Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Chay năm B 29/02/2015
“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”,
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc,
Bằng lời dịu dàng anh đã giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa, nhắm mắt với nỗi đau, ngọt lịm dạ.”
(Nhạc: Killing Me Softly – Lời Việt: Lê Hựu Hà – Nỗi Đau Dịu Dàng)
(Rm 5: 1-2)
Không hiểu sao, khi nghe lại nhạc-bản
này vào đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 13/11/2014, bần đạo cứ như đi vào một
thứ “mê-hồn-trận” của âm-nhạc, có lời dịch rất thi-ca kiểu “liêu-trai”, rất trữ-tình.
Không hiểu sao, mỗi lần đầm mình vào
giòng chảy đầy nhạc “trẻ” có những tâm-tình hay như thế, bần đạo đây lại cảm-nghiệm
một thực-tại nhiều hy-vọng thấm dần vào tâm can, hơn bao giờ.
Quả thật, cũng dễ hiểu, là: khi diễn-tả
tâm-tưởng của người trẻ các nơi, người diễn thường đưa ra sức sống nào đó nghe
như “hát tình ca”, tựa hồ ca-từ bài hát trên, còn nói thêm:
“Ngồi
nghe anh hát thiên tình ca.
Ngỡ
như đất trời giao hòa.
Và
tai nghe thấy một rừng âm vang.
khúc
hát dâng đời ta.
Cỏ
cây muôn loại điều hân hoan.
Nhưng
riêng em tưởng như anh.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Riêng phần bần đạo, mỗi lần diễn-dịch
tâm-tư và ý-tưởng của ai đó, thường thì bần đạo dùng ngòi bút trẻ để diễn-tả
tâm tình mình; dù đó chỉ là tâm-can/tình-tự để diễn-tả một hiểu-biết về thần-học/tu-đức,
nữa.
Thế nhưng, nhiều lúc diễn và dịch quá
nhiều về thần-học lẫn tu-đức, bần đạo thấy mình ra như người đi trên mây trời lồng
lộng, thiếu thiết thực. Đôi lúc, lại phải nhờ vào thi-ca hoặc âm-nhạc để có
thêm hứng mà suy tiếp.
Nghĩ thế rồi, bần đạo lại đã thấy cứ
hiên ngang mà về với lời ca trên, mà hát tiếp những giòng chảy như sau:
“Rồi
khi cơn sốt đun tình tôi.
Bỗng
theo cõi nhạc xa vời.
Và
anh lên tiếng gọi hồn em.
đang
khóc bên con vực sâu.
Hãy
mau lên đường về uyên uyến.
Khi
nghe thân xác nài van.
Giờ
đây ai hát lên tình ca.
Khiến
tôi thấy minh xa lạ.
Lời
ca âu yếm vỗ về em.
Nhưng
vẫn thấy xa thật xa.
Thiếu
anh khúc nhạc thành vô duyên.
Tim
em vẫn còn nghe.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Phải
thú thật thêm rằng thì là: viết “Chuyện Phiếm” lai rai/dài dài như bần đạo vẫn
làm, đôi lúc cũng thấy mình trẻ ra rất nhiều tuổi. Một thứ tuổi trẻ mà chỉ những
ai thường xuyên tiếp xúc với lớp trẻ/bé mới thông cảm. Có tâm-hồn trẻ, tức: có
tâm-trạng như những người vẫn kể về cảm-nghiệm của riêng mình ở nhiều nơi, trên
báo chí, trqng mạng hay cuộc đời, rất thực-tế.
Trên thực tế, không chỉ mỗi người nghệ-sĩ
trẻ tên Lê Hựu Hà mới viết nên tâm-tình của người mình cũng rất trẻ; mà, cả đến
những người không-còn-trẻ như tác-giả nọ từng kể lại thứ tâm-tình-lạ-vẫn-rất-trẻ
bằng trang viết như sau:
“Ông cụ quay sang nhìn người bạn già đi bên cạnh mình, ông mỉm cười:
-Bà này, mỗi buổi sáng, dậy sớm, đi tập
thể dục, nghe chim hót, ngắm mặt trời lên, có bà bên cạnh, với tôi cứ như là đã
chờ đợi từ lâu lắm rồi.
-Thì ông công tác xa, lại được giữ lại làm cố vấn,
tôi ở xa ông cũng quen rồi. Có khi bây giờ ông về, tôi lại chưa quen ấy chứ!
-Cái bà này, tôi kể cả là ở xa, nhưng khi ở bên bà,
tôi có thấy lạ gì đâu? Tôi vẫn thấy lòng mình thanh thản lắm.
