Friday, 25 October 2013

“Yêu là lòng bâng khuâng,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa thuờng niên năm C 03-11-2013

“Yêu là lòng bâng khuâng,”
nhớ hay thương một chiều thu vương,
Gió êm đưa, dạt dào tre đua,
Lá rơi rơi, rơi tả tơi.”
(Văn Phụng - Yêu)

(Mc 10: 11)
            Bâng khuâng”, “nhớ hay thương, một chiều thu vương” vẫn là tình tự mà nhạc sĩ Văn Phụng coi đó như tâm tình của những người đã và đang “yêu”. Tình tự ấy, kéo dài cả vào khi người-mình-yêu hoặc người-yêu-mình lại có cảm giác, như: “gió êm đưa,” “dạt dào tre đưa”, “lá rơi rơi, rơi tả tơi.”
Yêu, theo ý và kiểu của người nghệ sĩ, còn có nghĩa:

“Yêu, là tình dâng cao, gió lao xao.
Ngả hàng phi lao, phút ái ân đắm say tâm hồn.
Nhớ mãi đêm nào bên nhau.”
(Văn Phụng – bđd)

À thì ra, yêu là như thế. Là, “đắm say tâm hồn”. Là, “nhớ mãi đêm nào bên nhau”. Là, tình tự mà những người đương yêu thường vẫn có, vào mọi lúc. Những lúc và những lần, từng có kinh nghiệm đôi khi cũng khác. Khác đến độ, khiến người trong cuộc cứ cảm thấy dây dưa, day dứt và bứt rứt cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.
Ngoài đời, nhiều vị/nhiều người vẫn bị “cơn yêu” nó day dứt đến tức bực, đã đành. Người đi Đạo lại cũng không tránh được tình huống giống như thế và như thể nhà thơ/nhạc sĩ có kinh-nghiệm nhiều hơn thế. Kinh và nghiệm, như chuyện kể trích dẫn, ngay bên dưới:

Chuyện kể rằng:
Vào đời Tống ở Trung quốc có đôi bạn thân, cả hai đều học rộng tài cao, rất nổi tiếng. Về phẩm hàm là quan nhất, nhị phẩm. Đó là nhà văn Vương An Thạch và nhà thơ Tô Đông Pha. Văn chương, thơ phú của hai người đều rất nổi, Vương An Thạch giữ chức Tể  tướng, còn Tô Đông Pha thì làm quan cai trị cả một vùng. Hai người là bạn thân chơi với nhau từ lâu lắm, nhưng do bởi mỗi người có năng khiếu và sở trường riêng, người này giỏi văn còn người kia lại giỏi về thơ, nên Tô Đông Pha không  phục Vương An Thạch, coi bạn không giỏi bằng mình. Biết là bạn coi thường mình, nhưng Vương An Thạch chỉ im lặng không nói gì cả. Có một lần, Vương An Thạch mời Tô Đông Pha đến tư-dinh Tể tướng của mình chơi, để đàm đạo chuyện văn chương thi phú. Khi Tô Đông Pha đến, Vương An Thạch cố ý lánh mặt một cách tế nhị nên Tô Đông Pha một mình bước vào thư phòng của bạn quý. Vì không thấy chủ, lại thấy trên bàn có bài thơ đã làm xong và một bài khác đang viết dở. Là người giỏi thơ văn, nên khi thấy thơ là ông liếc mắt đọc ngay tức thì. Bài thơ đầu, có đôi câu như sau:
           
“Minh nguyệt sơn đầu khiếu
           Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.

Tô Đông Pha nhíu mày, nhăn trán suy nghĩ trong phút chốc: Minh nguyệt là trăng sáng, còn khiếu là hót. Vậy thì ánh trăng sáng, sao mà lại hót được ở đầu núi nhỉ? Câu tiếp, Hoàng khuyển là con chó vàng thì làm sao ngọa (nằm) được ở trong tâm (giữa) bông hoa? Ông lắc đầu và tỏ ý coi thường tác giả viết ra bài thơ ấy. Ông suy nghĩ: “Vậy mà người ta cứ đồn là Vương An Thạch giỏi”? Nhân lúc vắng chủ và sẵn có bút mực tại chỗ, ông sửa lại hai câu, thành:

            “Minh nguyệt sơn đầu chiếu
            Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Câu sửa lại có nghĩa là: ánh trăng chiếu nơi đầu núi và con chó vàng nằm dưới bóng của bông hoa. Sửa xong hai câu trên, Tô Đông Pha tỏ ý hài lòng và cho rằng khi đọc lại hai câu này hẳn là Vương An Thạch sẽ phải phục tài của mình lắm, đây. Thơ phải như thế mới đúng!

Đọc bài thứ hai, thấy Vương An Thạch  tả cảnh mùa đông lạnh lẽo, có tuyết rơi, có hoa cúc rụng tơi tả, ông cảm thấy bực bội vì, thực tế làm gì có chuyện hoa cúc lại rụng như thế? Hoa cúc, khi tàn héo, nó vẫn bám vào đài và thân hoa cho đến khi cây cúc chết. (Hoa cúc, vì như vậy nên các đôi trai gái khi yêu thường lấy hoa làm biểu tượng để tặng cho nhau hầu thể hiện sự chung thủy của mình) Ông cầm bút viết cạnh bài thơ để nói thẳng với tác giả rằng “ Hoa cúc không bao giờ rụng”. Biết mình có chức tước phẩm hàm còn dưới Vương An Thạch nên lúc ra về suy nghĩ lại, ông biết rằng mình đã phạm thượng, vì Vương An Thạch là quan đầu triều, chỉ dưới có mình vua, thế nào mình cũng bị trị tội, hoặc trả thù là điều chắc chắn. Quả nhiên, sau một thời gian không lâu Tô Đông Pha nhận được “trát” điều đi nhậm chức tận vùng phương Bắc xa xôi như đi “đầy”. Tô Đông Pha hối hận và nhận ra hậu quả của việc làm bồng bột của mình!
Còn với tể tướng Vương An Thạch, sau khi ban “trát” điều Tô Đông Pha đi, ông hạ lệnh cho các quan địa phương nơi Tô Đông Pha đến làm việc, là: phải tạo điều kiện  thuận lợi cho ông tìm hiểu đất đai, thổ nhưỡng cũng như thiên nhiên vùng đó và đối xử với Tô Đông Pha như  bậc đại khách. Là người yêu thiên nhiên và biết cảm thông với nỗi thống khổ của người dân ở vùng đất khô cằn, khắc nghiệt, Tô Đông Pha thường xuyên tiếp xúc với dân, ông thỏa sức đi du ngoạn để tìm hiểu con người và đất đai trong khắp vùng. Vì sống hòa đồng và hết sức thân thiện với mọi người, nên ông đi đến đâu cũng được quan, dân đón tiếp chân thành và nồng thắm.
Có lần đến thăm làng quê nọ, Tô Đông Pha bỗng nghe thấy tiếng chim lạ hót véo von, tiếng hót rất trong lại vang vọng vào núi đá. Nhà thơ hỏi người đi cùng đấy là loại chim gì mà hót hay thế? Dân địa phương trả lời: Đấy là tiếng hót của laòi chim Minh Nguyệt.  Một lần khác, khi đi thăm một vườn trồng đầy hoa, thấy mọi người đang bắt sâu lạ cứ nằm giữa hoa để cắn nhụy.
Ông hỏi: đó là sâu gì thế? Nông dân trả lời: Đó là sâu Hoàng Khuyển. Thì ra trên thực tế có cả loại chim Minh Nguyệt và sâu Hoàng Khuyển thật sự. Vì tự cao tự đại không hiểu hết ý tứ nên đã sửa bài thơ của Vương An Thạch, làm sai nội dung và tứ thơ hay của bài thơ! Thời gian trôi qua, cái lạnh của mùa đông ở phương Bắc tràn về, Tô Đông Pha ngồi trong nhà nhìn ra ngoài thấy tuyết trắng bay đầy trời và, ở dưới vườn, mấy cánh hoa cúc bị tuyết bám rụng lã chã. Nhà thơ giật mình bèn thở dài: thì ra có hoa cúc rụng thật. Chỉ có điều là nó rụng trong hoàn cảnh và môi trường nào, thôi.
Ông suy nghĩ hồi tưởng lại các sự việc diễn ra trong thời gian vừa qua, thấy rõ là vốn hiểu biết của mình quá nông cạn, lại cứ nghĩ việc mình được bổ làm quan nơi xa, có dịp được tiếp xúc mọi người, lại được du ngoạn, đón tiếp thịnh tình nên có thêm nhiều hiểu biết và được sống cách phong phú ở vùng thiên nhiên kỳ thú, nhưng vô cùng khắc nghiệt này. Tô Đông Pha bỗng nhận ra rằng bạn Vương An Thạch, quan Tể tướng – không phải là người tầm thường, ông không trả thù hay “đầy” mình lên biên cương nhưng lại đã quan tâm, tạo điều kiện cho mình đi tận nơi, đến tận chỗ để có thêm kiến thức tự dân gian. Vừa thấm thía, biết ơn, vừa cảm phục bạn, nhà thơ Tô Đông Pha liền ngồi viết bức thư tạ lỗi Vương An Thạch..

