(Mt 7: 20)
Lại một đầu đề cho chuyện phiếm. Đầu đề không mang dáng dấp của những khuyên răn, như trong Đạo. Đầu đề luận phiếm hôm nay, là câu hỏi có lời lẽ thanh tao, ý tưởng nhẹ. Thanh và nhẹ, như bản nhạc trữ tình mà nhiều nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng, đã từng viết.
Hôm nay, bạn và ta hãy khơi mào chuyện phiếm bằng đề nghị nhỏ: hãy cứ đổi thay cách xưng hô anh-em, thành mẹ-con, chú-cháu, cô-cháu vv… hẳn câu hát trên sẽ thành lời cầu êm ái, rất nên làm.
Rất nên làm, là bởi trên thực tế, không có cha - mẹ trần gian chỉ bảo hoặc hướng dẫn thử hỏi làm sao đàn con thân thương bọn mình có thể tự đứng vững. Đứng vững trong trời đất, trước những phong ba bão táp xảy đến với cuộc đời nhiều điêu đứng. Đời mình. Hoặc đời người.
Quả thật, nơi đời thường ở huyện, người dân thuộc mọi lứa tuổi vẫn có những giòng chảy đầy hỏi han. Những ưu tư thắc mắc, rất khó trả lời. Ưu tư còn đó nỗi buồn, cả vào khi người đời nghe bậc hiền nhân quân tử vẫn đưa ra những xác quyết tựa như: “Tất cả là ân huệ!” “Là quà tặng Chúa ban”.
Vâng. Thắc mắc ưu tư vẫn đậm đặc nét u buồn, khi một độc giả “Chuyện phiếm”, đã nhè nhẹ đưa vào giòng chảy điện thư, những lời lẽ sau đây:
“Đọc chuyện phiếm của ông, tôi nhận ra được một điều là: ở nhiều đoạn, ông có trích dẫn lời thơ hay ý nhạc của kịch tác/triết gia nào đó bảo rằng ‘tất cả là ân huệ Chúa ban’. Và ông, ông cũng đã trao đổi rồi còn chuyển tải ý tưởng ấy cho nhiều người, gọi đó là quà tặng hay đặc ân đặc sủng mình có từ Thiên Chúa. Vậy xin hỏi: Đạo Công giáo chúng ta quan niệm thế nào về ân huệ, để anh em mình còn biết mà cảm tạ Đức Chúa.”
Như mọi lần, khi tiếp nhận ý kiến phản hồi của bất cứ ai, từ hồi nào đến giờ bần đạo vẫn có thói quen để lòng mình trùng xuống. Suy nghĩ hồi lâu. Rồi mới bắt đầu gõ máy, từ từ phúc đáp. Phúc đáp lần này, trước nhất để trân trọng cái nhã ý mà độc giả nói trên đã có ý kiến phản hồi. Có ý kiến phản hồi, tức là bầu bạn/người thân đã quan tâm, đóng góp ý kiến. Đã hỏi han. Những hỏi han, thật ra là để gạn lọc tư tưởng, những gì bạn và tôi, ta từng tản mạn và phiếm đi phiếm lại nhiều cho thỏa lòng, về ân huệ.
Để đáp ứng những hỏi han từ bầu bạn từng thắc mắc, lần này bần đạo chẳng dám tự hào đưa ra những bàn bạc cao siêu, nhều ý. Hoặc, dám gợi lên những cao kiến viển vông ngông nghênh, và lòng vòng rất cứng. Nhưng, chỉ mượn ý mượn lời của vài đấng bậc vị vọng, từng thông suốt nhuần nhuyễn ý lực nhà Đạo, như các cụ đặc trách truyền thông vào độ trước, như Lm Brian Lucas thuộc Tổng Giáo Phận Sydney, như sau:
“Nói về đặc ân – đặc sủng, hoặc “những ơn phước cả” mà nhà thơ họ Hàn tên Mặc Tử từng nói đến, tưởng có viết ra nhiều pho sách thật Đạo hạnh để trả lời, cũng chẳng tài nào giải thích hết ý nghĩa của cụm từ này. Chí ít, là giải thích bằng một vài hàng tóm gọn. Có lẽ ở đây, ta cũng chỉ nên trích dẫn một số chương đoạn lược tóm trong cuốn “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, hy vọng giải đáp phần nào những khúc mắc khiến ta tạm hài lòng:
Ở đoạn 1996, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo có viết: “Mọi xác minh ta có được là do ân huệ đặc biệt Chúa ban. Ân huệ là đặc ân, đặc nhuận, tức sự hỗ trợ một cách “nhưng không” và chẳng do công lênh/tài cán gì của ta, mà Thiên Chúa phú ban, được công bố cho mọi người, ngõ hầu chúng ta đáp ứng lời kêu mời từ Ngài, mà trở nên con cái của Cha, những người con được bảo dưỡng. Những kẻ chung phần thừa hưởng cuộc sống thánh thiêng tự tại và vĩnh hằng, từ Đức Chúa.” (x. Yn 1: 12-18; 17: 3; Rm
Tới đoạn 1997, ta lại có: Ân huệ là sự chung phần vào cuộc sống của Thiên Chúa. Ơn Ngài ban cho ta, là để hướng dẫn ta đi vào với sự mật thiết của cuộc sống Ba Ngôi Đức Chúa; nhờ có thanh tẩy mà mọi Ki-tô hữu mới được hiệp thông gia nhập vào ơn thánh sủng của Đức Kitô. Ngài chính là Đầu của Thân Mình Rất Thánh của Ngài. Với cương vị của người con đã bảo dưỡng, ta được phép gọi Thiên Chúa là Cha; hiệp thông trở nên một với Người Con Yêu dấu của Ngài. Vốn là con, các Kitô hữu chúng ta được nhận lĩnh sự sống của Chúa Thánh Linh, Đấng phà hơi thương mến của Ngài vào người chúng ta và kiến tạo nên Hội Thánh Chúa.
