chức vô địch mà còn vì ông đã tới. Ông lại vỗ vai tôi: "Không sao đâu con, đôi khi con trai cũng cần phải khóc, như thế cũng không sao cả".

Nhiều năm sau, vào một buổi sáng sớm, khoảng 5 giờ sáng, tôi có điện thoại. Có người báo là cha tôi vừa mất trong một tai nạn giao thông. Cha lái xe đi giao bánh mì từ lúc tờ mờ sáng, trời lại có mưa nên không nhìn rõ một đàn gia súc húc đổ hàng rào và chạy ra quốc lộ. Tôi đã òa lên khóc như một đứa trẻ. Lần này, không có ai nói với tôi rằng con trai khóc cũng không sao cả.

Cha ra đi để lại trong tôi một vùng trời xa vắng, khá trống rỗng. Nhưng rồi nó được lấp đầy một cách kỳ lạ vào một buổi chiều khi cậu con trai nhỏ của tôi sụt sịt chạy lại: "Bố, con bị loại khỏi đội bóng của lớp rồi". Tôi nhấc bổng cậu con trai lên, hứa sẽ dạy cho con chơi bóng để bất kỳ đội bóng nào cũng mơ ước có cậu, rồi bỗng tôi thấy mình nói: "Không sao đâu con trai. Đôi khi con cũng cần phải khóc, như thế không sao cả".

Sau câu nói ấy của tôi, nước mắt cậu nhóc ngừng rơi, nhường chỗ cho một nụ cười.”

Vâng. Câu truyện vào đề về “Con trai cũng nên khóc” kể ở trên, đã dẫn đưa bần đạo bầy tôi đây đi vào vùng trời luận-phiếm có những chuyện đạo, rất lạo xạo về đấng bậc nổi-danh nhiều thời cũng từng “khóc” một đôi lúc, khi ở trước thập tự. Đó, là đấng bậc vua/quan tên gọi rất ư là Constantine, như sau:

“Một yếu tố rất nổi-cộm từng góp phần vào việc tôn-thờ ảnh-hình một thập-giá trong thánh Hội rất La Mã, là “thị-kiến về thập-giá” đã khiến ông Constantine hòi hướng “trở về lại” với thánh hội Nước Trời ở trần-gian.

Truyện kể rằng: thoạt khi ông Constantine và đám quân-binh của mình đến gần thành-đô La Mã, để giáp mặt đụng trận với địch-quân trong trận chiến mang tên “Trận quyết tử trên cầu Milvian”.

Truyền-thuyết lúc ấy kể rằng: các thầy bói chuyên xem lông con thú được đem lên bàn thờ để tế-hiến, đã nói với vua/quan dưới trước của Costantine rằng: thần-linh sẽ không phù-trợ ông, nên ông sẽ đại bại trong chấn chiến ấy.

Nhưng sau đó, Constantine nằm mộng thấy có hình cây thập-tự đến với ông kèm theo câu viết: cứ theo dấu này, rồi ông cũng sẽ chiếm được thành-lũy mình tiến tới…” Và cứ thế, ngay hôm sau, vào ngày 28 tháng Mười năm 312, ông tiến về phía trước, quyết theo dấu ấn hình thập-tự. Và, ông đã chiến-thắng trận địa hôm ấy, giết chết địch-thù và tuyên-bố sẽ hồi-hướng trở về với thập-tự của Chúa, từ dạo đó.

Dĩ nhiên, chiến-thắng nói ở đây không thể là chiến-thắng đem đến với Đạo Chúa khi Đấng uy-nghi quyền-lực truện lệnh áp-dụng việc treo thánh-giá tại các nơi thờ-phụng cũng như tư-gia của người Công-giáo, như biểu-tượng trong Đạo và của Đạo.

Đành rằng, chuyện Hoàng-đế Constantine nhìn thấy hình-ảnh cây thập-tự đã hướng-dẫn ông đến chiến-thắng trong nhiều cuộc chiến không mang tính sử-học, mà chỉ là truyện kể đầy hư-cấu do chuyên-gia bóp méo lịch-sử là sử-gia Eusebius chuyện gom gộp chuyện dân-gian/thần-thoại làm sự thật.

Thế nhưng, câu hỏi mà nhiều người cứ luôn miệng hỏi, là: Nếu chấp nhận rằng trên thực-tế, hoàng đế Constantine đích-thực có thị-kiến như thế, thì: phải chăng đằng sau câu chuyện, chính Đức Giêsu Kitô là tác-giả sự việc ấy? Phải chăng Ông Hoàng của nền Hoà-bình thế-giới đã dẫn-dụ một hoàng-đế dân-ngoại làm thế để giúp ông chiến-thắng cả và thế-gian, đưa nhân-loại thuần-thục Đạo Chúa chứ?