Truyện thời cổ, về tình bạn thân thiết là thế, vậy mà cũng có lúc đi đến hiểu lầm, suýt mất mạng. Sống ở đời, ngoài tình bạn tri kỷ, thắm thiết còn nhiều thứ tình-tự cũng khắng khít, thân thương, nồng thắm. Thế nhưng, các cụ khi xưa từng trải-nghiệm về thứ tình nồng thắm, có lúc khá đắng cay của mọi cuộc tình nên vẫn bảo: “yêu nhau lắm, cắn nhau đau”, là thế đấy.
Truyện thời nay, tình yêu đôi lứa càng khắng khít, thắm nồng bao nhiêu càng có lúc không chỉ “cắn nhau đau” mà thôi, nhưng còn gây cho nhau buồn phiền và chết chóc, nữa. Chẳng thế mà, cả nhà thơ lẫn người viết nhạc hôm ấy, lại thấy chán mà ca lên:

“Thôi! Yêu dấu mà chi?
Ngày vui xế bóng, đôi lòng chia xa.
Hồn tàn hơi buốt giá,
Khi mùa xuân qua, úa phai nhạt hoa.”
(Văn Phụng – bđd)

Quả cũng đúng, như lời nghệ sĩ hát: một khi người tình mình đã cảm thấy “ngày vui xế bóng” rồi, ắt hẳn “lòng (sẽ) chia xa”, và “hồn buốt giá”. Và, khi “xuân (mùa) đã qua”, hoa nhạt úa, thì tình người cũng phai nhạt, “hồn tàn hơi”, và “đôi lòng (cũng) chia xa” , nhạt nhoà do bởi yếu tố rất lạ; chợt khi ấy, người người mới thấy rõ mọi việc.   
Về điểm này, cơ quan Liên Hiệp Quốc chuyên trách về cảnh tình của các nữ-phụ trên thế giới, thấy được như thế nên đã khẩn báo mọi người về thảm trạng mà các vị gọi là “bạo động chống phụ nữ” qua báo cáo Ủy Ban cho biết vào hạ tuần tháng 3/2013, có đôi điều cần ghi nhớ như sau:

“Hành-xử đầy dục-tình của nam nhân đối với phụ-nữ, có thể là hình-thức bạo động chống nữ phụ bởi nó có thể dẫn đến kết cuộc là: phụ nữ cứ phải lãnh hậu quả, là: có thai ngoài ý muốn.

Tuần qua, báo The New York Times đã tham gia vào “cuộc chơi” bằng một bài quan điểm/lập trường đã không ghi danh tánh người viết, lại cho rằng: Toà thánh La Mã, đất nước Iran và liên bang Nga đang tìm cách bãi bỏ thứ ngôn-ngữ chắc nịch bằng thông-cáo-chung nhất quyết rằng: yếu-tố tôn giáo, tập quán hoặc truyền thống không nên và không thể khiến cho giới cầm quyền dùng nó để đưa ra một số ràng-buộc nhằm chấm dứt tình-trạng bạo lực.

Báo New York Times còn tố cáo “Liên Minh không lành” này lại đã dửng dưng trước hình-thức bạo-động chống phụ-nữ, nên mới bảo: liên minh ấy sử-dụng tôn-giáo để bênh vực/bảo vệ kẻ vũ-phu chuyên xách-nhiễu vợ, đồng thời liên-minh này còn nhắc nhớ ta rằng: các nỗ-lực do Vaticăng và đất nước Iran đề nghị nên khống-chế phụ-nữ như họ vẫn quen làm như thế.

Xem thế thì, cáo buộc cho rằng nhiều nhóm hội/đoàn thể đang tìm cách bãi bỏ nỗ-lực bảo-vệ phụ-nữ, thì đó lại là lời nói dối trắng trợn. Thật ra, những gì đang xảy đến chỉ là sự việc Toà thánh La Mã và các đồng minh của Giáo hội đang tìm cách ngăn chặn đề nghị do Hoa Kỳ và Hiệp hội Châu Âu đưa ra, nhằm thăng tiến cổ cõ quyền phá thai của mọi người, mà thôi.” (xem Sheila Liaugminas, Advancing Radical Agenda, MercatorNet 22/3/2013)

Vốn dĩ ở đời, người người cũng sẽ nhận ra được điều đó, nên mới hợp giọng cùng người nghệ sĩ bèn hát thêm những câu ca da diết, thiết tha khi chợt thấy người thân yêu đã đi xa nên đã nhớ:

“Nhớ thương bao nhiêu
Một người than yêu, đã đi xa về miền hoang lieu
Những trang thư là hành trang theo
Cố nhân ơi, giận hờn chi.”

