Saturday, 28 May 2011

“Rồi đây một mai lối xưa tôi về”

Kể chuyện buồn vui hai đứa mình nghe.

Một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm lắng nghe tiếng nhịp con tim, hai người gọi chung một tên…”

(Minh Kỳ/Hoài Linh – Nếu Một Mai Anh Biệt Kinh Kỳ)

(Cv 1: 8-9 )

Thời buổi này, làm gì còn có giấc mơ xưa, những là “một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm”, “lắng nghe tiếng nhịp con tim” để rồi ta cứ ngồi đó mà “kể chuyện buồn vui”, “hai đứa mình nghe”, thôi. Quả thế! Một đứa nghe thôi, cũng đã chết. Huống hồ là, những hai người đều nghe thì làm sao nuốt nổi những tư tưởng rất “tưng bừng”, nhiều sáng kiến. Vâng. Đây, chỉ là những giấc mơ lờ mờ, một giấc mộng rất “xưa rồi Diễm”, của “Diểm Xưa”, mà người anh “biệt kinh kỳ”, đã rồi đây “một mai”, hay mai một, đến như thế?

Ngay cả cụm từ “biệt kinh kỳ” do hai tác giả Minh Kỳ và Hoài Linh sáng chế, tuổi trẻ hôm nay làm sao hiểu nổi, nếu không tra cứu thêm từ điển? “Kinh kỳ” đây, dù người em ở lại dù có hiểu rõ đi nũa, cũng đâu là những kỳ đọc kinh/ngắm kệ hay kể lể về những gì kỳ lạ, của vị kinh sư, rất khiếp kinh ở Israel vào thời ấy. Cũng chẳng là bài thuyết pháp/giảng giải ở nhà thờ về các chi tiết liên quan đến người đời, sống cuộc đời người, ở đâu đó.

Biệt kinh kỳ”, hay còn là giã biệt kinh đô rất lạ kỳ, chỉ là lời nhắn gửi người anh/người chị thân thương trước khi anh/chị về chốn hoàng hôn chốn lính trận, tìm “tình nào hơn nước non”, thời đó thôi. Kinh kỳ hôm nay, đâu ai chịu giã biệt, lại cứ ùn ùn kéo về thủ đô nước Việt ở phiá Nam, để dân số hôm nay lên những hai chân số, hơn 10 triệu!

Với người đời, “kinh kỳ” (hay còn gọi là “cố đô”) của tâm hồn đã giã biệt, lại là những tính chất “cá biệt” trong nếp sống xưa, cần khai tỏ. “Kinh kỳ” ấy, “cố đô” này, vẫn có thể là như ý nghĩa của truyện kể rất nhẹ nhàng, ở bên dưới:

“Chuyện kể rằng,

có vị vua nọ ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc mình về những kho báu cũng như ngai vàng của mình, nên nhà vua không còn thấy bình an trong cuộc sống. Ông lại nghi ngờ các vị quan/dân các cấp. Và, tương lai trở thành nỗi hãi sợ, ám ảnh ông.

Từ cung điện cao sang nhìn xuống lớp dân đen/nghèo hèn ồm yếu nhưng hạnh phúc, nhà vua thấy mình thèm được như họ. Thấy nơi họ, toát lên nỗi đơn sơ, chân chất, không lo lắng điều gì về tương lai, mai ngày. Vốn dĩ luôn thắc mắc, với nghi ngờ, nên vua tò mò quyết cải trang thành người hành khất để tìm hiểu xem do đâu mà lớp dân nghèo của nước mình lại bình an, không lo lắng đến tương lai.

Một ngày kia, vua giả dạng người ăn mày gõ cửa nhà một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời ăn mày vào nhà và cùng sẻ san ổ bánh mì với thái độ hân hoan, rất yêu đời. Vua hỏi:

-Điều gì làm ông sung sướng đến như vậy?”

Người nghèo đáp:

-Tôi hân hoan sung sướng vì có được một ngày đẹp. Tôi sửa giày chữa dép chỉ cần kiếm đủ tiền mua ổ bánh cho buổi cơm tối nay, thế là đủ.

Vua hỏi tiếp:

-Thế, chuyện gì xảy đến, nếu mai ngày ông không kiếm đủ tiền mua bánh thì sao?

-Tôi có niềm tin vào mọi ngày. Ngày qua ngày, mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp thôi.

Sau khi ra về, vua muốn thử lại niềm tin của người thợ giày, hôm ấy, bèn ra lệnh cấm tất cả mọi người sửa giày dép không được hành nghề này trong vương quốc của ông nữa. Thoạt khi biết rằng nghề của mình bị cấm đoán, người thợ giày bèn nhủ thầm: “Ngày qua ngày, rồi ra thì mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp thôi”. Lập tức, ông thấy có vài phụ nữ gánh nước ra chợ để tưới rau bán, ông bèn xin được làm chân gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối, thế cũng xong. Tối về, vua ông lại giả dạng người hành khất lại đến thăm người gánh nước nghèo. Gặp vua-giả-dạng-làm-hành khất, người nghèo gánh nước vẫn giữ thái độ ung dung, thư thái với ổ bánh mì đạm bạc, đang nhai, kể lại chuyện gánh nước mướn hôm ấy.

Một lần nữa, để thử thách niềm tin của người nghèo gánh nước mướn, vua lại ra lệnh cấm không ai được phép hành nghề gánh nước mướn trong vương quốc của mình, nữa. Và cứ thế, người nghèo nói trên thay đổi rất nhiều nghề, rất khác biệt. Nhưng, ở nơi ông, vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống “ngày qua ngày” của mình. Còn vua, vẫn không thể nào hiểu được làm sao người nghèo nước ông lại có được sự bình an và niềm tin chân chất, giản đơn đến thế. Rồi cứ thế, mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo kia lại cứ thản nhiên tin rằng, “Ngày qua ngày, mọi chuyện rồi ra cũng tốt đẹp, thôi.”

Quá tò mò trước triết lý sống giản dị của người dân nghèo hèn, vua lại ra lệnh cho các quan văn võ trong nước sắp xếp sao để buộc tất cả mọi người nghèo trong nước phải trở thành lính kiểng trông nom canh gác cho cung điện của mình. Thật tội nghiệp cho người nghèo kia, từ nay không được lãnh lương tiền hằng ngày để mua bánh mì mà sống, phải đợi đến cuối tháng mới có. Tính sao đây? Dù vậy, anh ta cũng lại tìm ra cách thức bán gươm đao do trên cấp phát, để có tiền mua bánh mì cho nguyên cả tháng.

Tối về nhà, thế là anh ta lại có bánh mì để ăn, nên vẫn hạnh phúc với triết lý sống “ngày qua ngày, mọi việc rồi cũng tốt thôi.” Vua nghe thế, lại giả dạng dân thường, đến thăm ông và hỏi:

-Lâu nay, ông làm nghề gì để kiếm tiền mua bánh ăn độ nhật, thế?