Và, giả như thị-kiến nói ở trên không thật sự do Chúa tạo ra, thì sao ta có thể cắt-nghĩa được việc “trở lại đạo” của một hoàng-đấ ngoại giáo, ghê-gớm bạo tàn như Constantine Đại đế?

Thật ra thì, câu trả lời nào cũng không hoàn-toàn làm mãn-nguyện người dân đen ở huyện. Duy có mỗi việc là mọi người lâu nay thường đặt nhiều dấu hỏi về chuyện “trở lại” của một ông hoàng-đế từng khiến người Đạo Chúa thiết-lập nhiều giáo-lý và tập-tục bên trong hội-thánh.

Nhưng, sự việc thực-tế cho thấy ông hoàng này đã không “thực sự” trở lại Đạo theo nghĩa Kinh-thánh của cụm-từ này, nhưng theo một số sử-gia lão-thành luôn nhận rằng việc ông ta trở lại đạo vẫn không là chuyện đáng kể, cả theo tiêu-chuẩncủa thời bấy giờ, đâu.” (X. Homer W. Smith, Man and His Gods, Boston: Little, Brown and Co. 1953, tr. 22)

            Kể truyện ông hoàng Constantine, người có công đầu rất nhiều đối với Hội-thánh Công giáo, chỉ để nói lên rất nhiều thứ chuyện, trong đó có chuyện liên-quan đến sự thật lịch sử trong các động-thái phụng thờ ở Đạo Chúa.
            Kể truyện ông Constantine với ảnh-hình thập-tự có trước mắt của ông, cũng để nói thêm một điều, là: trong rất nhiều chuyện, không phải chuyện nào cũng mang tính lịch-sử, có thật hoặc rất thật như đếm. Chí ít, là chuyện thần-học, giáo-lý với suy-tư.
Suy-tư chuyện giáo-lý/giáo-điều có thể chỉ là ý-kiến riêng-tư về thần-học của ai đó, mà thôi. Nhưng, ai “ai đó” có tính thuyết-phục mình hay không, lại là chuyện khác. Bởi thế nên, hôm nay, nhân chuyện bàn về thị-kiến rất ử “truyền-thuyết” của Constantine Đại-đế hay Tiểu-vương gì cũng chỉ để giúp mình và giúp người có thói quen suy-tư, học hỏi nhiều hơn nữa. Học, từ bậc thày giảng dạy hay từ bạn bè, tuổi trẻ vẫn là chuyện cần thiết.
Quyết thế rồi, nay mới bạn và mời tôi, ta bước thêm vào lề đường học-hỏi về căn-tính có lịch-sử hay không của Đức Giêsu không thành vấn-đề, mà chỉ thấy những điều nên học từ nơi căn-tính của Đức Chúa rất sau: 

Trong chừng mực nào đó, mỗi khi ta suy về tính Vua/quan của Đức Kitô, là suy về: một quyết tâm ta tin rằng Đức Kitô không chỉ là “Vua/quan” của người tín hữu, mà còn là Đức  Chúa của thế giới này. Ngài, là Đức Chúa theo dạng-thức đặc-biệt. Bổn phận của ta, là phải giúp mọi người hiểu biết căn-tính Vua/quan của Ngài theo nghĩa nào đó, không chỉ mỗi khoa-học lịch-sử, mà thôi.

Ngài lại là: Vị Vua/quan từng yêu mến dân con không điều kiện. Một Vua/quan, muốn hoà-giải/hoà-hợp với tội phạm. Vị Vua/quan, chỉ muốn giúp đỡ, chữa lành kẻ ốm đau, tật bệnh. Một Vua/quan khiêm hạ, không bao giờ kiêu hãnh cũng chẳng tự hào. Một Vua hoặc Quan luôn san-sẻ cuộc sống với ta, bây giờ và mãi mãi.

Muốn am-hiểu Lời Ngài cho tường-tận theo cung-cách Vua/quan/lãnh-chúa, trước nhất cũng nên tự giúp mình hiểu cương vị Vua/quan nơi Ngài. Rồi, sau đó giúp mọi người hiểu và biết Ngài. Nghịch thường thay, cách hay nhất để biết Đức Kitô là Vua/quan đã ra đi giùm giúp để mọi người biết Ngài. Để, san-sẻ nhận thức, am-tường và lòng yêu thương Đức-Chúa-là-Vua với người khác, ta cũng phải khám phá cho bằng được sự nhận thức, am-tường và lòng yêu thương chính mình..” (X. Lm Richard Leonard, sj, www.suyniemloingài.blogspot.com Chúa nhật 22/11/2015)