-Thì giờ già rồi, chỉ mong thanh thản thôi.
Ngày nào họ cũng cùng nhau đi như thế.
Dưới con mắt ngưỡng mộ của cả người trẻ và người già. Người trẻ nhìn ông bà mà
ước: Ước gì già mình cũng được như thế. Người già thì ghen tỵ vì có người còn
có người bạn đồng hành, có người thì không. Nhưng nhiều khi già rồi, lại trái
tính, trái nết, mấy ai mà được tình cảm như hai ông bà. Tình già vẫn còn vương,
nhất là cụ ông, cũng xấp xỉ bẩy mươi tuổi nhưng vẫn phong độ nhanh nhẹn lắm.
Đúng là quân nhân có khác. Được rèn luyện qua gian khổ nên mới được như vậy.
Còn cụ bà có vẻ yếu đuối hơn, lưng bà cũng đã không còn thẳng nữa, nhưng khuôn
mặt phúc hậu khi nào cũng lấp lánh ánh cười.
Ông kéo ghế cho bà ngồi xuống bên cạnh,
còn mình thì ngồi chiếc ghế gỗ nhỏ, ông chăm chú nhìn nồi cháo đang sôi, lát
lại lấy cái giá ngoáy cho cháo đỡ bị dính dưới đáy nồi. Bà bảo để bà làm cho,
nhưng ông nhất định không chịu, ông cười:
-Bao nhiêu năm, chỉ toàn bà nấu cháo cho các con
tôi, cho bố mẹ tôi, bây giờ, tôi có nấu cho bà ăn tới hết đời cũng chưa thỏa
lòng mà!
Bà nhìn ông, đôi mắt nâu đã nhạt màu vì
thời gian ngân ngấn nước, mấy sợi tóc bạc trắng của bà phất phơ trước mặt. Bà
vén mấy sợ tóc cho gọn rồi nhìn ông:
-Thứ tôi nuối tiếc duy nhất là khi còn trẻ chúng ta
không được sống gần nhau. Ông là một người đàn ông dịu dàng. Nhưng bây giờ, ông
về rồi. Với tôi thế là đủ!
Ông nhìn bà, ánh mắt lấp lánh niềm vui,
và ngập tràn yêu mến. Đúng là khi già, người ta mới cần người làm bầu làm bạn,
có người sớm tối bên nhau, câu chuyện câu trò thì cùng nhau ăn bát cháo trắng
cũng ấm lòng biết mấy.
Bà nhìn giàn mướp trổ đầy hoa vàng,
những con ong mật từ đâu kéo về bay vo vo trước hiên nhà. Ánh nắng buổi sáng
chưa gắt, chút gió mát từ ngoài sống thổi lại khiến không khí thoáng dịu vô
cùng. Bà nhắc ông:
-Thằng cả nó bảo hôm nay nó cũng nghỉ phép đưa cả
vợ con nó về đấy. Ông tính mua cái gì về làm cơm bây giờ?
-Ôi dào, bà kệ chúng nó, nó về khắc biết mua gì mà
ăn. Bà chăm nó mấy chục năm, phải để nó chăm lại bà chứ?
-Nhưng mà chúng nó về đây, biết cái gì mà mua.
Ông nhìn bà, ánh mắt cười vẫn không đổi.
-Thì mua được cái gì, ăn cái đó!
Bà cũng cười nhìn ông:
-Vậy thì nghe ông! Rồi như sực nhớ ra điều gì, bà bảo ông:
-Quên mất, nhà mình có gà đấy, việc gì phải mua cái
gì nữa. Chuyện đó cứ để đấy, tôi với bà ăn cháo đã.
Ông bưng hai bát cháo để lên chiếc bàn
nhỏ ở góc sân, hai ông bà ngồi ăn cháo và nói chuyện gì đó rất vui, khiến bà cứ
nhìn ông rồi tủm tỉm cười hoài. Những nếp nhăn trên mặt cứ xô vào rồi lai dãn
ra, như dấu bước của thời gian, cứ im lìm, lặng lẽ nhưng không thể xóa nhòa.