Bởi lẽ, kinh nghiệm trong đời không chỉ thấy “yêu nhau lắm, cắn nhau đau” mà thôi, nhưng còn cứ hát:

“Yêu, là tình thương đau,
Với xót xa lệ tình không tan
Biết nói sao những khi âu sầu
Những khi úa nhạt tâm tư.”
(Văn Phụng – bđd)

“Tâm tư úa nhạt”, “Lệ tình không tan”, có khi lại là tình huống của một số bạn đạo vốn nghe nhiều về đoạn Tin Mừng do thánh-sử Mátthêu viết, nhưng vẫn thắc mắc, như tâm tình của người giáo dân “miệt vườn” Sydney từng ghi thư hỏi han bậc cha/cố rất như sau:

“Thưa Cha. Trong cuốn “Lời Chúa cho mọi người” con đọc, thấy có đoạn viết: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình." (Mc 10: 11-12) Xem như thế, ta có nên hiểu: ngoại tình là lý do để cho vợ chồng ly dị và tục-huyền không?” Xin cha giải thích cho biết, để bớt lo.”   

“Để bớt lo” là muốn nói: bổn đạo mình, là nam hay nữ, lâu nay vẫn ưu-tư lo lắng về ý-nghĩa lời thánh-sử mà ta gặp ở Tin Mừng Nhất Lãm. Để giáo dân mình bớt “lo” về Lời Chúa có khác biệt, vị cố Đạo có trọng trách giải đáp thắc mắc ở tuần báo “The Catholic Weekly” Sydney, nay lại lấy giấy bút ra mà giải thích đôi điều, rất như sau:

“Bản văn mà anh/chị vừa trích dẫn, lâu nay vẫn là đề tài khiến nhiều người hiểu lầm và lẫn lộn về Lời Chúa. Lẫn lộn nhiều, ở câu trích: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp" được nhiều dịch-giả lại cứ dịch theo cách khác nhau, tùy bối cảnh. Chẳng hạn, bản dịch của Ủy Ban Các Giờ Kinh Phụng Vụ, có viết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới người khác là phạm tội ngoại tình."(Mt 19: 9) Trong khi đó, sách “Kinh Thánh” do Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR lại dịch: “Ai rẫy vợ -trừ phi là nố dâm bôn- và cưới vợ khác, tức là phạm tội ngoại tình.” Dịch thế nào thì dịch, lời dịch tuy có khác, nhưng ý chính vẫn thế.

Trước khi đi sâu vào ý nghĩa của văn bản, thiết tưởng: ta nên chú trọng hai điều: Một, là chỉ mỗi thánh Mát-thêu mới đưa câu này vào Sách Thánh, thôi. Còn các thánh-sử khác như thánh Máccô và Luca, lại đã bỏ đoạn đó, viết rõ hơn: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng, để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình như vậy." (Mc 10: 11/Lc 16: 18) Bản văn hai thánh-sử này cho thấy: đó là chưa nói đến nguyên do cho phép vợ chồng được ly dị và tục huyền, ở đây.

Điều khác nữa, là: Tin Mừng do thánh Mátthêu ghi, xem ra cho thấy trường hợp dù ta có cho phép ly dị và tục huyền đi nữa, thì điều này vẫn nên hiểu theo ánh sáng của truyền thống sống động từ Hội thánh. Và, truyền thống này vẫn “trước sau như một” bởi: ngay từ đầu, Hội thánh chẳng bao giờ cho phép ly dị rồi lại tục huyền, vì bất kỳ lý do nào đi nữa. Trong khi anh em Thệ Phản lại dùng đoạn văn này để biện minh cho việc ly dị và tục huyền, thì Hội thánh Công giáo vẫn duy trì tính-cách không thể tách rời ở hôn-nhân.

Đức Giáo Hoàng Piô XI cũng đã khẳng điều này rất rõ ở tông thư “Casti connubii” do ngài viết vào năm 1930, trong đó nói: “Đây đích thực là Giáo-huấn có tự Kinh thánh vẫn trước sau như một và là Thánh truyền tự Giáo hội Chúa khắp hoàn cầu. Giáo huấn này, Công đồng Triđentinô long trọng tuyên bố là tín điều dùng lời Sách Thánh làm nền hầu công bố và thiết lập hôn-nhân như khế-ước vĩnh-toàn không thể tách rời tính hiệp nhất và ổn cố vốn có từ Thiên Chúa.”

Vậy thì, ý nghĩa của câu “ngoại trừ nố dâm-bôn” là thế nào? Tác giả Scott Hahn trong cuốn “Học hỏi Kinh thánh của Người Công giáo theo tinh thần của thánh Ignatiô” giải thích rằng: có ba ý nghĩa giúp cho ta dễ hiểu hơn, nhưng cả ba đều loại bỏ trưòng hợp ly-dị và tục huyền.

Thứ nhất, các thánh Giáo phụ từng giải thích ý-nghĩa này: khi có sự bất-trung hoặc ngoại-tình từ phía nào đi nữa của bậc vợ chồng, thì vợ chồng ấy có thể chia tay hoặc “ly dị” nhưng quan-hệ hôn-nhân vẫn không sứt mẻ và vợ chồng không được tự do tái giá thêm lần nữa. Truờng hợp này, tiếng Hy Lạp gọi là “nố dâm bôn” (“porneia”), có nghĩa: ngoại tình, tức: một ý-nghĩa khác thế. Cả thánh Phaolô cũng xác-định: “Với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa, rằng: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.”(1Cor 7: 10). Tương-tự như thế, Luật Hội thánh cũng đề cập: ngoại tình, coi như lý do để hai người chia tay/ly cách cùng một thể, vì trước đó Luật này có đề nghị người phía bên kia hãy tha thứ cho người bạn đời mình phiá bên này từng phạm tội ngoại tình (x. Giáo luật số 1152). Thế nhưng, dù gì đi nữa, cũng không thể cho phép hai người đi đến ly dị được.

Thứ đến, có chỉ dẫn bảo rằng “nố dâm bôn” qui về các cặp hôn-nhân nào mà người vợ hoặc chồng đang sống chung trong quan-hệ nào khác bị pháp luật ngăn cấm, như: trường hợp có quan-hệ giòng tộc/máu mủ chẳng hạn. Trường hợp mà tiếng Hy Lạp gọi là “porneia”, là qui về tình cảnh hai người có quan-hệ bất-chính sống chung với nhau không hôn thú theo luật định nên, vẫn có thể chia tay nhau một cách có hiệu lực. Lập trường này được nói ở hai đoạn Tân Ước trong đó “dâm bôn” qui về trường hợp “loạn luân” (x. Cv 15: 20, 29; 1Cor 5: 1-2). Muốn hiểu lai lịch Cựu Ước ủng-hộ lối giải thích này, phải qui về chuyện hôn nhân bị cấm giữa những người có quan-hệ gần gũi, thân-tộc. (x. Lêvi 18: 6-18)

Cuối cùng, giải thích trên cũng có nói: “Ngoại trừ nố dâm bôn” có nghĩa là bất kể lai lịch Cựu Ước nói về ly dị” lại nói rõ chuyện “dâm bôn” do người vợ mà ra (x. ĐNL 24: 1). Chiếu theo lối giải thích này, Đức Giêsu đã xoá bỏ điều mà Cựu Ước cho phép trong một vài trường hợp và Ngài cũng không muốn bàn cãi về chuyện ly-dị như thế. Ngài không làm khởi sắc cũng chẳng tái-khẳng-định việc Môsê cho phép làm thế nhưng cùng làm với nhau.                               