-Tôi, nay được cất nhắc làm lính hầu ở dinh vua, cũng thấy sướng. Có dư tiền độ nhật.

Rồi, anh đơn sơ kể thật chuyện làm lính hầu ở dinh vua, chỉ lãnh lương lương tiền vào cuối tháng mà thôi, nên đã bán gươm thật đi, đổi lại, anh lấy tiền mua đủ bánh mì cho nguyên một tháng. Để rồi đến ngày lãnh lương, anh sẽ chuộc lại chiếc gươm thật và như thế, có thể tiếp tục được cuộc sống “ngày qua ngày”, tuy đạm, bạc, nhưng rồi cuộc sống cũng tốt đẹp cả thôi”. Không bon chen, giựt giành với người khác. Vua lại hỏi:

-Không có gươm thật, làm sao canh giữ được dinh thự của vua quan?

Anh bèn bật mí cho khách biết:

-Hiện thời, chiếc gươm tôi sử dụng chỉ là gươm giả bằng gỗ, cũng không sao.

Vua hỏi tiếp:

-Nhưng nếu anh bị cấp trên bắt buộc phải rút gươm thật cho họ xem xét thì sao?

-Ngày qua ngày, mọi chuyện rồi cũng tốt đẹp cả thôi.

Quả là, hôm sau người ta bắt được một tên trộm khét tiếng cấp trên quyết định xử chém. Vua quan yêu cầu người nghèo được tuyển làm lính canh kia phải ra tay thực hiện vai trò của tên đồ tể chém đầu tay ăn trộm. Bởi lẽ, vua thừa biết: với chiếc gươm bằng gỗ, người-nghèo-được-làm-lính kia dẫu có ba đầu sáu tay, cũng không thể tuân được lệnh vua ban. Và như thế, xem niềm tin vào triết lý sống “ngày qua ngày, mọi sự rồi ra cũng tốt đẹp cả thôi,” của anh sẽ ra sao. Khi tên tử tội vừa quì mọp dưới chân anh lính nghèo thống thiết nài van anh tha mạng, vì y ta còn vợ còn con nhỏ, phải nuôi dưỡng. Anh lính nghèo nhìn đám đông xung quanh một hồi, rồi hô lớn:

-Lạy Đấng Tối Cao, nếu người này có tội thực, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua quan ban. Nếu anh vô tội, xin Ngài biến gươm này thành gươm gỗ, để cứu hắn.

Ngay tức thì, anh rút gươm ra chém đầu tên tử tội. Nhưng vì chiếc gươm anh cầm chỉ là gươm gỗ nên tên tử tội không bị giết. Đám đông chứng kiến sự thật như trên, bèn la lên: “Phéo lạ! Quả, đây là phép lạ!” Và, trước cảnh tượng hỡi ôi là như thế, vua bèn truyền lệnh tha cho tên trộm khỏi chết, đồng thời tiến đến người lính nghèo thú thật:

-Trẫm đây, là người giả làm hành khất cứ đêm đêm tới hỏi chuyện ngươi. Từ nay, trẫm muốn anh là bạn và là quân sư cho trẫm.”

Truyện kể rất nhẹ nhàng. Đơn giản. Hơi mang chút ít tích cổ. Nhưng trong phiếm luận đường dài rất lai rai, thì cổ hay tân không là điều quan trọng. Quan trọng là lời bàn của người kể, hôm nay lại dẫn đưa một lời bàn về triết lý của cuộc sống “Ngày qua ngày” có lời lẽ như sau: cuộc sống chỉ quan trọng nhất thời hiện tại. Dù có cả quá khứ lẫn tương lai. Triết lý của thanh niên nghèo kia, là triết lý thực đặt giá trị thực tiễn lên trên tiền bạc, danh chức, sắc dục và quyền lực. Cứ cho đi người đời chỉ quí trọng giàu sang, quyền thế đến thế nào đi nữa, nếu người người hôm nay không sống chân phương/trung thực, thì chẳng thể nào cảm nhận được giá trị của chính cuộc sống ấy. Nếu người người không sống giây phút hiện tại, thì cuộc đời mình cũng chỉ là chuỗi ngày tìm bắt cái bóng hình của “bình an, hạnh phúc”, rất vô vọng.

Hiểu như thế, thì “kinh kỳ” của người đời, chừng như vẫn còn mang tính không gian và thời gian, để lưu luyến. Chẳng thế mà, người đời cứ theo chân nghệ sĩ vẫn hát lời ca thẫn thờ, rất luyến nhớ, rằng:

“Tám hướng bốn phương trời mây

thôi nhé anh đi từ đây

Kỷ niệm nào không có vui hay buồn

chiều nào không có hoàng hôn

tình nào hơn nước non…”

(Minh Kỳ/Hoài Linh – bđd)

Với nhà Đạo, “kinh kỳ” mà Thầy Chi Ái giã biệt, không phải là chốn miền xảy đến ở không gian có thương đau. Xao xuyến, Có nỗi niềm đầy luyến lưu. Rõ ràng tình huống “kinh kỳ” Thầy giã biệt, là thế này:

“Nói xong,

Người được cất lên ngay trước mắt các ông,

và có đám mây quyện lấy Người,

khiến các ông không còn thấy Người nữa.”

(Cv 1: 9)

Xem như thế, “kinh kỳ” Thầy giã biệt, không là không gian hay thời gian của trần thế, mà là trạng huống qua đó Thầy có rời-nhưng-không-bỏ. Thầy về với Cha, nhưng không quên nhắn nhủ dân con ở lại, bằng những Lời đầy xác quyết:

“Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần

khi Người ngự xuống trên anh em.

Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri

và cho đến tận cùng trái đất."

(Cv 1: 8)

Xem như thế, thì “kinh kỳ” Thầy giã biệt, là tình huống có sức mạnh của Thánh Thần Chúa ở với dân con, để mọi người rồi sẽ làm nên tất cả. Sẽ, sống hạnh phúc rất đích thực. Không chỉ như quan niệm của thanh niên nghèo hèn vẫn cứ sống “ngày qua ngày”, chẳng lo gì quá khứ lẫn vị lai. Nhưng, tất cả sẽ là nét đặc trưng của cộng đoàn Nước Trời, luôn trông cậy vào Thánh Thần Chúa, đến với mình.

Có thể, có người sẽ ngược giòng lịch sử rồi cho rằng Hội thánh thời tiên khởi cũng hoang mang khi Thầy Chí Thánh về với Cha. Rất có thể, lúc đầu chỉ là những tình cảm sướt mướt, khi không thấy Thầy ở cạnh nữa. Nhưng tình cảm uỷ mị ấy đã được cất đi, để nhường cho những quyết tâm được Thầy dặn dò, một chúc thư:

“Đức Giê-su đến gần, nói với các ông:

"Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.

Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ nhân danh

Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,

dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."

(Mt 28: 19-20)

Đồ đệ Chúa hôm nay, trong nhiều hoàn cảnh thực tế, hẳn sẽ có vị còn duy trì thái độ ủy mị, khi Chúa “được cất về trời”. Nhưng, cũng có nhiều vị vẫn hiên ngang nhớ lời Thầy dặn dò, để mà sống. Sống oai hung, chỉ biết và nhớ những điều ấy. Mặc cho ai có phê bình chỉ trích mình là người sao, cũng vẫn mặc.

Người đời hôm nay, cũng thế. Có người, cũng liên tưởng đến buổi “Biệt kinh kỳ” của Chúa, để rồi, lúc này hay lúc khác, quyết thực hiện điều Chúa dặn dò bằng phương cách này khác, như giùm giúp cả người dưng khách lạ, dù chỉ một ý kiến nhỏ nhoi, dù cho người đời có coi mình chẳng ra gì, như truyện kể để minh hoạ ở bên dưới:

“Một anh tài xế xe tải làm công việc thường ngày giao hàng cho một bệnh viện tâm thần, đang đậu xe bên cạnh một ống cống nước.

Lúc chuẩn bị rời bệnh viện, anh nhận thấy có một bánh xe bị xì hơi. Anh kích chiếc xe tải lên và tháo bánh xe xì hơi để thay vào đó một bánh xe dự phòng. Lúc sắp sửa gắn bánh xe mới vào, đột nhiên anh làm rơi cả bốn chiếc bù lon xuống ống cống nước. Anh không thể nào vớt những chiếc bù lon ra khỏi ống cống được, và bắt đầu hoảng lên vì không biết phải làm gì. Ngay lúc đó, một bệnh nhân đi ngang qua và hỏi anh tài xế tại sao trông anh có vẻ hốt hoảng như vậy. Người tài xế tự nghĩ, bởi vì mình mà còn không làm được huống gì cái gả điên này, nên để gã ta đi cho khuất mắt, người tài xế xe tải nói sơ qua tình hình và đưa một cái nhìn thất vọng. Người bệnh nhân cười anh tài xế và nói:

-Chỉ mỗi cái việc đơn giản như vậy mà anh còn không cách nào làm được. Không lạ gì anh sinh ra chỉ còn cái nghề tài xế xe tải để sống". Người tài xế lấy làm ngạc nhiên khi nghe lời nhận xét như vậy từ một gã tâm thần. "Đây là cái anh có thể làm", gã tâm thần nói.."tháo một cái bù lon từ mỗi trong ba bánh xe kia và gắn vô cái bánh xe này. Rồi lái xe xuống cửa tiệm gần nhất và thay những cái bù lon còn thiếu vô. Đơn giản quá phải không anh bạn?"

Người tài xế quá cảm kích với lối giải quyết nhanh chóng này liền hỏi người bệnh:

-Anh giỏi và thông minh như vậy sao lại có mặt ở bệnh viện tâm thần này thế?

Người bệnh trả lời:

"Anh bạn ạ! Tôi ở đây bởi vì tôi khùng chứ không phải tôi ngu"…

Quả là, trong cuộc sống đời thường, người nhà Đạo đôi khi cũng bị cho là điên khùng điên khi vẫn hiên ngang sống thực hiện điều Thầy dặn dò, trước khi Ngài “biệt kinh kỳ”, khỏi trần thế. Hôm nay, có lẽ cũng nên liên tưởng đến lời của người khùng nhưng không ngu ở bệnh viện tâm thần, khi anh dám giùm giúp người dưng khách lạ, đang gặp nạn.

Có bị coi là khùng hay điên vì tin vào Lời Thầy sống đúng mực, hẳn bạn và tôi ta đừng sợ. Chí ít, là nỗi sợ bị người người chê bai này khác. Bởi, Thầy đã xa rời đồ đệ là ta, để ra đi về với Cha. Nhưng, Thầy quyết không bỏ mọi người ở lại, dù chốn khùng điên bệnh tâm thần. Thầy không bỏ, nhưng vẫn giữ Lời dặn dò hôm ấy:

“Và đây,

Thầy ở cùng anh em mọi ngày

cho đến tận thế."

(Mt 28: 20)

Quyết như thế, ta sẽ cùng người nghệ sĩ cứ lan man và vui hát lời ca rất kết hậu, rằng:

“Rồi đây một mai lối xưa tôi về”

Kể chuyện buồn vui hai đứa mình nghe.

Một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm lắng nghe tiếng nhịp con tim, hai người gọi chung một tên.”

(Minh Kỳ/Hoài Linh – bđd)

Có Thầy và có Chúa ở cùng rồi, thì không chỉ hai người mà tất cả mọi người sẽ cùng “gọi chung một tên.” Tên ấy hôm nay, bây giờ và mãi mãi sẽ là tên và tuổi của người đồ đệ Chúa, rất Giêsu.

Trần Ngọc Mười Hai

Cứ nhớ mãi Lời Thầy dặn dò

Để có cuộc sống yên vui

An bình

Hạnh phúc.

Friday, 20 May 2011

“Từ khi trăng là nguyệt”,

“đèn thắp sáng trong tôi,

từ khi trăng là nguyệt,

em mang tim bối rối…”

(Trịnh Công Công Sơn – Nguyệt Ca)

(1P 4: 7-8)

Trăng là nguyệt, hay nguyệt là trăng. Là chị Hằng, đều là một nỗi. Nỗi và niềm, có trăng luôn thắp sáng hoặc có nguyệt làm bối rối tim em mỗi tháng hay mỗi ngày vào nguyệt tận? Tức, tháng ngày chỉ leo lét ánh sáng đâu đó, cứ tưởng chị Hằng ghé thăm, thì cũng lầm. Lầm, như đêm 30 lại nghe có niềm vui đến từ lời ca của nghệ sĩ, một thời từng hát:

“Từ khi trăng là nguyệt

tôi như từng cánh diều vui,

Từ khi em là nguyệt,

trong tôi có những mặt trời.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Chỉ mới hát, “Khi em là nguyệt” thôi, mà người nghệ sĩ đã như “có những mặt trời”. À thì ra, người người ở mọi thời, vẫn cần đến ánh sáng của nguyệt là trăng/trăng là nguyệt như của mặt trời, khiến chị Hằng thấy nguội lạnh, cần thắp sáng bằng ơn trên.

Bởi thế nên, dù có là ánh sáng của Ơn Trên, hay là mặt trời/mặt trăng rất chị Hằng như câu chuyện Mẹ Têrêsa thành Calcutta từng nhắc đến như sau:

“Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau:

Ở Úc, có thổ dân nọ giống giòng Aborigines từng sống trong hoàn cảnh thật đáng thương. Ông là đấng bậc cao niên, nhưng vẫn sống trong túp lều xiêu vẹo. Bắt đầu chuyện vãn với ông, tôi có nói:

-Để tôi dọn dẹp nhà cửa và sửa soạn giường chiếu cho ông.