Thế đó, là lập-trường cốt-thiết trong tìm-hiểu ý-nghĩa của vai-trò vua/quan/hoàng đế trong phụng-vụ Đạo Chúa, rất nghe quen.
Thế đó, còn là lập-trường đầy khích-lệ để bạn và tôi, ta cứ thế mà đi tới tìm-hiểu các giòng chảy tư-tưởng của bậc thày trên bục giảng nhà thờ hoặc trường đời, rất ê hề, nhiều nỗi.  
             Thế đó, vẫn là khuynh-hướng rất “phiếm”, để bạn và tôi, ta cứ thế mà …cứu thế qua mọi luận-phiếm hoặc chỉ mỗi kể lể những câu truyện đời chẳng ra đâu vào đâu, như truyện ở bên dưới, chỉ mỗi “mua vui cũng được một vài trống canh”, mà thôi.
Nhưng trước khi đi vào câu truyện kể thư-giãn, xin quay về với nhạc-bản những hát rằng:

Xuân gieo bao nhung nhớ, 
Tháng năm êm đềm đã qua. 
Xuân gieo bao nỗi buồn, 
Âm thầm dâng trong tim. 

Một lần nói yêu thương anh, 
Ước mơ em xót xa nhiều thêm. 
Dịu dàng thiết tha như thơ, 
Sao tình xưa bỗng dưng hững hờ.

Bàng hoàng những đêm bơ vơ, 
Nghe cuộc tình trầm ngâm lên tiếng. 
Gọi mãi anh, gọi mãi em về cõi riêng.”
(Quốc Dũng – bđd)

“Gọi mãi anh, gọi mãi em về cõi riêng”, như thế là để anh và em cùng nắm tay nhau, ta đi vào vùng trời đầy những lời khuyên-nhủ của người xưa, vẫn bảo rằng:

Trong việc xử thế ở đời, dám nắm lấy là dũng khí, dám buông ra là độ lượng. Phần lớn những người có kinh nghiệm xử thế đều xem thường những hoa tươi, tiếng vỗ tay... trên đường đời.

Nhưng nếu nhìn nhận một cách bình thường đối với những gập ghềnh, bùn lầy... trong cuộc sống, thì không phải là điều dễ làm. Có thể không hoảng hốt, có thể thản nhiên chịu đựng những trở ngại lớn, những tai họa lớn, chính là vì có lòng độ lượng. Người quân tử lấy lòng độ lượng dung nạp mọi việc trong thiên hạ làm nguồn vui, đã đến rồi thì hãy ở yên mà thích ứng với hoàn cảnh là một hình thức siêu thoát.

Biết nắm lấy thực đáng quý, nhưng biết buông ra mới là đạo lý chân chính xử thế trong đời.”

Thế đó, là đạo-lý ở đời, của người đời.
Thế đây, lại là những lý-lẽ trong Đạo của bậc thánh-hiền từng nhủ-khuyên con dân trong Đạo/ngoài đời, những điều như sau:

“Quả vậy, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa,
nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng,
và rao giảng
không phải bằng lời lẽ khôn khéo,
để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.
Thật thế,
lời rao giảng về thập giá
là một sự điên rồ
đối với những kẻ đang trên đà hư mất,
nhưng đối với chúng ta
là những người được cứu độ,
thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.”
(1Cor 1: 17-18)

Giống như thế, những phiếm-luận đầy truyện kể lâu nay ta kể cho nhau nghe, cũng chỉ là những chuyện nên làm và cần làm, vào đôi lúc. Hầu hết, đều là những lúc bạn và tôi ta cần đến “lời vàng” để suy-tư và thư-giãn. Suy, những điều cần nghĩ, Và, thư-giãn những lúc cần giãn rộng con người mình, ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng muốn thư và giãn
bằng những truyện kể
rất vớ vẩn
mà thôi.

Nghĩ và suy thế rồi, nay ta hãy mời nhau hướng về phía trước mà tiến bước với tư-thế hiên-ngang hát nhạc vang ngoài đời có những cầu, rằng:

Xuân gieo bao nhung nhớ, 
Tháng năm êm đềm đã qua. 
Xuân gieo bao nỗi buồn, 
Âm thầm dâng trong tim. 

Một lần nói yêu thương anh, 
Ước mơ em xót xa nhiều thêm. 
Dịu dàng thiết tha như thơ, 
Sao tình xưa bỗng dưng hững hờ. 

Bàng hoàng những đêm bơ vơ, 
Nghe cuộc tình trầm ngâm lên tiếng. 
Gọi mãi anh, gọi mãi em về cõi riêng.”
(Quốc Dũng – bđd)

Cõi riêng ấy, đang ở đây, lúc này. Rất vô-tư.