Ở đoạn 2005, còn thấy nói: Vì thuộc giới siêu nhiên, ân huệ vượt lên trên kinh nghiệm của ta. Và, ta chỉ có thể nhận biết đó là ân huệ Chúa ban, bằng niềm tin tưởng mà thôi. Vì thế, ta chẳng thể nào trông chờ nơi những cảm nhận hoặc vào tài cán/công lênh gì của ta, để rồi mau chóng kết luận rằng: ta xứng đáng có được ân huệ; và nhờ đó, được cứu rỗi.” (x. Nghị quyết Công Đồng Triđentinô 1547 câu 1533-1534)
Đấy là những quả quyết rất chắc nịch từ Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Trong Sách thánh, chắc chắn, bạn và tôi sẽ còn tìm gặp được nhiều chỗ, nhiều nơi nói đến ân huệ, đến đặc sủng Chúa thương ban. Như, trong Tin Mừng thánh Yoan, trích đoạn sau đây:
“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban
và ai là người đang nói với chị
thì hẳn chị sẽ xin
và Người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”
(Yn 4: 10)
Hoặc:
“Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban,
các tông đồ làm chứng Chúa Giê-su sống lại.
Và,Thiên Chúa ban cho tất cả các ông
Dồi dào ân sủng.”
(Cv 4)
Nói theo kiểu người đời, “có phần không cần gì lo”, tức là những ơn những quà tặng Trời cho, thảy đều do phần số, hết. Phần số hay số mệnh, là lối nói để chỉ ơn tiền định được Trời, được Đức Chúa phú ban cho những người ăn hiền ở lành. Những người có phần có số, được Trời Cao có mắt, vẫn dành để cho mình từ lâu.
Xem như thế, nếu bạn và tôi có hát lời ca của nhà thơ Nguyên Sa trong nhạc bản “Nếu vắng anh” do nghệ sĩ Anh Bằng sáng tác, hẳn là ta cũng sẽ đồng ý với hết mọi người, rằng: không có anh (ở đây đổi thành nếu vắng Cha vắng Chúa, con cũng chẳng ra “cái tích sự” gì.
Để minh hoạ cho một trong những điều mà ta gọi là “ân huệ, ân sủng”, hãy để lòng mình trùng xuống, hít một hơi thật đầy vào lồng ngực, rồi đọc hoặc nghe truyện kể tiếp nối ở đoạn sau:
Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách:
- Vé tàu!
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.
Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:
- Đây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
- Anh là người tàn tật?
- Vâng, tôi là người tàn tật.
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em.
Cô soát vé cười gằn:
- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên - Anh chỉ còn một nửa bàn chân.
Cô soát vé liếc nhìn, bảo:
- Tôi cần xem chứng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật," có đóng con dấu của Hội người tàn tật !
Với khuôn mặt như quả dưa đắng, người đàn ông đứng tuổi cố giải thích:
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi tai nạn xảy ra ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...
Trưởng tàu nghe chuyện, đến hỏi tình hình.
Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật…
Trưởng tàu cũng hỏi:
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời là anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cũng cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.
Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.
Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được.
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.
Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:
- Cũng được.
Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:
- Anh có phải đàn ông không?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không?
- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?
- Đương nhiên tôi là đàn ông!
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?
Mọi người chung quanh cười rộ lên.
Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:
- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành:
- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.
Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:
- Cô hoàn toàn không phải người!
Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì?
Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.
Chỉ có một người không cười. Đó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận. (truyện kể do Trần Văn Giang sưu tầm)
Điểm đặc thù rút ra từ truyện kể ở trên cho thấy: làm trưởng tầu hay anh hay chị soát vé chuyến tầu nào đó, cũng đâu phải do công lênh/tài cán gì của họ. Tất cả, chẳng qua chỉ là do ân huệ, hay còn gọi là đặc sủng từ người nào đó, mà ta có thói quen gọi là Trời cho. Chí ít, là người. Làm người. Nhất thứ lại là người có quyền cao chức trọng, ở ngoài đời hay trong Đạo đâu phải do cha do mẹ để lại. Như người đời vẫn nói con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa vẫn quét lá đa…
Một khi ta đã biết tất cả chỉ là ân huệ, hẳn là ta sẽ có thái độ đúng đắn để xử sự. Xử sự với người thân quen hoặc không quen, ở mọi nơi. Xử sự với tất cả những người ta từng gặp và đang sống với - sống cùng, trong nhà Đạo. Trong cuộc đời
Tóm lại, “nếu vắng anh” hay nếu vắng Cha, vắng Thầy, thì không những bạn và tôi sẽ còn hỏi: ai dìu mình đi trong chiều lộng gió. Những buổi chiều có gió lộng, có mưa giông bão tố. Cả trời đen. Một trời và một đời toàn những nghịch cảnh, rất cứng của cuộc đời. Đời người. Đời mình. Nơi gian trần.
Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc vẫn cứ hát
và cứ hỏi
phải chăng đó là ân huệ
từ nơi Chúa.