Saturday, 28 November 2015

“Đời lạnh lùng trôi theo giòng nước mắt”,




Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Vọng Năm C 6/11/2015

“Đời lạnh lùng trôi theo giòng nước mắt”,
Với bao tiếng tơ xót thương người.
Vì cuôc tình đã chết một đêm nao
Lúc trăng hãy còn thơ ấu.”
(Phạm Duy – Tiếng Đàn Tôi)

(2Côrinthô 6: 13-15)

Tiếng đàn tôi, ư? Tiếng đàn đây, là đàn gì mà sao anh/chị lại hát những câu nghe thảm-thiết thế? Nào là: “đời lạnh lùng”, “giòng nước mắt”, rồi lại: “vì cuộc tình đã chết một đêm nào”. Ôi chao! Cuộc tình nào lại thảm-thiết đến như vậy?
Cũng may là, bậc anh bậc chị còn hát những ca-từ rất yêu đời, như sau:

            “Dù đời tàn trên cánh nhac chơi vơi.
Vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời.
Lúc bao nhiêu tiếng cười.
Rộn ràng chảy về xuôi.”
(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Chính là thế. Hễ có tiếng cười ở đâu đó rồi thì tình/huống/sự việc lại cũng “chảy về xuôi thôi.”
Vâng. Chuyện đời người, thường vẫn như vậy. Chuyện Đạo trong đời lại cũng không hẳn như thế đâu. Đây, nào bạn hãy cùng tôi, ta cứ xem xét cuộc đời người ở ngoài đời, được kể như thế nào để mình còn đi vào nhà Đạo mà tìm hiểu tiếp.
Chuyện đời người, cũng tựa như chuyện nhà văn nọ ở xứ Đài từng hồi tưởng về ngày thơ ấu, khi ông còn là học trò nhỏ, rất như sau:

“Nhà văn Đài Loan – Lâm Thanh Huyền hồi còn là học sinh cấp hai, học lực và hạnh kiểm của ông đều là xếp loại kém, còn nhớ ông có hai lần mắc lỗi nghiêm trọng và hai lần lỗi nhẹ, cho nên đã bị lưu ban, thậm chí còn bị đuổi ra khỏi ký túc xá của trường.

Rất nhiều thầy/cô đã không còn hi vọng gì vào ông, nhưng thầy giáo dạy văn Vương Vũ Thương lại không hề ghét bỏ ông, thường hay đưa ông về nhà ăn cơm, khi thầy bận việc phải nghỉ, còn bảo Lâm Thanh Huyền mang bài lên lớp cho các bạn.

Thầy giáo Vương nói với Lâm Thanh Huyền rằng:

“Thầy đã dạy học 50 năm, liếc mắt đã nhận thấy con là một học sinh có tài năng”.
Những lời nói này đã khiến cho Lâm Thanh Huyền vô cùng cảm động và bị chấn động sâu sắc trong lòng. Để không phụ lòng nỗi khổ tâm của thầy giáo, ông từ đó về sau nỗ lực cố gắng, quyết tâm làm một người có ích cho xã hội.

Quả nhiên, mấy năm sau, Lâm Thanh Huyền đã trở thành một phóng viên, trong một bài báo viết về tên tội phạm trộm cắp, ông cảm thấy tên trộm này có một tư duy rất tinh tế, thủ pháp gây án rất tinh vi tỉ mỉ, sau cùng không kìm được lòng mình ông đã viết ra rằng:

“Một tên trộm với tư duy tinh tường, thủ pháp khéo léo
và một tác phong đặc biệt như vậy,
 nếu hắn làm bất luận việc gì cũng sẽ thành công”.

Khi viết những câu này hẳn ông cũng không nghĩ rằng lại ảnh hưởng đến cuộc đời của một thanh niên. Hai mươi năm sau, tên trộm năm đó đã lột xác, hắn đã làm lại từ đầu, trở thành một vị chủ doanh nghiệp có chút tiếng tăm.