Saturday, 23 January 2016

“Tôi yêu tiếng nước tôi,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 4 Thường niên năm C 31/01/2016

“Tôi yêu tiếng nước tôi,”
Từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền ru những cấu xa vời,
À à ơi tiếng ru muôn đời.”
(Phạm Duy – Tình Ca)
(1 Phêrô 4: 19)

            Vâng. Những câu hát để đời này, đã hằn in dấu vết trong lòng rất nhiều người Việt trong đó có người bạn đời của bần đạo, đã không nén được nỗi xúc động mỗi khi nghe lại, suốt nửa thế kỷ đời người. Lại cũng có những câu nói để đời khác của nghệ-sĩ viết lên bài “Tình Ca’ ở đây, như  gia-tài đáng giá của riêng ông.
            Hôm nay, đi vào vùng trởi tản mạn đầy những phiếm và luận về đủ thứ chuyện của người mình, chí ít là người Việt đi Đạo, thì bần đạo bầy tôi đây đã bắt gặp được giòng chảy của tác-giả Lưu Trọng Văn nói về những lời cuối cùng của người nghệ-sĩ già trích-dẫn ở trên, những bảo rằng:

“Tôi nghĩ, tôi chết cũng như sống thôi. Vì, gia-tài của tôi để lại thì nhiều lắm. Một trăm năm nữa, nếu người ta vẫn hát bài “Tình Ca” với câu “Tôi yêu tiếng nước tôi”, thì 999 bài còn lại, người ta quên cũng được.” (X. Lưu Trọng Văn – Một Thế Giới)

            Ấy đấy! “Nghệ-sĩ già” nhà ta, không chỉ viết mỗi thế, những câu hát để đời trong số hàng ngàn bài hát. Nhưng, những bài “để đời” của ông lại có câu:

            “Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai.”
(Phạm Duy – bđd)

Và, lại là câu khác, giống như thế:

“Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa
Những anh hùng của một ngày mai

Vì yêu, yêu nước, yêu nòi
Ngày Xuân tôi hát nên bài (ư bài) tình ca
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
Lòng tôi đã nở như là (ừ là) đoá hoa...
(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Yêu là thế đấy. “Yêu biết bao người!” Nào những “Lý Lê Trần và còn ai nữa”, “những anh-hùng của thời xa xưa”, và cả những người “của một ngày mai”… Những người ấy, là ai thế? Có giống như lời mời gọi rất “yêu thương” mà nhà Đạo mình vẫn còn nghe văng vẳng ở đâu đó, hay không?
Vâng. Đạo Chúa của mình, lại cũng có nhiều vị như Tổng Giám Mục nọ được mẹ hiền của ông “ru êm” bằng những Lời Vàng/truyện kể rất mềm mại, đầy Thánh Kinh. Nghe mẹ ru bằng truyện kể Kinh thánh đấng bậc ở Đạo Chúa lại sẽ không ngủ vùi trong mộng-mị. Nhưng, sẽ nhớ mãi những ca-từ “êm ru”, nhiều thích-thú.
Đó, là đấng bậc họ Spong tên John Shelby của nước Mỹ đọc thấy trong phần phụ-lục ở cuối sách có tên là:  “Rescuing Bible from Fundamentalism, HarperSanFrancisco 1991).    
Nói như đấng bậc vị vọng này, thì: một khi đã được mẹ hiền “ru êm” bằng những câu truyện hoặc đoạn sách trong Thánh Kinh, thì người con lại sẽ tìm cho được ý-từ như nghệ sĩ “già” nhà mình, lại đã hát:

“Tiếng nước tôi!
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!

Tiếng nước tôi!
Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!
Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều (ư diều) làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói thật thà (à à) có duyên...”
(Phạm Duy – bđd)

Và, cứ như nghệ-sĩ già nhà mình, thì một khi đã yêu”tiếng nước tôi” rồi, lại sẽ yêu cả câu hát Truyện Kiều”, yêu luôn “cô gái bên nhà, miệng xinh ăn nói mặn mà, mà có duyên.”
Thế nhưng, tiếng “mẹ ru” của đấng bậc Đạo Chúa của mình, tuy có “ru êm” thật đấy, nhưng lại là tiếng/giọng đầy tình-tự của người xưa vẫn trân-trọng một Đức Chúa. Nên, đã nhắn nhủ dân con hãy tìm về mà nghe mà đọc cho rõ nghĩa, như lời đề-nghị của bậc thày hôm ấy có nói rằng:

“Rất nhiều độc-giả đã thực-hiện các cuộc nghiên-cứu, lúc ấy, về Cựu-Ước khi không hiểu là bao những gì được viết ở trong đó. Có người lại tưởng-tượng nhiều hoặc đưa ra giả-thuyết chứng-thực đó là truyền-thống niềm tin trong Đạo Chúa. Rất ít độc-giả có cơ-hội bắt chụp được những gì xảy đến với giới kinh-điển, về học-thuật, trong thời-gian gần đây.

Những ngày gần đây, đã có nhiều đổi thay và còn thay-đổi nhiều hơn nữa, mai sau này. Nếu tóm gọn, ta thấy giới kinh-điển nay hiểu nhiều về tính-chất dựng xây đầy then-chốt nên coi các đoạn viết trong đó mang tính sử-học, có bối-cảnh chính-trị và đặc-trưng ý-thưc-hệ, nữa. Đặc-trưng tôn-giáo đã xuất-hiện trong trạng-huống giới-hạn ấy mà thôi.      