Bằng vào giáo huấn này, Đức Giêsu đã đưa hôn-nhân về lại theo cách của thời ban đầu, trước khi Adong và Evà bị sa ngã, là lúc cả hai bên đều có quyết tâm sống với nhau suốt đời tạo gương mẫu phản chiếu tình thương-yêu chung thủy của Chúa, với dân Ngài.” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 15/9/2013 tr. 10)

Giải thích, thì cứ giải thích. Vấn đề là: người trong cuộc nay có còn nghe theo lời huyên dạy của đấng thánh hiền từng bảo ban:

“Các môn đệ thưa Người:
"Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,
thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Nhưng Người nói với các ông:
"Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,
nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.”
Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ,
họ đã không có khả năng;
có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;
lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời.
Ai hiểu được thì hiểu."
(Mt 19: 10-12)

Là môn đồ từng theo Chúa diễn giảng đủ mọi chuyện, mà còn chưa hiểu, huống hồ là giáo dân hạng thứ ở phố chợ. Vấn đề còn lại, vẫn là: làm sao để “Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu”. Và khi hiểu được phần nào bằng cuộc sống, cũng nên cảm tạ Ơn trên đã cho mình huệ lộc ấy.
Cuối cùng, để cho dễ hiểu, cũng nên tìm về với truyện kể ở đời mà ngâm nga, rồi sẽ có ngày nhận được thêm ân-huệ, ta sẽ hân hoan mà vui sống. Vui để sống, có các truyện minh hoạ, vẫn theo mình, ở bên mình, kể rằng:

“Cặp vợ chồng trẻ nọ nhận được rất nhiều quà cưới quý giá, khi vừa xây tổ ấm ở vùng ngoại ô. Buổi sáng nọ, hai vợ chồng nhận được một phong bì qua đường bưu điệm trong đó đính kèm hai vé mời đi xem trình diễn văn-nghệ nổi tiếng trong thành phố. Trên phong bì chỉ kèm mỗi giòng chữ duy nhất: “Hãy đoán xem ai gửi tặng!”

Hai vợ chồng rất lấy làm thích thú và cố moi óc xem ai là người gửi tặng mà sao lại cứ giấu tên cùng tuổi, nhưng cả hai chẳng tài nào đoán nổi. Hôm sau, họ đi ra nhà hát xem vở diễn đúng theo giấy mời và tận hưởng một buổi tối rất vui.

Về đến nhà vào giờ đã khuya khi hai vợ chồng vẫn cố suy đoán xem tung tích của người tặng vé mời cứ giấu tên kia, thì mới khám phá ra rằng: nhà mình đã bị cuổm sạch hết mọi đồ giá trị. Trên bàn ở phòng ăn, hai vợ chồng thấy có mảnh giấy viết đôi giòng cùng một nét chữ như trên phong bì đựng vé mời xem hát, có ghi: “Bây giờ thì nhị vị biết rõ ai tặng vé mời rồi chứ nhỉ?”

Người vợ buồn rầu nói:
-Chết rồi anh ơi! Mất hết đồ đạc thế này, làm sao mình sống nổi?
-Không sao đâu em! Mất gì thì mất. Đừng mình tình mình yêu nhau là được. Mất đồ ta sắm lại được, chứ đừng để mất tình yêu giữa chúng mình, nhé em.” (truyện kể trích từ trang mạng)

Truyện kể ở trên, tưởng chừng như nghe quen quen. Duy có điều không quen nghe, là lời bàn của người kể cứ bảo rằng: “Nguyên nhân và cũng là hậu quả thảm khốc của mọi cuộc chia tay/tách rời giữa vợ chồng là tự mình để mất tình yêu mình từng thề hứa. Một khi tình yêu giữa hai người không còn, thì chẳng còn luật lệ hoặc lời khuyên nào nào đáng giá hết.”
Lời cuối của phiếm luận hôm nay, lại cũng là lời chúc hết mọi người: đừng bao giờ để mất tình thương của nhau, và với nhau. Có nó rồi, chẳng bao giờ sợ bất cứ chuyện gì đi nữa, chí ít là ly dị với ly thân hoặc ly trần, trong nuối tiếc.  
Nói thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta lại ngâm nga câu ca ở trên, để hát rằng:

“Yêu, là lòng bâng khuâng,
            nhớ hay thương một chiều thu vương,
Gió êm đưa, dạt dào tre đua,
Lá rơi rơi, rơi tả tơi.”
(Văn Phụng – bđd)

Tả tơi hay gì đi nữa, cũng không sợ. Chỉ sợ mỗi điều, là: mất trộm tình yêu, rất diễm kiều. Mình trân trọng.

            Trần Ngọc Mười Hai
Luôn tâm niệm
những điều đơn giản như thế,
mãi suốt đời.






Saturday, 19 October 2013

“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay?”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 29 mùa thuờng niên năm C 20-10-2013
“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay?”
Là lần em đến thăm tôi
Chung bước yêu đương hẹn hò.
Em có nhớ không, một lần khi gió heo may
Mình ngồi đan giấc mơ say, giận hờn sao vẫn chưa phai?”
(Ngô Thụy Miên – Mắt Thu)
(Mt 10: 11/Lc 16: 18)
            Chừng như, cứ nói đến mùa Thu là nghệ sĩ nhà mình thường có thêm đôi giòng hỏi han toàn nước mắt với những là: “vùi trên nỗi đau”, “mãi cho u sầu” thì phải? Bần đạo đây, đôi lúc cũng từng hỏi như thế. Hỏi, là vì vẫn nghe văng vẳng ở đâu đó, có giòng nhạc tình tứ, cứ hát rằng:

“Trời còn làm mưa vùi trên nỗi đau
Lời ru ấy mãi cho u sầu.
Bàn chân nuối tiếc thương lạc loài,
Trời còn làm mây buồn qua mắt ai.
Làm tan biến giấc mơ hoang đường,
Rồi buồn trôi theo giòng mưa xuống.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

À thì ra, câu hát trên dọi lại lời thơ rất khẳng định của nghệ sĩ, nói về cơn giận hờn, như sau:

“Giận hờn ngày xưa còn vương mắt em
Làn môi thắm hết ru bao chiều
Vùng ân ái chết trong mây hồng
Một lần vào thu mình đang có nhau
Hàng cây lá rớt trên mi thường
Và tay trắng đan tình với tay.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nói đi thì nói lại, trích dẫn lời thơ/ý nhạc ở đây, hôm nay, là cốt dẫn nhập cho một tư tưởng mà bần đạo bắt gặp được từ truyền thông báo/đài, rất vi tính.
Báo đài/truyền thông hôm nay, đặt ra rất nhiều vấn đề trong/ngoài nhà Đạo. Những vấn đề cũ/mới tưởng chừng không dứt, nhưng cứ đeo đuổi con người, ở mọi thời. Và thời buổi hôm nay, năm 2013 này, có vấn đề rất “nổi cộm” lại vẫn đưa ra cho mọi người, cả đến đấng bậc chủ-quản Hội thánh, như lời nhận định sau đây:

“Trong một loạt các cuộc trò chuyện với báo chí trên đường về từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro, Đức Giáo hoàng Phanxicô có trả lời một câu hỏi về trạng-thái của những người đồng-tính luyến-ái đang kiếm tìm Chúa, rằng: “Tôi là ai mà dám kết án một người nào?” Và, khi được hỏi về đường-lối Hội thánh Công giáo đối xử ra sao với những người đã ly-dị rồi, nay tìm cách tái giá dù chưa có phép chuẩn huỷ bỏ hôn-nhân trước đo, Đức Phanxicô trả lời vắn tắt, rằng: “Đây là thời-điểm để ta tỏ lòng thương xót.”