Khi còn trẻ, hai ông bà cùng mệnh kim,
nên người ta nói, ở với nhau rất hay va chạm. Bà là người phụ nữ thông minh,
lại chịu thương chịu khó, nhưng cũng khá bướng bỉnh, nên khi nào ông cũng là
người nhường nhịn bà. Ông cười:
-Thua ai mới sợ, chứ thua vợ là đương nhiên! Này
nhé: Tôi làm sao mà đẻ được cho bà được hai đứa con vừa ngoan ngoãn như bà, làm
sao mà một lúc chăm cả bốn đứa trẻ (ý ông nói là cả bố mẹ chồng, các cụ xưa chả
có câu: Một già một trẻ bằng nhau là gì)…
Ngoài ra, bà biết sửa điện, biết tháo
lắp các đồ điện trong nhà bị hỏng, bà biết nấu những món ăn ngon mà chỉ về nhà
ông mới được ăn. Nói chung là vì bà vĩ đại như thế, nên ông thua là cái chắc.
Có lẽ suốt cuộc đời bà, chưa khi nào phải cãi nhau với ông. Nói ra thì chẳng ai
có thể tin. Bà biết vì ông lúc nào cũng thương và trọng bà.
Trong thâm tâm bà cũng vậy, khi còn
trẻ, lấy ông vì yêu ông, và cho tới tận bây giờ, tình cảm đó vẫn không thay
đổi. Ngày ấy trẻ, những lần ông về buổi tối khi nào hai ông bà cũng nằm tâm sự
tới khuya, có lần bà ôm ông nói:
-Sau này chúng mình già, anh không được chết trước
em, em không muốn mình sống cô đơn một mình. Em đã sống cô đơn một mình nhiều
rồi, nay mai anh về, em không muốn mình lại phải một lần nữa sống như thế. Vì
vậy, nhất định anh phải sống lâu hơn em đấy! Em sẽ rất sợ nếu một sáng nào đó
em tỉnh dậy và chỉ còn lại một mình. Em sẽ khóc đến hết nước mắt! Em không muốn
sống cô đơn không có anh lần hai. Anh nhớ đấy nha!
Từ đó, bà thấy ông ít uống rượu hơn,
nghe nói, ông còn bỏ cả thuốc lá mặc dù ông nghiện nặng. Không phải vì ông muốn
sống lâu hơn bà, mà vì ông muốn, khi về già, ông phải khỏe mạnh hơn bà để có
thể chăm sóc bà, và cũng có thể, để sống bên bà tới cùng thì thôi. Ông cũng sợ
phải sống một mình, nhưng ông sợ bà phải sống một mình hơn. Nhưng nỗi niềm ấy,
ông không nói cho bà biết. Đàn ông thường là thế. Yêu ai yêu hơn cả tính mạng
của mình, nhưng vẫn cứ lặng lẽ mình mình biết, mình mình hay.
Từ ngày có ông về nhà, bà vui vẻ lên
nhiều, sức khỏe cũng tốt hơn, bệnh huyết áp thấp của bà cũng đỡ hơn nhiều. Sáng
nào ông cũng dậy sớm hơn, đánh thức bà và họ lại nắm tay nhau đi tập thể dục.
Vậy mà đột nhiên mấy hôm nay, khi nào bà tỉnh dậy cũng chỉ thấy có một mình
trên giường, ông thức từ khi nào? Ông đã đi tập thể dục một mình sao? Bà thầm
nghĩ: Cái ông này, làm gì cũng được vài bữa, Thật ra cái vài bữa bà nói ấy cũng
đã hơn ba năm rồi.
Bà dậy, mặc thêm cái áo len, trời sang
thu nên buổi sáng hơi lạnh. Bà thấy ông từ đằng xa, tay xách tùi đồ ăn sáng,
khuôn mặt có vẻ đăm chiêu. Nhưng vừa nhìn thấy bà, ông lại mỉm cười ngay được.
Bà nhìn ông, người đàn ông cao lớn, đẹp trai ngày nào, rồi cũng thành một ông
già, thời gian trôi cứ ngỡ mới là hôm qua, nhưng thời gian cũng thật khắc
nghiệt với con người và với cả tình yêu. Thấy vẻ mặt suy tư của bà, ông cười:
-Bà lại đang nghĩ gì thế?
-Tôi chỉ nghĩ không biết ông đi đâu? Ông cười:
-Tôi đi mua bánh khúc của bà Dần đấy. Món này bà
thích nhất mà. Gớm, bà bà ấy làm bánh khúc cỡ cũng ba bốn chục năm rồi ấy nhỉ?
-Bánh khúc của bà ấy, thì chẳng ai làm ngon được
bằng ông ạ. Từ ngày hai đứa con nhà mình mới hai ba tuổi, đã ăn bánh của bà ấy
rồi. Mà ăn bánh khúc của bà ấy, thì đi ăn ở đâu cũng không thấy ngon nữa. Nhưng
vừa rồi bà ấy bảo, bà ấy bán nốt tuần này thôi. Bà ấy thấy mệt rồi.