Chính vì thế mà ngày nay lại đã thấy có nhiều chiều-hướng quyết-tâm tìm về học-hỏi những khả-năng hàm-ẩn trong đó tính-chất đích-thực của nội-dung Kinh-thánh hơn chỉ ấp-ủ một số luận-điểm như ta vẫn làm trong quá-khứ. Bởi thế, ít ra cũng nên quảng-diễn các luận-điểm cốt-thiết và đích-thực của thời-đại Kinh thánh được viết, theo đúng nghĩa, thì hơn…” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Re-Reading the Bible, Australian Catholic University 6/9/2008, tr.1)

Xem thế thì, giống như lời cuối của nghệ-sĩ già nhà ta từng nói trước khi quá vãng, rằng ông chỉ trân trọng có mỗi bài “Tình Ca’ là bài ông đắc ý nhất, còn lại thì ai quên các bài khác cũng được. Cũng thế, có đọc Kinh/Sách hoặc điều gọi là Thánh Kinh đi nữa, cũng chỉ nên tìm về những gì người viết trong đó đắc ý nhất mà thôi.
Tuy nhiên, vấn-đề là: làm sao biết được bài nào, đoạn nào được tác-giả thời ấy ăn ý hơn cả. Thành ra, vấn-đề muôn thuở là: làm sao tìm được điều tốt/xấu ở kinh/thư vẫn được mọi người cho là rất “thánh”, mới được.
Đó, cũng là giòng tư-tưởng của đấng bậc vị vọng trong Đạo Chúa, từng ngỏ lời ở tác-phẩm ông ưng-ý nhất có tựa đề là: “The Sins of Scripture”  bằng trích-dẫn đôi giòng “Lời Tựa” như sau:
“Lúc ấy, tác-giả Mark Tauber nay là chủ nhà xuất-bản HarperSanFrancisco đã đề-nghị tôi viết một cuốn nói về những bản-văn Kinh-thánh từng gây tổn-hại cho nhiều người. Tôi muốn nói đến các văn-bản Kinh thánh lâu nay được sử-dụng suốt đường dài lịch-sử cốt để thanh-minh/biện-hộ cho hành-động bôi-nhọ hoặc khủng-bố/xách-nhiễu những người khác với mình, khi mình có trong tay cái quyền ngầm-ẩn chuyên vùi dập kẻ khác rồi lại gọi đó là “Lời của Chúa”.
Tác-giả Mark Tauber đặc-biệt thôi-thúc tôi hãy duyệt-xét và thách-thức các văn-bản nào cho thấy tín-hữu Đạo Chúa có khuynh-hướng bảo-thủ vẫn đều-đặn sử-dụng chúng để duy-trì nguyên-vẹn sự kỳ-thị người đồng-tính-luyến-ái, bởi đó là xung-đột chính-yếu vẫn kéo dài và tồn-tại trong các Giáo-hội thuộc Đạo Chúa trên khắp thế-giới…” (X. TGm John Shelby Spong, The Sins of Scripture, HarperSanFrancisco, bđd)           

            Thành ra, cũng là câu nói hoặc hát nhiều về yêu đương. Yêu tiếng nói, quê hương, yêu cả những Lời-cho-rằng-là-của-Chúa, mà kỳ thực chưa chắc đã là thế!
Thế nhưng, yêu đương và đương yêu “đất nước tôi” theo lời người nghệ-sĩ, còn nhiều lý-do để yêu và để ghét. Yêu nhiều hơn ghét. Hoặc, có ghét gì thì ghét, chẳng bao giờ ghét đất nước mà tôi đương yêu, rất yêu đương, như thế này:

“Tôi yêu đất nước tôi,
nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình
Nhìn trùng dương hát câu no lành.

Đất nước tôi!
Dẫy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn.
Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi.
Đất nước tôi!
Núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng.
Lúa miền Nam chờ gió mùa lên, lúa ơi.

Tôi yêu những sông trường,
Biết ái tình ở dòng sông Hương,
Sống no đầy là nhờ Cửu Long,
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong.