Ở đây, cũng nên nhớ lại lập-trường/đường-lối Hội thánh ta cương quyết: Hôn-nhân một vợ một chồng không rạn nứt, rất cởi mở để ta có khả-năng kiến tạo con cái, vẫn là: bối cảnh lý tưởng cho tương-quan phái-tính. Thế nhưng, lý-tưởng ấy nay đang thay đổi cả với người Công giáo cũng như người Thệ-phản.Tỷ lệ ly dị nay ở mức 40% (chứ không phải 50% như báo chí thường rêu rao) đối với những người có gia đình. Điều này, khiến lũ trẻ trở nên rối rắm, khó khăn. Khó, ở chỗ: đàn ông nào từng chịu cảnh gia đình đổ vỡ khi còn trẻ, thường đi đến tình-trạng bỏ nhà ra đi, trốn học, hoặc chấp nhận làm công việc ít lương/ít tiền và trở thành người bố cũng rất sớm. Nữ-giới ở trường-hợp tương tự, cũng chẳng khá hơn là bao. Phần đông những người này thường sống phóng túng, đã biết ăn nằm thể xác vào lúc còn ở tuổi “teen” hoặc cả trước khi lập gia đình, rồi cũng rơi vào trường hợp dễ trở thành cha mẹ đơn chiếc, hoặc gia đình đổ vỡ, nếu tái giá.

Có sự thể, là: ngày nay rất nhiều người Công giáo hết ly dị rồi lại tái giá mà chẳng bận tâm lo âu gì chuyện xin phép hủy bỏ hôn nhân nào có trước đó, hết. Với Hội thánh, những người như thế đã tự ý lập gia đình theo cách không phải phép hoặc chẳng có hiệu lực; và như thế, vẫn bị ràng buộc vào chuyện bị cấm không được rước Mình Chúa, khi tham dự Tiệc Thánh Thể....” (x. Michael G. Lawler & Todd A. Salzman, How should the Church handle Divorce & Remarriage, 19/9/2013)

Nói theo kiểu nhà Đạo về tình yêu, hôn-nhân, gia đình hợp tan/tan hợp, thì như thế. Như thế, tức: vẫn nhấn mạnh vào thống kê, luật lệ và lý luận. Trong khi, người sống ở đời lại vẫn sử dụng thi ca/âm nhạc để diễn tả tâm trạng của mình và của người, như sau:            

“Và rồi mùa thu về trong mắt em
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều
Vòng tay khép kín đôi mi nồng
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”
(Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Diễn thế nào thì diễn, tả thế nào thì tả cũng còn tùy. Tùy mình và tùy người sống ở đâu? Thời nào? Có hệ-lụy gì với ai không? Nay đi vào cảnh sống thế nào? Vẫn hạnh phúc chứ?  Thế đó, là những câu hỏi chỉ để hỏi. Còn, trả lời/trả vốn hay không cũng tùy. Tùy hứng thú, tùy hoàn cảnh để còn phiếm loạn như hôm nay. Và hôm nay, bần đạo lại xin phép được “phiếm” lai rai cho vui đời để hầu bạn đọc cũng như các bạn không-bao-giờ-đọc những chuyện phiếm vớ vẩn này. Trước nhất, là một vài thông tin cũng mới cứng như sau:

“Vừa qua, Đức Phanxicô có nói với các người trẻ bên ngoài Vương cung thánh đường ở Atxidi, hôm 4/10/13, rằng: Các bạn trẻ đừng sợ! Đừng ngại ngần dấn bước với quyết định lập gia đình, chẳng hạn. Ngoài xã hội, người ta lại cứ hô hào cổ võ cho quyền lợi cá thể trong lúc coi mọi sự như chuyện phù du qua mau, và không thấy được giá trị gì nơi sự việc có dính-dấp đến khó khăn này khác hầu đi đến quyết định như chuyện hỏi rằng mình có can đảm lập gia đình không?...”

 Đức Phanxicô đã tiếp nhận các vấn-nạn mà lớp người trẻ thường đặt ra như vấn đề hôn nhân và đời sống gia đình một cách nghiêm chỉnh bằng cách trả lời rằng: “Hôn nhân trong Đạo” là ơn gọi thực-thụ giống như ơn gọi linh mục/tu sĩ. Khi tín-hữu nam nữ lấy nhau, họ đều thấy trong câu chuyện tình của họ có lời mời gọi của Chúa, tức: lời mời trở nên một: một than xác, một cuộc đời của cả hai phía, nam và nữ.” Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nói thêm: “Nhằm bắt đầu thiết-lập một gia đình, ta cũng cần có can đảm, bởi thế giới bây giờ không những chẳng giúp gì được cho ta mà xem ra họ còn tạo nhiều rào cản ngăn cách bằng việc đưa ra những quyền lợi cá-thể, riêng rẽ hơn là đề cao vai trò của gia đình. Và, người thế-gian còn tìm cách thuyết-phục mọi người rằng: quan-hệ hôn-nhân chỉ kéo dài khi hai bên không gặp khó khăn hoặc trở ngại nào hết. “

Đức Phanxicô lại cũng nói: bố mẹ của ngài cũng như ông bà nội/ngoại của giới trẻ, khi trước các cụ lấy nhau trong khung cảnh khác hẳn. Về kinh-tế, các vị đều giáp mặt nhiều thách-đố và cả chiến-tranh nữa, nhưng các ngài luôn thấy một điều rất rõ, là: Thiên Chúa luôn ở với các ngài, vẫn chúc phúc cho các ngài bằng bí-tích hôn-phối có đính kèm sứ-vụ gầy dựng con cái để rồi đưa chúng vào với thế giới và dạy con như thế, họ lại nhận được ơn lành của Chúa. Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: Cách duy nhất để ta nghe được lời gọi mời của Chúa qua lời nguyện cầu thường xuyên. Và, có quan hệ mật-thiết với Chúa qua việc mở rộng lòng mình. Có như thế, lời gọi mời của Ngài mới được nghe biết...” (x. Cindy Wooden, Marriage takes courage, pope tells young, The Catholic Weekly, 13/10/2013 tr. 5)

Thương yêu, lập gia đình và quan-hệ mật-thiết với Chúa qua nguyện cầu mở lòng mình, đó vẫn là vấn đề của mọi thời. Nhưng, thời nay thiên-hạ cũng đã biết mở rộng lòng và tai ra để nghe và cảm nhận, nên đã thấy nhiều lời mời mọc cũng như ơn gọi từ nhiều phía. Có những lúc, tưởng chừng như đã có người ngoảnh mặt làm ngơ với lời mời của thánh Hội, cách chính đáng. Tuy là thế, nhiều vị vẫn thấy khó xử khi đi vào thực tế mới thấy có những sự thể không mấy dễ. Những sự và việc, được đấng bậc ở đời đặt ra, chí ít là về hôn nhân vỡ đổ, đã tái giá mà chẳng chịu xin phép bãi bỏ hôn ước cũ. Việc này, càng tạo khó khăn cho đôi bạn khi quay về lại với thánh Hội mà sinh hoạt, ở Tiệc Thánh.
Cứ sự thường, thì: bao lâu đôi bạn chưa được miễn-chuẩn hôn nhân có lúc trước, thì hai người trong cuộc dù có tham-dự tiệc thánh cũng không được phép rước Chúa. Về chuyện này, tác-giả Michael G. Lawler được trích ở trên, lại có đôi giòng góp giọng về tình hình thực-tế ở thánh-hội, như sau:

“Theo Giáo lý Hội-thánh, lương tâm con người là vị thẩm phán có lý, qua đó con người nhận ra được phẩm-chất đạo-đức nơi hành-động cụ-thể của mỗi người. Nói khác đi, thì: chính lương tâm vẫn giúp ta nhận ra những việc mình phải làm cho hợp đạo lý, trong mọi tình cảnh mình gặp. Trước nhất, nhờ vào lương tâm mình mới thu thập được mọi bằng cớ để xác-chứng xem Sách thánh cũng thánh truyền, khoa học và kinh nghiệm bản thân từng nói gì, về những chuyện như thế. Thứ đến, ta nguyện cầu xem xét từng chứng cớ cách riêng rẽ xem khi nào thì có xung đột giữa các sự việc. Sau nữa, ta lưu tâm đến chọn lựa nào khả thi nhất và coi xem nó có ảnh hưởng gì lên quan hệ của ta với Chúa, với người đồng loại và chính mình nữa. Cuối cùng, ta phải quyết định trong tự do xem hành động nào thích hợp đối với tình cảnh đưa chúng đến với ta. Theo hiến chế Vui Mừng và Hy vọng thì: lương tâm là cốt tủy của  mọi chuyện và là cung điện thánh thiêng của con người ở đó, con người thấy mình đang lắng nghe lời mời của Thiên Chúa nói với mình...” (x. Michael Lawler, bđd)          

            Về vấn đề rước Mình Máu Chúa ở Tiệc Thánh vẫn được các đấng bậc đề ra rất nhiều lần để rồi cứ tranh luận mãi vẫn không ngừng. Chung qui, thì mọi sự chỉ là chuyện đối đầu với tinh thần luật lệ của một số vị nắm vai trò chủ-quản trong Hội thánh. Trên thực tế, có sự thể là con dân Chúa ở hoàn cảnh “oái oăm”, “rối mù” vào một lúc nào đó, nhưng cuối cùng khi mọi việc đã qua đi, họ vẫn sống vui, sống mạnh và sống vững chãi với luật yêu thương giùm giúp, được ghi ở Tin Mừng. Và, rốt cuộc thì, nhiều cặp vợ chồng lại quên mất nhà thờ nhà thánh, nói gì chuyện đi lễ và rước lễ.
            Thế nên, đấng bậc trích dẫn ở trên, lại có thêm những lời cuối, như sau:

“Một số hôn nhân bất thường nay ổn định dấn, lại được dưỡng nuôi bằng niềm tin Kitô-giáo cũng khá tốt, nên hôn nhân như thế vẫn không thể bị hủy mà không gây hại đáng kể về tinh thần, và cảm xúc lẫn kinh tế...

Đức Phanxicô xem ra cũng đã nhận thấy khó khăn này nên ngài mới nói: “Bổn phận của chúng ta là tìm ra phương cách nào khác vẫn chính đáng để đáp ứng với tình cảnh của người Công giáo đang sống đời hôn nhân bất thường”. Và Đức Giáo Hoàng có nói với nhóm ký giả phỏng vấn ngài trên chuyến bay từ Rio về Rôma, rằng: “Vấn đề là: ta không thể giải quyết sự việc theo cách hỏi xem những người như thế có được phép rước Chúa hay không vì bất cứ ai có ưu- tư/suy nghĩ về vấn đề này theo kiểu cách như thế tức là đã không hiểu rõ vấn đề, một cách thực thụ.” Bằng vào câu trả lời trên, xem ra càng ngày càng thấy rõ, là: ta hiện có một vị giáo hoàng từng hiểu rõ vấn đề này.” (x. Michael G. Lawler, bđd).        

Hiểu và biết rõ như thế, nhưng vẫn có một số giáo dân ở đời thường nay cũng biết, là: vấn đề của bậc hôn nhân “không bình thường” nơi người Công giáo, lại được đặt lên bàn cân để xem xét thêm ở chốn cao trọng trong Hội thánh. Hiểu và biết, để rồi cũng sẽ cùng với Hội thánh mừng vui và hy vọng cho mai ngày. Duy có điều, là: một số vị vẫn cứ lo cho tình trạng của một số người anh người chị ở đây đó, đã lung lạc, nên mới vắng bóng ở các buổi sinh hoạt phụng vụ và/hoặc sự kiện nào khác, rất ý nghĩa.
Vốn dĩ ưu tư nhiều, nên bần đạo lại cũng lục lạo tìm đến tâm tư cùng ý-kiến của bậc trưởng thượng, thì nhận được ân huệ Chúa trao ban cho có được một vài ý tưởng từ bậc thày, như sau:

“Sự việc các thể chế Công giáo đang xuống cấp thấy rõ là do có sự bất ổn trong xã hội phương Tây, thời buổi này. Chẳng hạn như: không chỉ mỗi hôn nhân theo kiểu chính mạch của người Công giáo mới giảm sút, thôi, mà ngay chính thể-chế hôn-nhân nói chung cũng suy đồi. Ngay như kiểu cách luân lý/đạo đức đặt ra cho Giáo hội cách chầm chậm và rất nhiều khó khăn lên hành-xử tính-dục và cơ cấu gia đình ở châu Âu từ thời Trung Cổ trở về sau xem ra đang bị gãy đổ trầm trọng. Sau đó, còn thấy các giáo hội khác ở phương Tây trong đó có Hội thánh Công giáo ngày càng phải đương đầu với nhu cầu tạo nên “cung cách sống xem ra mang nhiều chiều hướng rất xã-hội, mà dân thường ở huyện đang phải sống cũng rất mực. Trên hết mọi chuyện, hôn nhân là thể chế xã-hội, nên nếu Giáo hội không suy sụp thành một giáo phái thì các cặp phối ngẫu bình thường lành thánh không thể sống cuộc sống đúng như lòng đợi trông là không bị xã hội và/hoặc nề nếp văn hoá sờ chạm , nói chung. Con số các người Công giáo chung sống tình dục bất thường ngày càng gia tăng là chỉ dẫn cho thấy cung cách mà các giá trị của xã hội đang tạo mẫu cho nếp sống và quan niệm của người tín-hữu Kitô-giáo nói chung. Và cũng thế, theo ngôn ngữ mục vụ, thì chuyện châm ngòi cho quả bom nổ chậm này bằng cách này hay cách khác đang là chuyện cần phải làm lắng dịu nếu ta không muốn giết chết cộng đồng người Công giáo và, quan trọng hơn nữa, nếu không muốn tước đi sự nâng đỡ hỗ trợ và ánh sáng soi dọi cho hàng ngàn vạn người đang có nhu cầu như thế.” (x. Eamon Duffy, Unfinished Journey: The Church 40 Years after Vatican II, Essays for John Wilkins)         
   
Bàn luận về chuyện gia đình chồng/vợ, tái giá sinh hoạt với cộng đoàn/chòm xóm theo kiểu nhà Đạo ở cấp cao thì như thế. Luận bàn về chuyện vợ/chồng ở đời cũng có lúc giận hờn, trách móc, bỏ bê rồi trở về, theo kiểu người đời có lẽ cũng nên bàn nên kể theo kiểu phiếm luận hay “phiếm loạn”, bằng truyện kể ngày xưa, như sau:

“Ngày xưa có một người đàn ông giàu, vợ chết sớm, chỉ có độc một người con trai.
-Đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu lổng không chịu học hành hay làm ăn gì cả. 

Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người nhà giàu rất buồn phiền, biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra đi mà thôị Bởi vậy, ông bèn tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang, để may ra nó sẽ ngăn chặn tay chồng, bảo vệ một phần nào cơ nghiệp. Nghĩ vậy, ông cất công đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng đi đã nhiều nơi mà vẫn chưa thấy một người nào vừa ý. 

Một hôm, đến một vùng kia, nhân mỏi chân, ông nghỉ lại một gốc đa bên đường. Ông bỗng thấy ở một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang tranh nhau trẩy ăn. Một chốc sau, một cô gái tuổi chừng đôi tám, cũng đến trẩy táo. Ông mới lân la lại gần hỏi xin ăn.

Lúc này, táo chín đã bị bọn người trước trẩy hết, chỉ còn những quả xanh, nhưng cô gái cũng cố chọn lấy những quả ương ương đưa cho khách.

Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ: "Sởi lởi, trời gởi của cho, quăn co, trời gò của lại. Chỉ có người nào tốt bụng với mọi người mới xứng đáng được hưởng giàu có sung sướng". Bởi vậy, ông mới tìm đến nhà cô gái, giả làm một người lỡ độ đường, xin nghỉ trọ một tối. Và rồi ông được gia đình cô gái ân cần tiếp đãi.  

Để thử xem cô gái có khôn ngoan không, ông lân la làm quen với nàng. Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa ra một quan tiền nhờ mua hộ cho mình "một nắm gió, một bó lửa". Cô gái chẳng nói chẳng rằng, mua về cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa. Thấy thế, ông thầm khen ngợi, nhưng vẫn định thử thêm cho biết. 

Qua ngày hôm sau, ông dậy sớm, giở tay nải đưa cho cô mấy bát gạo nếp, nhờ nàng thổi giúp cho mình một nồi vừa cơm vừa bánh để ăn và đem đi ăn đường. Cô gái không từ chối, vội lấy gạo ra vo.

Trước khi cho vào nồi, nàng bớt lại một ít giã làm bột vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm. Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm vừa ý, cho là con người đó đủ cả đức hạnh, khôn ngoan, đảm đang ít có. Bèn quyết định trở về sửa soạn lễ hỏi cho con trai làm vợ. 

Đứa con trai của ông từ ngày có vợ lại càng lêu lổng; hắn thường bỏ nhà đi đánh đàn, đánh đúm với bọn vô lại, làm cho ông hết sức buồn. Và điều làm ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông, khi dăm bảy quan, khi một vài vác, tung vào cuộc đỏ đen. Mặc dù ông đánh đập, mặc dù vợ hắn khuyên lơn, nhưng hắn chứng nào vẫn tật ấỵ Dần dần ông buồn phiền thành bệnh. Một hôm, biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến bên giường dặn nhỏ: 
-Này cha đã gần đất xa trời. Chồng con là một thằng "Phá gia chi tử", cơ nghiệp này chỉ còn một sớm một chiều mà thôi. Cha rất thương con xấu số. Từ lâu cha làm ăn dành dụm, có để được một hũ vàng chôn ở sau vườn. Vậy cha cho riêng con hũ vàng đó, đừng cho chồng con biết. Sau này chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp cho nó làm lại cuộc đời.

Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời, lại càng chơi bời mặc sức. Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn, hắn chẳng những đã không nghe lại còn phũ phàng với vợ. Mỗi lần thua bạc, hai người lại càng xô xát. Nhiều lần vì vợ cản trở, hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt mọi người. Một hôm để khỏi vướng, hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi đuổi nàng ra khỏi cửa.

Từ đó, hắn phỉ chí tung hoành không một ai dám cản. Quả như lời đoán của bố hắn, mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt "nướng" vào sòng bạc. Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cơ nghiệp mấy đời lưu truyền lại đều sạch sành sanh . Cuối cùng không một đồng dính túi, không một nghề cầm tay, hắn đành bỏ làng mạc quê quán, đi lang thang khắp đầu đường xó chợ, ngửa tay xin ăn qua ngày.

Còn về người đàn bà sau khi bị chồng đuổi, mới đổi tên, tìm đến trấn thành mở một ngôi hàng nước. Sau ít lâu, kiếm được một số nhỏ, nàng bắt đầu buôn hàng tấm. Số vốn của nàng ngày một lớn dần. Một hôm, gặp hai em bé gái mồ côi đi ăn xin, nàng thương tình đưa về nuôi làm con, coi như ruột thịt. Cuộc đời dần dần nở hoa trước mắt nàng. Trong một dịp đi tìm kiếm củi, hai con nàng nhặt được một khúc gỗ mục, về chẻ ra thấy có mấy thoi vàng. Có vốn lớn lại có tài kinh doanh, nên chẳng bao lâu, nàng trở nên giàu có, nổi tiếng trong trấn. Tiền bạc tuôn về như nước. Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở một thân một mình. Thấy nàng giàu có, nhiều kẻ ngấp nghé muốn "gá nghĩa Châu Trần", nhưng người đàn bà ấy nhất định từ chối mọi lời đường mật. Mặc dù người chồng bạc bẽo và mặc dầu mười lăm năm xa cách, nàng vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa phố phường dò hỏi nhưng tin tức của chồng càng hỏi, càng bặt tăm. 

Năm ấy, sau mấy tháng hạn, lúa khoai chết mòn trên những cánh đồng nứt nẻ. Giá gạo cứ lên vùn vụt. Ngoài đường, người đi xin ăn kéo từng đoàn. Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu. Bà xin phép quan trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó. Làm như thế, nàng còn mong một khi thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình tất sẽ lần mò về, nếu hắn còn sống. Y như thế thật, ngày bắt đầu phát, nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở hàng cuối đội quân lĩnh chẩn. Đúng là hắn. Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay, hắn vẫn chưa có cách gì để sống khá hơn và đỡ hèn hạ hơn trước. Bây giờ nghe nói có phát chẩn, hắn vội mò đến đây và ngồi đầu hàng về phía tả. Thế nhưng khi phát, những người giúp việc cho bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lạị Khi sắp sửa đến lượt hắn thì bọn họ tự nhiên nói lớn:

-Hôm nay đã hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai! 
Hắn buồn bực trở ra. Qua ngày sau, hắn cố tìm đến thật sớm, ngồi vào đầu hàng bên hữu. Nhưng hắn không ngờ, những người phát chẩn hôm nay lại bắt đầu phát từ phía bên kia. Lúc sắp phát đến hắn thì chúng lại giơ thúng không lên: 
-Hôm nay thế là lại hết gạọ Bà con hãy đợi đến mai.