Ông trả lời cách hững hờ:

-Tôi quen sống vậy rồi, Bà đừng phiền.

-Nhưng tôi nghĩ, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nếu nhà mình sạch sẽ, ngăn nắp, chứ?

Sau cùng, ông bằng lòng để tôi dọn dẹp lại cho ông. Khi quét dọn, tôi phát hiện ra cây đèn cũ tuy rất đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm bồ hóng. Tôi mới hỏi:

-Có khi nào ông thắp cây đèn này lên không?

Ông trả lời rất cộc lốc:

-Thắp đèn để làm gì, nào ai thấy! Có ai bước vào nhà này bao giờ đâu mà thắp nó. Đã lâu, tôi vẫn quen sống như thế cũng chẳng cần thấy mặt mũi của người nào.

Tôi hỏi tiếp:

-Nếu nữ tu của tôi thường xuyên đến thăm ông, ông có vui lòng để họ thắp đèn không?

-Dĩ nhiên rồi. Ai mà chả vui lòng đón tiếp nhìn mặt các chị ấy chứ…

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé thăm nhà ông. Và cũng từ đó, ông bắt đầu thắp đèn lên và dọn dẹp nhà cửa trông sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa, mới qua đời. Trước khi chết, ông có nhờ các nữ tu về nhắn với tôi rằng: Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, người bạn quý của tôi rằng: ngọn đèn mà Bà thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng đấy. Đó chỉ là một việc rất nhỏ Bà làm, nhưng trong bóng cô đơn đời tôi, ánh sáng hy vọng đã loé sáng đời của tôi, vào giờ cuối. Và nó sẽ còn tiếp tục loé sáng mãi, với mọi người.”

Với vị nữ tu Bề Trên là Đấng thánh lập dòng, thì như thế. Với nghệ sĩ ở đời, thì như sau:

“Từ đêm khuya, khi nắng sớm trong những cơn mưa,

Từ bao la, em đã đến xua tan những nghi ngờ,

Từ trăng xưa là nguyệt, lòng tôi có đôi khi,

Tựa bông hoa vừa mọc, hân hoan giây xuống thế.

Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời gõ nhịp ca,

Từ khi em là nguyệt, cho tôi bóng mát thật là.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Tựa “nắng sớm trong những cơn mưa”, “em đã xua tan những nghi ngờ.” Tựa “bông hoa vừa mọc”, em “cho bóng mát thật là”. Bông hoa ấy. Bóng mát nọ. Có là nguyệt? Là trăng? Để rồi, tôi và em sẽ lại hát thêm:

“Từ khi trăng là nguyệt, vường xưa lá xanh tươi,

Đàn chim non lần hạt, cho câu kinh bước tới.

Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi.

Từ khi em là nguyệt, câu kinh đã bước vào đời.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Chim non hôm nay, chưa kịp lọt lòng mẹ để “lần hạt”, “cho câu kinh bước tới”, lại cũng đã bị đời người và người đời tìm khai thác bóp nghẹt cả sự sống, từ trứng nước. Quả là ngày nay, người đời và đời người vẫn cứ bóp nghẹt và bóp chẹt sự sống của con người bằng nhiều cách. Có những cách vẫn nhân danh Khoa học và Sự sống, như lời hỏi của dân thường ở huyện Sydney, sau đây:

“Tôi có người bạn cũng là bà mẹ trẻ như tôi, vừa đưa ra câu hỏi về một vấn đề khá hóc búa. Bạn hỏi rằng: có hợp đạo lý chăng, khi con người tự hào là văn minh hôm nay lại đang khai thác các tế bào phôi nhi rút ra từ bào thai bị nạo phá để làm thuốc chủng ngừa các bệnh tật ở trẻ em. Phải chăng con người đang mạo danh khoa học để làm những việc tày trời, phản đạo đức? Điều này quá mới mẻ, đối với tôi. Vậy xin hỏi linh mục: giáo huấn của Hội thánh có đả động gì đến vấn đề này hay không? (Một người mẹ đang có thắc mắc rất thực xin ghi ơn)

Cũng chẳng biết, câu hỏi có thật của bà mẹ trẻ ở Sydney hay không? Nhưng thôi, cứ có hỏi là tốt rồi. Bởi, hỏi hay không, đấng bậc nhà Đạo ở Sydney nay lại cũng làm cái công việc rất bình thường của nhà luân lý rất Đạo, để trả lời. Như sau:

“Cũng như chị, có nhiều bạn hiện vẫn không biết là trên thực tế, lâu nay một số thuốc chủng được chế biến từ các giây tế bào sống lấy từ mô động vật ở thai nhi bị nạo phá. Điều này chắc chắn dấy lên nhiều thắc mắc vấn nạn hỏi rằng việc sử dụng các thuốc chủng để chữa bệnh cho trẻ em có hợp đạo lý không?

Thật ra thì, Hội thánh lâu nay cũng đối đầu với nhiều thắc mắc cho rằng ta có thể sử dụng một cách hợp pháp các thuốc chủng như thế với một số điều kiện nào đó. Qui định về những gì được phép hoặc trái phép đã được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đề cập đến trong một số vấn đề về đạo đức sinh lý có liên quan đến Phẩm giá Con người, ban hành vào ngày 8/9/2008.

Giáo huấn của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin đã phân định rõ thế nào là sử dụng “chất liệu sinh lý” lấy gốc từ các bào thai bị nạo phá được nghiên cứu gia và bậc cha mẹ dùng mà chủng ngừa cho trẻ em .

Theo tiêu chuẩn mà Thánh Bộ dùng để giáo huấn dân con trong Đạo có nhấn mạnh đến “bổn phận phải làm sao tránh hợp tác với ác thần sự dữ cũng như các hành động gây tai tiếng”(#32). Về hợp tác với ác thần/sự dữ, trường hợp này là sự dữ rất nghiêm trọng liên quan đến chuyện nạo phá thai nhi, tức có nối kếp hoặc hợp tác trực tiếp với sự dữ ngay lúc ấy. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ sử dụng các chất liệu sinh lý lấy từ việc nạo phá thai nhi, cũng có thể là hợp tác hợp lực, nhưng ở mức độ rất nhỏ.