Người yêu thế giới mịt mùng
Cùng tôi ôm ấp ruộng đồng (ừ đồng) Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim ngàn
Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng (à hàng) mến nhau”
(Phạm Duy – bđd)

Yêu thương “đất nước tôi” gồm cả “tiếng nước tôi’, “núi đồi”, “ruộng sâu”, “biển xanh” và nhiều nhiều nữa, vẫn không hết.
Yêu và thương tiếng nói của Đạo mà người thường vẫn gọi là “Lời của Chúa”, còn là yêu và ghét, cũng rất nhiều. Yêu nhiều người và nhiều câu truyện ở Sách thánh hoặc Thánh Kinh, là chuyện đã đành, không có gì để chối cãi. Thế nhưng, làm sao có thể ghét bỏ những giòng chữ, câu truyện kể về Lời và đời của Chúa ngang qua các sự kiện lịch-sử hoặc dã-sử xảy ra trong đời, được.
Đó, chính là vấn-đề. Vấn-đề ấy, lại đã được bậc vị-vọng trích-dẫn ở trên còn nói thêm, như sau:

“Vượt xa hơn cả những gì thế-giới Tây Phương từng nhận-biết, toàn-bộ cuộc sống của người Phương Tây đều được định-hình cách sâu-sắc bằng và qua sự-kiện, là: nội-dung Sách Thán đã tẩy sạch nền văn-minh của ta hơn hai ngàn năm lẻ. Các ý-niệm hiện rõ trong Sách thánh đã hằn sâu chữ viết vào chính cá-nhân và tâm-thân trọn-bộ con người của ta đến độ những người không tín-ngưỡng cũng công-nhận là không tài nào thoát được chúng và điều đó trở-thành một phần cuộc sống của ta.      

Tuy nhiên, trong lịch-sử của thế-giới Tây Phương, ai cũng đều thấy rõ, là: Thánh Kinh đã để lại một dải gồm những khổ đau, khiếp sợ máu huyết và sự chết mà không chối cãi được. Và, yếu-tố này thường không được phép trổi vượt lên ý-thức. Lời lẽ của Kinh Thánh lâu nay được sử-dụng không chỉ để giết choc nhau mà còn để bào chữa cho việc giết chết ấy nữa.

Nhiều vị đã trích-dẫn các câu nói hoặc văn-bản ở Kinh thánh để chúc lành cho các cuộc chiến đẫm máu hơn bao giờ hết. Có người từng xả-thân cho Kinh Thánh, lâu nay vẫn không thể ngưng tay, chùng bước trước việc sử-dụng các hình-thức ám-hại/hành-hạ đốn-mạt nhất lên những người mà họ tin rằng đó là những kẻ thù của Thiên-Chúa trong Sách rất “thánh” ấy…” (X. TGm John Shelby Spong, sđd tr. 4)

Khi đã nói đến Sách thánh hay Kinh thánh, người đọc phải hiểu “Sách: ấy là gì? Có dụng đích gì? Sách dành cho ai? Người nào thường đọc “Sách” này nhất?
Trả lời cho các câu hỏi này, cũng phải mất nhiều chương sách viết rất dài, cũng không đủ. Ở đây, có lẽ ta chỉ nói sơ qua phần “cốt-yếu” của Kinh-thánh, để rồi ta mời bạn đọc tìm-hiểu thêm trong bài nào khác, bắt chộp về sau.
Và, tiếp theo đây, cũng nên tìm về bài dạy của bậc thày vào những năm về trước, rất như sau:

“Người Do-thái-giáo không sử-dụng cụm-từ “Kinh Thánh Do-thái”, bao giờ hết. Bởi, nói như thế, sẽ gây ngộ-nhận khiến người đọc có cảm giác, là: trong dân-gian, còn nhiều bộ Kinh  Thánh khác. Người theo Do-thái-giáo, thích nhắc đến cụm-từ TNK, là “Tanakh”: bao gồm Torah + Neviim + Kethuvim, tức: Sách Lề-Luật + Tiên Tri + các bài viết khác. Torah, là sách có nguồn từ Do-thái-giáo cốt bắn mũi tên cho trúng đích. Torah, có nghĩa là: luật-lệ, là: chỉ-thị, lời dạy hoặc đường-lối sống.

Cũng hệt thế, người Do-thái-giáo thích nói đến “đạo của Israel-Giuđê’ hơn ‘Kinh-Sách’. Đạo Chúa và Hồi-giáo, là hai đạo “chuyên về thánh-kinh” và luôn đặt nền-tảng đủ mọi thứ chuyện vào Kinh/Sách. Tuy nhiên, Israel là đạo-giáo từng tác-tạo Sách Thánh, nên vẫn đứng trụ một mình không như tôn-giáo nào thuộc đất/miền lân-cận …              

Kinh thánh của người Do-thái-giáo đặt nền tảng trên Văn-bản Masrorah, tức: có từ truyền-thống Do-thái-giáo. Còn, Bản 70 là bản dịch ra tiếng Hy-Lạp, có lẽ do tự 70 dịch-giả dịch bản Kinh Sách Do-thái-giáo này tại Alexandria, Ai-Cập từ năm 300-200 trước Công Nguyên.