Bà thở dài, nhìn ông:
-Thì chúng ta già cả rồi mà. Ông nhìn xem, cây mít
này tôi trồng khi thằng Hải mới được mấy tuổi, vậy mà năm nay nó cũng đã cằn
cỗi rồi! Có ra được quả nào nữa đâu!
-Cứ để nó đấy làm kỉ niệm bà ạ, nhưng sao dạo này
không thấy ông dậy đánh thức tôi dậy cùng thế? Ông nhìn xa xa, rồi quay lại
nhìn bà, ánh mắt vẫn âu yếm như thế:
-Tôi thấy bà ngủ ngon quá, nên không đánh thức bà dậy làm gì.
-Lần sau, ông cứ đánh thức tôi dậy đi cùng ông!
Ông biết tâm tình của bà. Ông đưa tay nắm lấy tay bà bảo:
-Thôi tôi với bà về ăn bánh khúc thôi!
Nhưng tất cả những buổi sáng sau nữa,
ông vẫn không đánh thức bà. Khi nào tỉnh dậy trên giường, bà cũng chỉ thấy có
một mình. Lúc đầu bà có chút hốt hoảng, nhưng sau vài buổi sáng, bà biết, ông
không đi đâu xa, ông chỉ đang ngồi ở ngoài sân hoặc lại đi lại mua đồ ăn sáng,
nên bà vẫn thấy an lòng. Bà chỉ thấy thắc mắc, dạo này nhiều lúc vắng bà, là
ông lại trâm ngâm đến lạ. Có lần bà về rồi, nhưng ông không biết, khuôn mặt ông
nặng trĩu suy tư. Chợt bà thấy lòng mình có chút bất an.
Ông đang ngồi nấu cháo bên chiếc bếp
than nhỏ quen thuộc ở góc sân. Nhưng nối cháo đã trào cả ra ngoài mà ông không
biết. Bà cầm chiếc áo khoác lên người ông rồi mở vung nồi cháo cho đỡ trào.
Giọng bà vẫn dịu dàng như mọi khi:
-Buổi sáng cuối thu rồi, trời sắp chuyển lạnh đấy ông ạ. Mà dạo này, tôi
thấy ông gầy đi!
Ông đưa mắt nhìn bà, miệng nở một nụ cười:
-Bà yên tâm, tôi ốm sao được! Nhưng dạo này, tôi thấy ông cứ suy nghĩ đi
đâu ấy!
-Tôi thì nghĩ đi đâu được ngoài bà!
Mấy tháng sau, người ta không còn thấy
hình ảnh hai vợ chồng già dắt tay nhau đi dạo nữa. Mà chỉ thấy có một mình bà
cụ đi vào mỗi buổi sáng. Khuôn mặt bà không còn rạng rỡ như ngày nào. Đôi mắt
dường như mờ đục hơn, như được phủ mờ bởi một lớp sương mỏng. Bà đi quanh một
vòng rồi lặng lẽ về nhà, nấu cháo, múc hai bát và đặt trên bàn. Bà ăn cháo và
ánh mắt bà lại lấp lánh ánh cười.
Một năm sau, đúng ngày ông mất, bà cũng
ra đi. Khi con gái dọn dẹp đồ đạc của cha mẹ mới phát hiện ra lá thư của ông
viết cho bà, nét chữ run run nhòe ướt, không biết vì nước mắt của ông khi viết
hay của bà mỗi khi đọc, cô chỉ thấy những nếp gấp gần như bị rách ra:
“Mình à!
“Tôi muốn được sống lâu hơn mình để có
thể nấu cháo cho mình ăn mỗi sáng, đánh thức mình dậy mỗi sáng và để mình không
phải sống cô đơn một mình những năm tuổi già. Khi trẻ, tôi đã để mình sống cô
đơn như vậy. Tôi muốn bù đắp lại cho mình.
Những ngày tháng này, là những tháng ngày hạnh phúc
nhất đời tôi. Khi được sống bên mình, được chăm sóc cho mình để bù đắp những
tháng ngày tôi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nhưng ông trời
không chiều lòng người rồi.
“Tôi biết, nếu đột ngột một sáng nào đó
mình tỉnh dậy và không còn thấy tôi ở bên cạnh nữa, chắc hẳn mình sẽ không chịu
nổi đâu. Nên khi tôi biết tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi biết tôi sẽ chẳng
sống được lâu nữa. Tôi đã hết sức lo lắng bởi tôi lại thất hứa với mình rồi.