Dù sao đi nữa, các nhà nghiên cứu tuy không không dính phần trực tiếp vào chuyện nạo phá thai nhi, họ cũng không hưởng được lợi lộc gì từ việc sử dụng chất liệu lấy từ đó, mà chỉ ngầm hiểu là họ chấp thuận hành động nạo phá thái nhi, thôi. Giáo huấn của Thánh Bộ cũng dạy rằng “điều này “kéo theo mâu thuẫn trong thái độ của người từng quyết đoán là mình không dính dự gì đến chuyện chấp thuận việc bất chính do người khác làm. Nhưng, cùng lúc chấp thuận để cho công việc của chính mình được thành công nhận sử dụng “chất liệu sinh lý” mà người khác đạt được từ phương tiện bất chính như thế”. (#34)

Điều này xem ra, ngay từ đầu, đã bác bỏ việc các nhà nghiên cứu được phép sử dụng các chất liệu này để sản xuất thuốc chủng ngừa. Tuy nhiên, theo Lm John Flemming, trong cuốn “Giải thích Phẩm giá Con người” (Connor Court 2010) ông có viết rằng: “Trong trường hợp các mô được trữ lạnh một thời gian nào đó từ các lần nạo phá thai nhi trong quá khứ, thì cũng có thể được phép sử dụng chất liệu ấy vì tính cách nhỏ nhoi rất xa vời mà các nhà nghiên cứu dính dự vào hành động nạo phá thai nhi bất chính.” (tr. 70-71). Thật thế, các giây tế bào sử dụng để làm thuốc chủng ngừa, đặc biệt để ngừa bệnh đậu mùa, là lấy từ thai nhi bị nạo phá hơn 40 năm trước.

Thế, còn các bậc cha mẹ nào sử dụng thuốc chủng ngừa lấy từ chất liệu này, thì sao? Rõ ràng là, việc cha mẹ hợp tác vào việc nạo phá thai nhi như thế cũng rất nhỏ nhoi/xa vời, với điều kiện là các bậc cha mẹ phải chống đối lại tính cách vô luân của nạo phá thai. Do đó, theo tiêu chuẩn thông thường về chuyện hợp tác với ác thần sự dữ, nếu như việc hợp tác là nhỏ nhoi/xa vời và đương sự chống đối sự dữ ngay tận gốc –tức, việc hợp tác chỉ mang tính chất liệu chứ không công khai- các vị này có thể hợp lực với điều kiện có lý do thật xứng hợp để biện minh.

Trường hợp này, có nghĩa là: nhu cầu chủng ngừa cho con trẻ khỏi bị các bệnh có tiềm năng gây nguy cơ cho tính mạng của các em, thì có thể biện minh cho việc sử dụng thuốc chủng làm từ các thai nhi bị nạo phá, nếu như không có sẵn thuốc chủng nào khác hiệu nghiệm. Theo ngôn từ của giáo huấn do Thánh Bộ đưa ra, thì: ”Các lý do nghiêm túc khả dĩ tương xứng về luân lý đạo đức có thể biện minh cho việc sử dụng các “chất liệu sinh lý” như thế. Thành ra, lấy ví dụ như: vì có nguy hiểm đến tính mạng của trẻ bé, thì có thể cho phép bậc cha mẹ sử dụng thuốc chủng ngừa được phát huy từ các giây tế bào có nguồn gốc trái phép, nhưng vẫn phải luôn phải giữ trong đầu để hiểu rõ là ai cũng có bổn phận phải tỏ cho mọi người biết là mình đả phá chuyện nạo thai và cũng đã yêu cầu hệ thống ytế sản xuất các loại thuốc chủng nào khác để sử dụng cho công minh chính trực.” (#34)

Dù mình có thể sử dụng các loại thuốc chủng như thế, các bậc cha mẹ cũng phải nói cho bác sĩ hoặc hãng bảo hiểm y tế của mình biết là mình những muốn chọn thuốc chủng nào không lấy từ thai nhi bị nạo phá trước đó.

Cha mẹ nào không để cho con cái mình được chủng ngừa vì lý do luân lý/đạo đức như thế hoặc vì sợ nguy hiểm đến tính mạng của trẻ do chính thuốc chủng ấy tạo ra, thì các vị này cũng nên biết rằng nguy cơ tử vong về sau do không chủng ngừa, có thể còn cao hơn là không cho chủng. Chí ít, là con em mình có thể tạo lây lan bệnh ngặt nghèo qua các trẻ em hoặc người lớn khác vì quyết định không cho con mình chủng ngừa, cũng rất lớn.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 8/5/2011, tr. 12)

Nói như đấng bậc nhà Đạo ở trên, là như ngồi trên cao mà nói xuống. Tức, nói về giáo huấn của nhà Đạo xuống cho người khác biết thi hành, cho đúng luật. Hay còn gọi, là nói theo cách lý luận về luận lý cũng như luân lý, và giáo luật. Rất khó hiểu. Với dân gian. Nói như dân gian ngoài đời, có thơ và có nhạc, như người nghệ sĩ trích dẫn ở trên có lần cũng có nói bằng tiếng hát, rất như sau:

“Từ trăng thôi là nguyệt, là trăng với bao la.

Từ trăng kia vừa mọc, trong tôi không trí nhớ.

Từ trăng thôi là nguyệt, hôm nao chợt có lời thưa,

Rằng em thôi là nguyệt, tôi như đứa bé dại khờ.”

(Trịng Công Sơn – bđd)

Như bé dại khờ, cũng có thể vì tôi đây bần đạo là người “đi” Đạo, nhưng rất “bần cùng”. Bần thần. Bần đạo, tựa như “bé dại khờ”, nên chẳng dám “có lời thưa” hôm nào khi chợt thấy “trăng thôi là nguyệt”. Thấy, “trăng kia vừa mọc”, đã khiến “trong tôi không trí nhớ”. Nên rất hay quên. Hay quên, đến độ chỉ nhớ đôi truyện kể của em nhỏ, như truyện dưới:

Truyện rằng,

Bé em vì dại khờ, nên hay thắc mắc. Thắc mắc, cả chuyện rắc rối sau đây:

-Mẹ à, Dì Tám “nhiều chuyện” nói với con rằng: sở dĩ Ba mẹ sanh ra con là do “ắc-xi-đăng”, muốn đi bệnh viện để tống khứ, nhưng sợ tội. Thế nên, sau này con lớn khôn có làm gì cũng phải cẩn thận… Dì còn nói nhiều chuyện lắm, nhưng “ắc-xi-đăng” là gì hả mẹ?

-Là, “đụng chuyện” dễ vỡ bể.

-Đụng chuyện là đụng thế nào? Và, vỡ bể là vỡ cái gì vậy mẹ?

-Là vỡ kế hoạch nên đành chịu. Cũng như người bị “ắc-xi-đăng”, lỡ bể đồ rồi đành chịu thôi.

-À thì ra, tại vì ba mẹ “đụng chuyện” nên nay con mới bị rầy là hay “nhiều chuyện”, có phải vậy không?...