Cộng-đồng Do-thái-giáo hải-ngoại và các tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi (trong đó có thánh Phaolô, các tác-giả Tin Mừng, cũng như tổ-phụ Giáo-hội) thành-lập vào thế-kỷ thứ 5 sau Công Nguyên đã sử-dụng Sách này mà không bao giờ đụng tới Bản-văn Masorah, bao giờ hết. Người Do-thái-giáo ở Palestine lại bác-bỏ Bản 70 này vì nhiều lúc đã đi trệch khỏi văn-bản chính gốc của Do-thái-giáo. Thật ra thì, giữa 2 bản-văn này cũng không có khác-biệt là bao. Bản 70 lại có các sách được ghép thêm vào gọi là Ngụy-thư Cựu Ước trong đó có sách Giuđith, Tobia, Baruck, Sirach, Sách Khôn-ngoan của vua Salômôn, sách Macabê 1 và 2, hai sách Ezra, các phần thêm vào sách Esther, lời cầu của Manassê và một số phần phụ thêm vào sách Đaniel, Thánh vịnh ngoại lệ.

Hồi đầu thế-kỷ thứ 5, tổ-phụ Giêrônimô đã bác-bỏ Bản 70 và đã dịch sang tiếng La-tinh thẳng từ Bản Kinh thánh nói là của Do-thái-giáo (tức bản Vulgata phổ-thông). Các nghiên-cứu về Kinh thánh kinh-điển đã có lý để chỉ đặt ưu-tiên cho Văn-bản Masorah.

Năm 1947, người ta đã khám-phá ra Cảo Bản Biển Chết, một số bản-văn trong đó có niên-biểu ngược về năm 200 trước Công Nguyên và trong đó chứa-đựng nhiều phần sách trong Kinh thánh Do-thái-giáo ngoại trừ cuốn Esther.

Hầu hết các sách kinh-thánh của Công-Giáo là những bản xuất tự sách Vulgata phổ-thông, nhưng vào những năm gần đây, cũng có một số dịch-giả kinh-thánh tìm cách dịch thẳng từ tiếng Hip-ri, Do-thái. Hầu hết các sách này bao gồm các sách gặp ở bản 70 nhưng không có trong Bản-văn Masorah. Và, một số vị này ít thích dựa vào bản 70 cùng vai-trò gặp thấy nơi tín-hữu thời tiên-khởi; chính vì thế nay đã thất-lạc một số văn-bản lịch-sử, là do vậy. Ngày nay, người ta có khuynh-hướng đặt lại giá-trị của Bản 70 coi đó như nguồn của các bài viết tiếng Do-thái và chủ ý đặt văn-bản này cao hơn Bản-văn Masorah nữa. Lâu nay, ta có cả 1000 năm để quảng-bá các văn-bản có ở Kinh thánh Do-thái-giáo mà ta đang có trong tay.

Để có một chút, “đố vui để học”, có thể nói là: Kinh thánh Do-thái-giáo gồm có 308,428 chữ. Cũng là điều hay/lẽ đẹp nếu ai đó đọc văn-bản này mà không thấy chia thành chương/đoạn hoặc số câu tách rời nhau như ta vẫn làm, từ lâu…

Về việc học hỏi Kinh thánh, các học-viên cùng học-giả thích dùng cụm-từ trung-hoà như ‘Kinh thánh Do-thái-giáo’ là cụm từ mà người Công-giáo vẫn dùng khi chia cách Giao-Ước với Thiên-Chúa thành Cựu-Ước và Tân-Ước. Học-giả Do-thái-giáo thường sử-dụng cụm-từ “Kinh thánh” hoặc “Kinh Sách” mỗi lần qui chiếu về những gì mà các tín-hữu Đạo Chúa gọi đó là “Cựu-Ước”. Còn, học-giả Do-thái-giáo lại qui cụm-từ “Tân-Ước” về những sách của tín-hữu Đạo Chúa hơn, bởi lẽ nói về Giao Ước thì thật ra, vẫn chỉ duy-nhất có một Giao-Ước mà thôi.” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Re-reading the Hebrew Bible, Australian Catholic University, 6/9/2008, tr. 1-2)

            Trong cùng chiều-hướng với nghệ-sĩ già nhà mình khi nói đến “tiếng nước tôi” hoặc các chuyên-gia Kinh thánh nói về Kinh Sách, là nói và hát những câu tương-tự như:

            “Tôi yêu bác nông phu,
đội sương nắng bên bờ ruộng sâu
Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo
Mình đồng da sắt không phai mầu
Tấm áo nâu! Những mẹ quê chỉ biết cần lao
Những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi
Tấm áo nâu ! Rướn mình đi từ cõi rừng cao
Dắt dìu nhau vào đến Cà Mâu, áo ơi.”
            (Phạm Duy – bđd)

            Thật ra thì, có so-sánh hoặc mạo-nhận như thế, cũng hơi quá. Thế nhưng, ở thời buổi có quá nhiều thứ hơi bị “quá đáng” một chút, cũng là chuyện khó tránh. Bởi tất cả chỉ để minh-hoạ và giúp người đọc như tôi và bạn, có một chút hấp-dẫn để tiếp tục đọc cho hết những phần còn “quá đáng”, quá sức hoặc quá mực, nhiều hơn vậy.
            Có lẽ, chỉ mỗi điều không gọi là “quá đáng” khi ta trở về với lời vàng của Đấng Thánh Hiền từng ghi chép nhưng đoạn hoặc những câu khuyên như sau:                   
              