Sáng nào tôi cũng tỉnh giấc trước mình và để mình lại đó. Tôi muốn mình quen
cảm giác ấy đi. Để sau này khi tôi đi rồi, mình không quá hụt hẫng. Không
biết mình đã quen chưa?Nhưng dù sao, khi thức dậy một sáng nào đó, không có tôi
bên cạnh, mình cũng đừng khóc đấy!
“Khi không có tôi bên cạnh, mình vẫn
phải chăm sóc bản thân và sống vui vẻ. Nếu mình cảm thấy cô đơn quá, thì có thể
về ở với thằng cả. Vợ chồng nó sẽ thay tôi chăm sóc mình.
Tôi vẫn chưa nói câu này với mình: Tôi
yêu mình!”
Bức thư trên tay cô gái chữ đã nhòe gần
như không đọc được nữa. Lau nước mắt, cô gái lặng lẽ đặt bức thư của bố dưới
bức ảnh của mẹ trên bàn thờ. Dù không thể cùng đi với ông, nhưng cuối cùng bà
cũng đã thỏa nguyện được về gần ông. Cô gái thấy tự hào về bản thân mình, vì cô
được sinh ra từ chính tình yêu sâu đậm, đẹp đẽ của cha mẹ mình. Và cô tin, ở
một nơi nào đó, chắc hẳn, bố cô lại sáng sáng đánh thức mẹ dậy, hai người cùng
nhau thong dong đi tập thể dục mỗi sáng, trong ánh mắt mờ đục vì thời gian của
họ, hạnh phúc vẫn cứ hiện lên rạng ngời hơn cả ánh bình minh!” (Tuệ Minh - Ohay TV - Sưu tầm)
Viết về tâm-tình của người trẻ nơi truyện kể ở đâu
đó chỉ cốt tạo niềm vui hy-vọng cho mọi người, cả người già và người trẻ nữa.
Viết về tâm-tình cần phải trẻ, còn được thấy nhiều đoạn viết ngay cả văn-bản
của nhà Đạo mình để tạo cho người đi Đạo có hy-vọng mà sống. Sống hiên ngang,
vì có đấng bậc hiển thánh trên đời vẫn từng bảo:
“Vì
chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta
vào
hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay;
chúng
ta lại còn tự hào về niềm hy-vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”
(Rm 5: 1-2)
Viết về tâm-tình trẻ, còn thấy viết trên rất nhiều
trang giấy, cả những trang báo đạo hoặc báo đời có những sự-kiện về lối viết và
lối trình-bày tâm-tư rất trẻ của người mình. Viết về những tâm-tình trẻ cần
phải có vào mùa Chay-tịnh, còn là lối viết của vị Giáo Hoàng có tâm-hồn trẻ là
Đức Phanxicô, hôm vừa rồi như sau:
“Anh Chị Em thân mến,
Mùa Chay là thời điểm canh tân cho toàn thể
Giáo Hội, cho mỗi một cộng đoàn và hết mọi tín hữu. Trước hết nó là "thời điểm của ân sủng"
(2Corinto 6:2). Thiên Chúa không xin chúng ta bất cứ điều gì mà chính
Ngài không ban cho chúng ta trước. "Chúng
ta hãy mến yêu vì Ngài đã yêu mến chúng ta trước"
(1Gioan 4:19).
Người không cách xa chúng ta. Mỗi người trong chúng
ta đều có một chỗ ở trong cõi lòng Ngài. Ngài biết đích danh
chúng ta, Ngài chăm sóc cho chúng ta và Ngài tìm kiếm chúng ta những khi chúng
ta trở mặt với Ngài. Ngài chuyên chú tới từng người chúng ta; tình yêu của Ngài
không cho phép Ngài được dửng dưng lạnh lùng với những gì xẩy ra cho chúng
ta.
Bình thường, khi chúng ta được lành mạnh
và thoải mái, chúng ta quên mất người khác (những gì Thiên Chúa chẳng bao giờ
làm): chúng ta chẳng quan tâm gì tới các vấn đề của họ, các khổ đau
của họ và các thứ bất công họ phải chịu...
Cõi lòng của chúng ta trở nên lạnh lùng. Bao lâu
tôi còn tương đối lành mạnh và thoải mái, tôi không nghĩ đến những ai
kém may mắn. Ngày nay, thái độ dửng dưng vị kỷ
này đã đạt tới tầm mức toàn cầu, đến độ chúng ta có thể
nói đến một thứ toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng. Nó là một
vấn đề mà chúng ta là thành phần Kitô hữu cần
phải đương đầu.