Chưa hẳn là như vậy. Nhiều lúc, thiên hạ dù vẫn “đụng chuyện”, toàn những chuyện không chắc là do “ắc-xi-đăng” gây “vỡ bể”, cũng đâu thành “nhiều chuyện”. Đôi lúc, do có “nhiều chuyện” nên mới thành chuyện. Thành câu chuyện, nên người người mới chịu tìm để hiểu, và nghĩ suy. Nghĩ và suy, như suy về lời khuyên của thánh nhân xưa được coi như Lời của Chúa. Lời ấy, dẫy đầy trong Kinh Sách. Nay, trích dẫn đôi lời để rồi “thành chuyện” ta đề cập, làm kết cục bài phiếm khô khan. Cô đọng. Gây nhức nhối:

“Tiên vàn mọi sự,

hãy có lòng yêu mến nhau khắng khít,

vì đức mến phủ lấp vô vàn tội lỗi…

Mỗi người tuỳ theo ân lộc đã được,

hãy lợi dụng mà phục vụ nhau,

như người quản lý giỏi giang về ân sủng muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa.

Ai nói, (hãy nói) như Lời của Thiên Chúa;

ai phục vụ (hãy phục vụ) như do mãnh lực Thiên Chúa cấp cho,

ngõ hầu trong mọi sự, Thiên Chúa được tôn vinh, nhờ Đức Yêsu Kitô.”

(1P 4: 8-11)

Cuối cùng, chuyện sống Đạo ở đời, không chỉ để phiếm mà thôi. Nhưng còn để, nhân lúc phiếm, bạn và tôi, ta nhớ mà sống cho đúng tinh thần yêu thương và phục vụ, của Hội thánh.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn thường tự kỷ ám thị

những lập trường

ra như thế.

Monday, 16 May 2011

“Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa”

Như mưa đời phất phơ, chắc ta gần nhau chưa?

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – Em HIền Như Ma Soeur)

(Mc 6: 3/Mt 27: 56; 28: 1)

Mới chỉ đưa em đi hay dắt em về dưới mưa thôi, mà nhà thơ đã lơ mơ cùng nghệ sĩ lại cứ bảo “nói năng chi cũng thừa”, thế là sao? Phải chăng, vì “cơn mưa đời phất phơ”, vẫn làm em hát mãi câu ca đầy thách thức: “chắc ta gần nhau chưa?”

Sự đời, kể cũng lạ. Lạ, đến hết biết. Và, hết hiểu nổi. Hiểu và biết, tâm hồn người nghệ sĩ cùng thi nhân, vẫn cứ lon ton/đon đả những đưa cùng đón em về dưới mưa, mà lòng thấy chưa gần. Để rồi lại bảo: “Em hiền như‘ma soeur”, giống hệt như: “Anh lành như mon frère”.

Thật ra, khi diễn tả đức tính thùy mị, dịu dàng của “người em” mà tác giả mô tả là “hiền như ma soeur”, thì không chắc đây có là cụm từ chỉ rõ nhân vật ấy là tu sĩ nam/nữ ở Đạo mình hay không! Bởi, bạn và tôi, hẳn ta vẫn nhớ ảnh hình người nữ tu chuyên trách chức giám thị của các trường tiểu học (còn gọi là “soeur surveillante”) với chiếc roi mây hay cây thước dài trong tay cứ đập xuống bàn, thì bầy em thơ có dạn dĩ cách mấy cũng phát khiếp, sẽ không còn cho bà là bậc nữ lưu hiền hoà nữa. Hoạ chăng, tác giả gọi “ma soeur” ở đây, là gọi và nói về người em nhỏ, đã ướt thấm đôi vai “ưu tình”, ở dưới mưa, vừa mới hát:

“Vai em tròn dưới mưa, ướt bao nhiêu cũng vừa

Như ưu tình đã xa, thấm linh hồn em yêu...”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Thật ra, thì: khi hát câu “em hiền như ma soeur” là hát và nói về người em nhỏ có hiền hay dữ cũng chẳng thành vấn đề. Vấn đề chỉ thành, khi người ca sĩ lại cứ gào thêm ngôn từ nghe đến sợ, như:

“Em hiền như ‘ma soeur’, vết thương ta bốn mùa

Trái tim ta bệnh hoạn, em yêu này em yêu..

Ta nhờ em ru ta, hãy ru tên vô đạo,

Hãy ru tên khờ khạo, em yêu này em yêu...”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Nói làm sao đây, khi người em nhỏ rất ‘ma soeur’ ấy vẫn không hiền như nhà thơ hay nghệ sĩ vẫn nghĩ? Hoặc, giả như người nhà Đạo lại cho rằng chính mình mới đích thực là đấng hiền lành, chân chất, rất đáng yêu, thì thế nào?

Nói thế, tức vấn đề sẽ đi vào ngõ cụt, thật khó rút. Bởi, nếu nhận định như trên, cần phải xét lại hoặc nghiên cứu cho kỹ mới được. Thôi thì, hôm nay, mời bạn và mời tôi, ta đi vào nghiên cứu với sưu tra, xem ý lực nào thực chính đáng. Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên nghe truyện kể nhè nhẹ về bé em ở huyện nhà, đã thổ lộ:

“Sáng hôm ấy, bố mẹ thấy bé Bính tự dưng sách cặp về nhà dõng dạc tuyên bố một câu rất thực về sự thật, rằng:

-Ba me đừng hỏi sao hôm nay con lại quay về nhà, chẳng chịu học. Con có phép có tắc đàng hoàng hẳn hoi đấy!

-Thế cơ đấy, phép tắc là phép gì vậy?

-Dạ, con đã thưa với bà thầy rằng: nhà con vừa có thêm một em bé, ngay tức khắc bà thày bảo là: con có thể về nghỉ để vui niềm vui chung với gia đình mình…

-Ấy, mẹ mình sinh một lúc những hai em sinh đôi cơ! Con có nói với cô như thế không?

-Con có ngu gì đâu bố. Cái đó, con để dành cho tuần tới mới tuyến bố… hì hì.

Sinh đôi hay sinh ba, bé em vẫn là người em nhỏ Chúa tặng ban cho gia đình mình vui. Chả thế mà, hồi còn trẻ nhiều bé em thường vui hát bài ca sinh hoạt có câu thơ rất ư là ồn, rằng: “Càng đông, chúng ta càng vui nhiều. Càng vui nhiều càng thú nhiều. Càng đông, chúng ta càng vui nhiều, càng vui nhiều càng yêu…”

Vâng. Đúng như thế. Càng vui nhiều, ta lại càng yêu. Yêu, như yêu người em nhỏ “hiền như ma soeur”, hay “lành như mon frère” ở Nước Trời nhà Đạo rất tôn kính vẫn có câu Kinh Sách từng xác quyết, về anh/chị hoặc em của Chúa, như sau:

“Ông ấy không phải là bác thợ,

con bà Maria,

và anh em với Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simôn đó ư?