Hắn thở than cho số đen đủi, lần trở ra về. Qua hôm sau, lại mò đến thật sớm. Lần này hắn len vào ngồi đúng chính giữa đội quân lĩnh chẩn. Trong bụng hắn nghĩ lần nầy thì không để mất phần được. Nhưng đến giờ phát, hắn không ngờ người nhà của bà chủ hiệu hôm nay lại phát hai đầu phát lại và cuối cùng người không được gì cả, vẫn lại là hắn. Ba lần hỏng cả ba, hắn rất ngao ngán, bèn đánh liều tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn. Gặp hai đứa con gái nuôi của vợ, hắn ngả nón kêu van hết lời. Ở trong nhà; người đàn bà nhìn ra biết là chồng, đã do mưu của mình mà đến đây, bèn sai người hầu ra hỏi, xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mượn. Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời: 

-Xin ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương, cho tôi được ở hầu bà, rửa bát, quét nhà, mọi việc tôi đều xin hết sức. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi!

Người nhà trở ra cho hắn biết bà chủ nhận lời. Từ đó, hắn chăm chỉ làm lụng, cố làm vừa lòng chủ. Nhưng chung quy hắn vẫn không biết chủ chính là vợ cũ của mình. Về phần người vợ cũng không hề để lộ một tí cho hắn biết, chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử tế mà thôi. Sau một thời gian, thấy hắn chịu khó làm ăn, người đàn bà mừng lắm. Một hôm nàng cho gọi hắn lên nhà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì không! Hắn đáp: 
-Tôi lúc nhỏ được đi học có biết ít nhiều.  
-Vậy từ mai trở đi, anh không hầu hạ nữa, cho anh ở gian nhà khách dạy đám trẻ học tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan.

Nghe nói, hắn tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa, cảm thấy lòng nhân đức của bà chủ đối với mình bằng trời bằng biển, vội nhận lời ngay . Từ đó, hắn đóng vai thầy đồ cố sức làm cho chủ tin cậỵ Nhưng người vợ vẫn thử mãi không thôi.

Một lần, gặp ngày tết, bà chủ sai lấy tiền ra cho kẻ hầu người hạ. Nàng nói:
-Ta cho mỗi người năm quan, hãy mang đi đánh bạc cho vui, nếu hết sẽ cho thêm. Thầy đồ ta cũng được năm quan tiền. Nhưng trong khi mọi người đem tiền nướng vào xóc đĩa, bài mười, thì trái lại, hắn mang nguyên vẹn số tiền đó về gửi cho chủ. Bà chủ hỏi:
-Tại sao anh không thích đánh bạc? Hắn trả lời: 
-Bẩm bà, tôi ngày xưa, vì cờ bạc mà đến nông nỗi nàỵ Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không đụng đến nó.

Thế rồi luôn miệng, hắn kể hết cho chủ nghe, từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều, có vợ ngoan như thế nào, rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách, và ngày nay đã ăn năn hối lỗi v.v... Bà chủ hỏi:
-Anh còn thương vợ nữa không? Hắn rầu rĩ:
-Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấỵ 
-Nghe anh nói tôi rất thương tình. Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ. Nếu hết tiền mà vẫn chưa thấy, anh cứ về đây, tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra.

Hắn mừng rỡ vâng vâng, dạ dạ, mang tiền đi tìm. Nhưng sau ba tháng trở về với bộ mặt thiểu não, hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích đâu cả, chắc là vợ hắn đã chết. Từ đấy, vợ thấy chồng chí tình, lại có lòng tu tỉnh, nên rất mừng. Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội, chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây, may ra sẽ có ngày hội ngộ. 

Một hôm, nhân ngày giỗ cha chồng, bà chủ nhờ thầy đồ chép bài văn tế. Hắn ta ngạc nhiên và bội phần mừng rỡ khi thấy bài vị của tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên mình. Lập tức, hai vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Rồi sau khi cúng xong, họ mời làng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự tình. Ai nấy đều cho là một cuộc tái ngộ hiếm có. 

Về sau, hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con nuôi, giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản. Sau đấy, họ dắt nhau trở về quê hương xưa, chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ. Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà, vợ mới sai đào hũ vàng bố chồng cho mình ngày xưa lên . Nàng nói: 
-Có vàng chưa chắc đã có hạnh phúc. Cho nên trong những cơn túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó. 

Nói đoạn, đem số vàng ấy cúng cho đền chùa để bố thí cho người nghèọ Từ đấy, hai vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc. Câu tục ngữ: "Làm trai rửa bát quét nhà. Vợ gọi thì 'Dạ bẩm bà tôi đây!'" là do chuyện này mà ra.” (Đỗ Tuấn Hải sưu tầm)

Ngồi buồn, nhiều vị nghĩ mãi cũng chẳng thấy buồn bực, buồn bã hoặc buồn chán, mà chỉ buồn cười cho chuyện người đời và đời người. Chuyện trăm năm vợ chồng người lo chung sống cho êm đẹp, mà sao nhiều vị cứ thích đưa ra luật này lệ nọ để giải quyết ở cấp cao. Bởi, có giải quyết ở cấp nào đó, cũng đâu đến được với cấp trực tiếp của đương sự ở dưới chỉ muốn sống vui, sống hoà hoãn với mọi người, mà thôi.
Chẳng thế mà, người nghệ sĩ ở ngoài đời chỉ quen với những lời hát câu ca, như sau:

“Và rồi mùa thu về trong mắt em
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều
Vòng tay khép kín đôi mi nồng
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hát thế rồi, có lẽ bạn và tôi, ta cũng nên tìm về với Lời Vàng khi trước, mà làm nền cho tâm tình và lập trường sống của ta, mai sau. Lời vang của đấng thánh hiền, bần đạo bầy tôi đây g8ạp được, như thế này:

“Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà,
những người sống trong sự thật,
đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha.
Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này
-đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra,
nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu-
đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.
Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.
Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu,
điều răn này là:
anh em phải sống trong tình thương.”
(2Ga 1: 4-6)

Xem như thế, thì: lời cuối của bậc thày bần đạo đây chứ không của ai khác, đó là: sống và áp dụng những lời vàng ở trên, mà thôi. Còn, chuyện phiếm luận hay “phiếm loạn” về chủ đề nào đi nữa, cũng chỉ là cơ hội để tỏ bày điều được răn dạy mà thôi.
Nói thế rồi, giờ đây bần đạo lại xin thêm một đề nghị, là: ta cứ ngâm nga lời cuối của bài ca người nghệ sĩ vẫn hát, rất mê say, rằng:

Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Giấc mơ hôm nay ta xin chọn, là: cứ “sống trong tình thương” anh em với nhau, dù có chịu phẩm bình, bàn luận hay “phiếm loạn” bấy lâu nay.

Trần Ngọc Mười Hai
Những muốn nhắn người
và nhắn mình
những câu như thế.