Khi dân của Thiên Chúa hoán cải trở về với
tình yêu của Ngài thì họ thấy được những giải đáp cho các vấn
nạn được lịch sử liên tục khơi lên. Một trong những thách đố
khẩn trương nhất tôi muốn nói đến trong Sứ Điệp này đó
chính là vấn đề toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng.
Thái độ dửng dưng lạnh lùng với tha nhân của
chúng ta và với Thiên Chúa cũng cho thấy một chước cám dỗ thực sự đối với
cả Kitô hữu chúng ta nữa. Mỗi năm, trong Mùa Chay, chúng ta cần nghe lại một
lần nữa tiếng của các vị tiên tri kêu lên khiến cho lương tâm của chúng ta day
dứt.
Thiên Chúa không tỏ ra dửng dưng lạnh lùng với thế
giới của chúng ta; Ngài đã quá yêu thương nó đến ban Con của Ngài vì
phần rỗi của chúng ta. Trong việc Nhập Thể, nơi đời sống trần gian, nơi
cái chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, cánh cổng giữa Thiên Chúa và con
người, giữa trời và đất, một lần nữa được mở ra cho tất cả mọi người.
Giáo Hội như thể bàn tay giữ cho cánh cửa mở
ra, nhờ việc Giáo Hội loan báo lời của Thiên Chúa, việc Giáo Hội cử hành các bí
tích và nhờ chứng từ đức tin qua đức ái của Giáo Hội (Gal
5:6).
Thế nhưng thế giới lại có khuynh hướng co mình lại
và đóng lại cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đã tiến vào
thế gian và thế gian có thể đến với Ngài. Bởi thế mà bàn tay, tức Giáo
Hội, không bao giờ được tỏ ra ngạc nhiên khi bị loại trừ, chà đạp và đả
thương.
Sứ điệp Mùa Chay 2015, thật ra còn
là sứ điệp của mọi ngày, rất chay kiêng. Chay không ở mỗi chuyện hãm mình phạt
xác. Kiêng, không chỉ mỗi việc kiêng thịt mỡ mà thôi, nhưng lại cứ “xơi” “đồ biển”
rất đắt tiền.
Sứ điệp Mùa Chay rất hằng ngày, còn
là lời nhắn nhủ gửi đến muôn người từ đấng bậc linh-mục nọ vẫn cứ nhủ và cứ
khuyên mọi người “hãy sống Phục Sinh mọi ngày, cả trong Mùa Chay nữa”.
Sống như thế, sẽ thấy niềm vui/hy-vọng
ở đường hầm đầy tăm tối vẫn le lói ánh sáng của sự “trỗi dậy” rất Phục Sinh, ở
mọi ngày. Mọi thời, và mọi nơi. Sống Phục Sinh vào cả Mùa Chay là sống trong
hy-vọng “được hưởng vinh quang của Thiên
Chúa” như đấng thánh hiền vẫn nhắn nhủ người dân thành Rôma thời nào, như
trích dẫn.
Sống
niềm vui Phục Sinh cả vào Mùa Chay và mọi mùa còn là và vẫn là sống rất vững chãi
trong tin-tưởng như câu truyện kể để kết-luận, rất như sau:
“Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự
cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng
nhất.
Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của
sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật
sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.
Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước
nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự
sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh
bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.
Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm
đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng
sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.
Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng
chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời
vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười
cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.
Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ
tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh
tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt
nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn
của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.
Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến
tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các
bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự
tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự
khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.
Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích
thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can
đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh
túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.
Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan
trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp
xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu
khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.
Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết
rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục
đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế
giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.
Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau.
Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu
vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình
ảnh của sự hy vọng và hòa giải.
Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm,
tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục
là cây cỏ bừng mạch sống, lam là giòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước
trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình
bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!” (trích truyện kể do St sưu-tầm/phổ-biến trên mạng toàn cầu).
Nghe
kể rồi, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà sống mạnh sống vững chã, hy-vọng sẽ
thấy niềm vui chan hoà, vào phút cuối.
Thế đó, là niềm vui hy-vọng của tôi, của bạn, vào mọi ngày trong đời, vẫn
an-bình hiền hoà.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn hy vọng đó là niềm-vui-hy-vọng
Tồn-tại mãi trong đời.
Của mọi người.