Và, các chị em của ông,

lại không ở giữa ta đây sao? "

(Mc 6: 3)

Được làm anh chị em của Đức Giêsu ở Nước Trời, hẳn đó phải là ân huệ từ trời ban cho mới được. Ân huệ ấy, nhà Đạo mình đều cảm nghiệm một cách thân thương. Bởi, có cảm nghiệm rất thân và rất thương như thế, nên các người anh/người chị trong cộng đoàn Hội thánh, đôi lúc cũng có những ưu tư nhè nhẹ, khá thắc mắc. Ưu tư, là ưu phiền tạo tâm tư sầu lắng như câu hát, ở dưới:

“Em mang hồn vô tội, đeo thánh giá huy hoàng

Còn ta nhiều sám hối mà sao vẫn hoang đàng..

Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa

Đưa em về dưới mưa, có nhau mà như xa...”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Ưu tư của nghệ sĩ/thi nhân ngoài Đạo khi xưa có thể là như thế. Tức, “có nhau mà như xa”. Còn ở đây, thắc mắc của bà con thành viên Hội thánh ở Nước Trời, lại khác hẳn. Khác, như lời hỏi han với han hỏi, lâu nay rày vẫn thấy:

“Mới đây, con có xem một cuốn phim tài liệu trên truyền hình thấy người thuyết minh đã nói như đinh đóng cột, về chuyện Đạo bảo rằng: Mẹ Maria có đến 5 người con. Đọc Kinh thánh, con thấy thánh Mác-cô cũng nói đến “anh em/chị em của Chúa Giêsu”. Không hiểu sao mấy người đi Đạo bạn con, lại vẫn bảo: Chúa Giêsu là Con Duy Nhất của Đức Mẹ. Trường hợp này, Cha giải thích sao đây? (Người hỏi là cư dân ở Sydney, lại vẫn không ghi tên mình)

Ghi hay không ghi tên tuổi ở thư từ, cũng chẳng thành chuyện. Bởi, hễ cứ hỏi là sẽ được đấng bậc phụ trách mục hỏi/đáp sẽ có lời giải mã. Và, đấng bậc giải mã hôm nay sẵn sàng đáp trả bất cứ lời nào có liên quan đến thần học Kinh thánh, như sau:

“Như anh/chị nói đó, trong Tân Ước cũng có một vài đoạn nói về các người anh hoặc chị em của Đức Giêsu, hoặc chỉ đơn giản nói về anh/em hoặc “các anh em của Chúa”. Nay, ta hãy xem xét về chuyện này, để không bị kết tội là nhắm mắt mà làm ngơ, không cứu xét.

Thánh Mátthêu kể lại rằng khi Đức Giêsu đang giảng dạy tại Hội đường “ở xứ sở” của Ngài, thì dân chúng nói: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?" (Mt 13: 55; Mc 6: 3; Mc 6: 1-3)

Rõ ràng, là: điều mà dân chúng nói đến không hẳn chỉ là anh em hoặc chị em của Đức Giêsu theo nghĩa rộng trong đó kể cả các tông đồ cũng được coi là anh em của Ngài, nhưng đúng hơn chính là bà con thân thuộc theo đúng nghĩa.

Về sau, khi doãn lại cảnh trí diễn ra trên thập giá, thánh Matthêu nói có nhiều phụ nữ có mặt ở đó, trong số này có “bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê.” (Mt 27: 56). Như thế, rõ ràng điều này có nghĩa là thánh Giacôbê, Josê không phải là anh em của Đức Giêsu, đúng hơn là con của nữ phụ khác có tên là Maria.

Thánh Gioan tiếp thêm chút ánh sáng cho vấn đề này. Mô tả cảnh trí nơi thập giá có Chúa, thánh sử viết: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19: 25)

Rất có thể là bà Maria này, vợ ông Clôpát, cũng vẫn là bà Maria, Mẹ của thánh Giacôbê và Jôsê. Như thánh sử Gioan có nói: Bà là chị của Mẹ Maria, thân mẫu của Chúa.

Điều này chứng minh tại sao thánh Giacôbê và Jôsê được biết là “anh/em” hoặc “các anh em” của Đức Giêsu. Như thế, các ngài là anh/em họ hoặc ít ra cũng là bà con gần nhất với Đức Chúa.

Bản dịch tiếng Anh qui về thánh Giacôbê và Jôsê là “anh/em” đúng hơn là “các anh em”. Xem thế thì đã rõ, đoạn Kinh thánh đây cho biết các vị này không phải là anh/em cho bằng là họ hàng gần với Đức Giêsu, thôi. Và, cụm từ “Các anh em” đã được Văn Bản Chuẩn Mực của Ấn Phẩm Công Giáo có Sửa Sang đã sử dụng là bản văn chính xác.

Cùng một ý hướng như thế, cụm từ “chị/em” được dùng để chỉ về bà Maria, vợ của Clôpát, trong quan hệ với Đức Mẹ không thể coi là chị/em ruột nhưng chỉ là người chị hoặc em theo nghĩa rộng của người bà con hoặc họ hàng rất gần, thôi.

Xem như thế, thì thánh Giacôbê và Jôsê không thể là anh em họ với Đức Giêsu cho bằng là bà con họ hàng thuộc nhánh nào đó. Cũng như khi thánh sử Mátthêu nói đến ông Simôn và Giuđa là các anh em của Đức Giêsu, phải hiểu rằng có thể các ngài là bà con họ hàng với Chúa, thôi. Cũng như thế, khi Tân Ước qui chiếu nói về các người “chị/em” của Đức Giêsu, người đọc phải hiểu các vị này theo nghĩa như thế.

Để tóm kết, cũng nên qui chiếu sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng có viết: “Hội thánh luôn hiểu rằng các đoạn sách thánh đây không dẫn về những người con nào khác của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Thật ra, thì thánh Giacôbê và Jôsê , “anh/em của Đức Giêsu” là con của bà Maria khác, cũng là đồ đệ theo Chúa, mà thánh Mátthêu nói rõ: “Và, một bà khác cũng tên là Maria” (x. Mt: 27: 56; 28: 1). Tức các bà là họ hàng rất gần với Đức Giêsu, hiểu theo nghĩa của Cựu Ước .” (x. Sáng Thế Ký 13: 8; 14: 16; GLHTCG #500)

Ngoài các văn bản Kinh thánh như ta vừa xem xét, lý do rất vững chãi cho thấy tại sao Hội thánh lại dạy con dân mình rằng Đức Giêsu không có anh/em hoặc chị/em là lấy từ Thánh Truyền mà ra.

Ngay từ đầu, Hội thánh luôn tin tưởng và dạy dỗ con dân mình rằng Đức Maria đồng trinh vẹn toàn không chỉ vì Mẹ sinh ra Đức Giêsu thôi mà vì suốt đời Mẹ, Mẹ vẫn sống như thế. Mẹ không có quan hệ xác thịt với thánh cả Giuse vào lúc nào hết. Vì thế nên, Mẹ không có người con nào khác.