“Vì vậy,
những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa,
hãy phó mạng sống mình
cho Đấng Tạo Hoá trung thành,
và cứ làm điều thiện.”
(1 Phêrô 4; 19)

            Nói cho cùng có nói nhiều hoặc viết dài, cũng chỉ để bạn và tôi, ta mường-tượng đến chuyện tiếp-cận Kinh và Sách rất thánh-thiêng để theo đó mà sống, cũng rất Đạo. Đã là sống Đạo trong đời, thời cũng cần những câu truyện kể để minh-hoạ hoặc giúp mình nhớ lại những lời khuyên răn rất mực-thước, ở trường đời sau đây.
            Nói xa nói gần không bằng thú thật với bàn và tôi, là những người từng muốn giới-thiệu một hoặc vài truyện kể khá đáng kể, để làm bằng cho cuộc sống, như sau:

“Truyện rằng:
            Hai người phụ nữ ngồi trò chuyện với nhau, trong đó có một người nói:
-Con trai bà thế nào rồi!.
-Đừng nhắc nữa, thiệt là xui, đứa con này làm tôi lo lắng chết đi được!, người kia trả lời.

Người phụ nữ nói tiếp:
-Nó thiệt là quá xúi quẩy, lấy phải một người vợ cực kì lười biếng, không nấu cơm, không quét dọn, không giặt quần áo, không chăm con, cả ngày chỉ ngủ. Bữa sáng, con tôi còn đem tới tận giường kìa!
-Vậy, con gái bà thì sao? Bà kia hỏi tiếp.
-Nó thì tốt số rồi”.
Người phụ nữ cười tươi nói:
-Nó được gả cho một tấm chồng tốt, trước giờ không phải làm việc nhà, một tay đều do chồng nó lo hết, nấu cơm, giặt đồ, quét dọn, chăm trẻ, hơn nữa mỗi sáng còn đem thức ăn sáng tới tận giường cho nó ăn đó!”.

       Truyện kể chỉ có thế, có lẽ chẳng ăn nhập gì đề đề-tài mình đang bàn và viết. Thế nhưng, ngườu kể lại cứ níu kéo qui về đề-tài mình bàn, như sau:

“Qua câu chuyện kể trên, ta thấy rằng: trong đời, nhiều chuyện xảy ra cùng một trường hợp, nhưng khi đứng từ những góc độ khác nhau để nhìn nhận, xem xét, thì lại có cái nhìn không giống nhau. Về chuyện nghiên-cứu sách vở, cũng thế. Đứng ở góc cạnh nào đó, có thể ta và người nhìn sự việc nghiên-cứu theo cách phiến diện, một chiều, nghĩa là cứ tưởng người người xưa nay không thích viết và đọc sách. Chí ít là sách khô-khan lý-luận chuyện trên trời. Nhưng nếu đứng từ góc cạnh nào khác lại thấy khác, bởi điều nào cũng sẽ tạo nên nhiều hiểu lầm không đáng có. 
       
Đối với bất kì việc gì, chúng ta cũng nên có cái nhìn khách quan, đứng ở lập trường của người khác mà xem xét, hoặc đổi một góc độ khác mà nghĩ, khi đó, mọi chuyện sẽ có chiều hướng tích cực hơn. (Sưu tầm ghi chú)

            Và lời cuối của tôi và của bạn gửi cho nhau về đề-tài này, vẫn là những ca-từ được trích-dẫn ở trên. Dù đôi lúc, chẳng ăn-nhập gì đến đề-tài ta bàn luận. Thôi thì, cứ coi đó như một hồng-ân Bề Trên gửi để suy-tư qui về cuộc sống rất hiện-tại. Của mỗi người.
Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta quay về với ca-từ rất ý-tứ như sau:

“Tôi yêu những sông trường,
Biết ái tình ở dòng sông Hương,
Sống no đầy là nhờ Cửu Long,
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong.

Người yêu thế giới mịt mùng
Cùng tôi ôm ấp ruộng đồng (ừ đồng) Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim ngàn
Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng (à hàng) mến nhau”
(Phạm Duy – bđd)

Thế-giới mịt mùng kia, mà còn yêu nữa huống hồ là con người. Dù, người con của tôi và của bạn không được như thế, vẫn cứ yêu. Yêu tất tần tật, để rồi sẽ thấy cuộc đời vui hơn Giao-thừa, ngày Tết, rất ba mươi.

Trần Ngọc Mười Hai
Chưa kịp vui đêm 30
Đã biết cười
vào ngày Tết.