Chuyện này cũng rất ăn khớp với điều mà các nhà viết sách tu đức từng bày tỏ rằng nếu không, thì chuyện Mẹ có nhiều con khác sẽ không xứng hợp với cung lòng tinh tuyền vô nhiễm tội truyền của Đức Mẹ, tức cung lòng thánh thiêng được Chúa chọn làm nơi trú ngụ trong suốt thời gian Mẹ cưu mang.

Trong số các thánh Giáo phụ của Hội thánh, thánh Ambrôsiô , thánh Giêrônimô, thánh Âu Tinh, Êpiphanô và thánh Basiliô hoặc một số thánh cả khác đều đã quả quyết rằng tính chất đồng trinh của Đức Mẹ là điều xảy ra vĩnh viễn, suốt đời Mẹ. Thánh Basiliô có nói: “Bạn bè Đức Kitô không thể nào nhân nhượng được nếu như các ngài nghe được rằng Mẹ của Thiên Chúa lại chấm dứt không còn đồng trinh sạch sẽ nữa.” (x. Bài Giảng về Thế Hệ Đức Kitô Rất Thánh, #5).

Cũng theo Thánh truyền, thì Công Đồng Chung thứ 5 về Đại Kết tổ chức tại Constantinople năm 553 sau Công nguyên, đã tặng ban cho Đức Mẹ Maria tước hiệu là “Mẹ Đồng trinh vĩnh hằng”, tiếng Hy Lạp gọi là “Aeiparthenos. Và, đây là tín điều buộc mọi người Công giáo chúng ta phải tin thôi. (x. Lm John Flader, Question time, The Catholic Weekly 10/4/2011, tr. 10)

Đụng vào vấn đề của niềm tin, mà lại phiếm, thật ra cũng không phải phép cho lắm. Nhưng phiếm ở đây, không có nghĩa là bàn chuyền “bá láp bá xàm” nhưng là dám bàn cả chuyện đứng đắn, nhưng theo hình thức lai rai, nhè nhẹ. Trong khuôn khổ thâm thấp của nhà Đạo ở chốn dân gian, rất không trang trọng. Không vụ hình thức. Thế mới gọi là phiếm. Là, một chút mạn đàm, chốn bình dân.

Bình dân đây, hoàn toàn không có nghĩa thấp hèn hoặc lèm bèm như trong buổi “khilikhitô” cũng năng nổ, có luận và có bàn, nhưng không đưa đến một phản bác, xét lại hoặc ưu tư. Luận và bàn, ở đây, theo tính cách dân gian cho dễ hiểu, để còn tin và yêu, rất trân trọng. Có ý thức. Thanh minh, minh định và rào đón thế xong, nay xin mời bạn và mời tôi, ta đi vào địa hạt thơ văn người đời có những lời na ná của nghệ sĩ, từng khuyến khích:

“Đưa em về dưới mưa, chiếc xe lăn dốc già

Đưa em về dưới mưa, áo em bùn lưa thưa

Đưa em về dưới mưa, hỡi cô em bé nhỏ

ôi duyên tình đã qua, có bao giờ không xưa?”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Với thi nhân họ Nguyễn và nghệ sĩ lão gia họ Phạm, thì khi gọi “cô em bé nhỏ”, nào những “ma soeur, này ma soeur”, là các vị chỉ muốn nói về những “duyên tình nào đã qua”, có chuyện tình “nào (lại) không xưa”. Chuyện tình xưa, như chuyện dưới mưa. Cũng là “đeo thánh giá huy hoàng”, còn bản thân ta “nhiều sám hối”, mà “sao vẫn hoang đàng?”

Ngồi buồn phiếm “loạn” hôm nay, chắc bạn và tôi, ta không phải là thi nhân “hoang đàng” hoặc “sao đó”, nhưng chỉ là những người vẫn “đeo thánh giá huy hoàng”, rất “sám hối”, dù “vô tội” hay vô số tội, vẫn cứ hát:

“Đưa em về dưới mưa,

nói năng chi cũng thừa.

Như mưa đời phất phơ,

chắc ta gần nhau chưa?”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Đưa nhau về dưới mưa”, dù mưa đó có lưa thưa, phất phơ như cuộc đời của ai đó, hẳn người người sẽ nhắn nhau chỉ đôi câu, rất “không thừa”, nhưng tràn đầy ý nghĩa, đó là: “chắc ta gần nhau chưa”.

Đúng thế, trong cuộc đời của người và của nhà Đạo, vấn đề quan trọng cần lưu tâm /lưu ý hết mọi vị, vẫn luôn là “chắc ta gần nhau chưa”. “Gần” ở đây, chưa hẳn là gần gũi theo diện họ hàng/hang hốc, rất bà con. Mà, chữ “Gần” ở đây, vẫn có thể là sự “cận kề” rất thân quen, mật thiết. Như lời Thầy Chí Ái từng nhắc nhở, ở thánh kinh, rằng:

“Có kẻ thưa Người rằng:

"Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia,

tìm cách nói chuyện với Thầy."

Người bảo kẻ ấy rằng:

"Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"

Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói:

"Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.

Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi,

Đấng ngự trên trời,

người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."

(Mt 12: 47-48)

Và hôm nay, qua luận phiếm về tính cách bà con/họ hàng của Chúa, “những người thi hành ý muốn của Cha”, vẫn còn đó câu hát của thi nhân ngoài Đạo cũng rất buồn: “Chắc ta gần nhau chưa?” Nói nôm na, thì sẽ bảo: nếu ta vẫn tự hào là người Công giáo, mà sao chưa xác tín lời dặn của Chúa, trích ở trên. Hay, ta cũng đã xác tín, nhưng vẫn hỏi một câu để đời, rằng: “Chắc ta gần nhau chưa?” Tức, chắc gì ta đã là “anh em của Đức Chúa”? Hỏi ở đây, hôm nay phải chăng là đã trả lời rồi, hỡi bạn và hỡi tôi, những người anh/người chị cũng “hiền như ma soeur”, hay rất “lành như mon frère”, của chúng mình!

Bần đạo nay không tin rằng: hỏi tức đã trả lời rồi. Bởi, nếu quả có thế, thì sao nhiều vị vẫn thích nghe nhạc bản có lời cứ ê a, mà rằng:

“Em hiền như ma soeur,

vết thương ta bốn mùa,

Trái tim ta bệnh hoạn,

ma soeur này ma soeur”…

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Hát thì hát thế, nhưng vẫn cứ mong sự thật không phải thế hỡi bạn hiền, những “mes soeurs” hoặc “mes frères”, của tôi và của bạn, ở ngoài đời. Hoặc trong Đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng ít hát câu

“em hiền như ma soeur”

vì rất sợ và không tin

em hiền như thế.