Trong một lần bất ngờ gặp Lâm Thanh Huyền, ông chủ doanh nghiệp này đã chân thành nói:

“Bài viết đặc biệt của Lâm tiên sinh ngày đó đã thắp lên điểm sáng trong cuộc đời tôi, nó khiến tôi nghĩ rằng, ngoài việc làm tên trộm ra, tôi còn có thể làm được việc đúng đắn”.

Người kể, hôm nay, lại dùng câu truyện cũng khá thường-tình, để rồi đi đến kết luận như thế này:

Khi đối mặt với một người đang lầm lỗi, đang bị những lời nói cay độc vây quanh, một câu nói chứa đựng sự quan tâm, yêu thương che chở và khích lệ sẽ tựa như một ngọn lửa bùng cháy… nó đem lại cho người ta sự ấm áp, và nhen nhóm lên trong sâu thẳm nội tâm người ta một ngọn lửa của sự tự tin và tự tôn. Nó khiến người ta được tái sinh mà cố gắng hăm hở, tích cực hướng lên.

Khi một người bị rơi vào cảnh tuyệt vọng, xung quanh mờ mịt không rõ phương hướng, một câu nói chỉ bảo, thăm hỏi an ủi và tán thưởng. Giống như một ngọn đèn soi đường, giúp cho họ từ trong bóng tối mà nhìn được ánh sáng của con đường phía trước, vì thế mà phá tan được màn đêm sương mù dày đặc mà bước ra thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn.

Kinh nghiệm của Lâm Thanh Huyền cho chúng ta biết:Một lời nói có thể trở thành ánh mặt trời sưởi ấm cuộc đời người khác,  có thể đem lại cho họ một cuộc đời ấm áp và rực sáng.” (trích truyện kể trên mạng, cứ kể hoài, kể mãi rất dài dài).

            Ấy đấy. Kinh-nghiệm của một người từng kể chuyện đời là thế đấy. Thế nhưng, với nghệ-sĩ ngoài đời là những vị ít khi kể về kinh-nghiệm của riêng mình hoặc ai khác, nhưng lại cứ nói về kinh-nghiệm sống của người nghệ-sĩ qua thi-ca/âm nhạc, đại để như sau:

“Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi.
Khoan khoan hò ơi dặt dìu trong tiếng đàn tôi.
Mêng mông lả ơi thuyền về bát ngát hương trời.
Khoan khoan hò ơi nhịp sầu xa vắng mà thôi!

Buồm về dội nắng trên khơi.
Bao nhiêu hoàng hôn đên cho yên vui người ơi!
Có tiếng hát theo đàn tôi.
Như ru như thương linh hồn đắm đuối.

Mêng mông lả ơi, thuyền chờ mong gió lên trời
Mang theo đàn tôi chảy về đậu bến ngày mai.”
(Phạm Duy – bđd)

Thi-ca/âm-nhạc và truyện kể, bao giờ cũng đặm thêm chút mắm muối, mặn nồng đầy “hư-cấu”. Bởi, nếu không, thì người người lại cứ vào giòng thơ hay âm-nhạc mà sống đời mộng-ảo khá lạ đời, thì hỏng hết.
Với nhà Đạo, cả Đạo Chúa lẫn đạo Phật, lại vẫn có những luận-điểm mà nhiều bậc vị vọng từng có kinh-nghiệm sống, lại nhận-định khác hẳn những người ngoài cuộc, hoặc cả đến người trong Đạo nhưng không sống theo tôn-chỉ của Đạo, nên mới lạ.
Còn nhớ, thoạt vào lúc khởi-đầu thiên-niên-kỷ thứ ba có thiền-sư đạo Bụt sống ở hải-ngoại nhưng nhận-định về cuộc sống Đạo/đời, giản-dị như sau:

Thử nhìn vào tổ chức Giáo-hội Phật-giáo hợp-pháp duy-nhất tại quê nhà mà người ta thường gọi bông đùa là Giáo-hội nhà nước. Nhìn vào đó, ta thấy những yếu-tố đã tạo ra nó, tích-cực và tiêu-cực. Trong số những yếu-tố ấy, ta thấy sự có mặt của Giáo-hội Việt nam Thống-nhất mà đại-diện phía chiều nổi đã tranh-đấu ráo-riết cho nên các thày trong Giáo-hội nhà nước mới được nhà nước cho phép dịch sách, in kinh…

Các thày bên phía Giáo-hội thống-nhất càng tranh-đấu, càng vào tù/ra khám chừng nào, thì các thày bên phía Giáo-hội nhà nước càng có thêm không-gian để làm việc chừng nấy. Vậy, là các thày bên Giáo-hội thống-nhất là những vị đã và đang yểm-trợ Giáo-hội nhà nước một cách tích-cực nhất.” (Thích Nhất Hạnh, trích “Kẻ Thù Ta..” tr.1)

Thiền-sư Thích Nhất Hạnh, nhiều lúc, cũng thấy “bực” vì cứ bị người đồng Đạo trách-móc điều tiêu-cực, ít thực-tế, nên lại đã thanh-minh bằng lời-lẽ sau đây:

Ba chục năm nay, có một số người trong nước cũng như ngoài nước cứ trách cứ tôi là quá thân với người “Cơ đốc” và người Cộng sản. Họ chỉ muốn tôi thân với người Phật tử và người chống Cộng mà thôi.

Tôi đã cố gắng nhắc cho họ nhớ là tôi chỉ có thể hành động trên cơ bản nhận thức: “kẻ thù ta không phải là con người” tôi muốn tất cả đều có cơ hội để sống và có quyền sống hạnh phúc-  nhưng không phải ai cũng đã chấp nhận được dễ dàng điều đó cho tôi” (Thích Nhất Hạnh - sđd , tr.2)

Hôm nay, nhớ lại giòng tư-tưởng của thiền-sư, bần-đạo đây thấy mình không nên bước vào cuộc tranh-cãi với một ai. Mà, chỉ muốn trưng ra ở đây, đôi lời dẫn-nhập cho một suy-tư về cuộc sống có đổi thay với nhân-sinh-quan/lập-trường khác biệt tùy vào giao-dịch với thực-tế ở đời.  
            Và hôm nay, thực-tế cuộc đời mà bần đạo bắt gặp, lại là giòng chảy thời-sự xảy ra ở Đạo Chúa, đã được giới truyền-thông đặt tên cho là “vụ wikileak 2”, tức: vụ trộm tài-liệu mật của Toà Thánh Vaticăng qua hai cuốn sách mới xuất-bản ở Ý.
            Đặc-biệt hơn, là phản-ứng của Đấng Chủ-quản chốn chóp bu nhà Đạo, tức Đức Phanxicô, đã có lời như sau:

“Anh chị em thân mến,

Tôi biết rằng nhiều người trong anh chị em đang hoang mang vì những tin vừa truyền đi trong những ngày qua liên quan đến các tài-liệu mật của Tòa Thánh bị lấy cắp.

Vì thế, tôi muốn với anh chị em rằng: trước hết việc lấy cắp tài liệu này là tội phạm. Đó là hành-vi đáng trách, chẳng giúp ích gì. Chính tôi đã yêu cầu thực hiện cuộc khảo sát này, và cả tôi cũng như các cộng sự viên của tôi đều biết rõ nội dung tài liệu ấy, và các biện pháp được đề ra và chúng đã bắt đầu mang lại thành quả, nhận thấy rất rõ.

Do đó, tôi muốn khẳng-định lại một lần nữa, với anh chị em rằng: sự việc đau buồn này chắc chắn không ngăn cản tôi thực hiện những cải tổ đang tiến hành với cố vấn của tôi có sự hỗ-trợ của tất cả anh chị em. Đúng vậy, bằng vào hỗ trợ của toàn Giáo Hội, vì Giáo Hội được canh-tân bằng lời cầu và sự thánh thiện của mỗi tín hữu.

Vì thế, tôi cám ơn anh chị em và xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi và cho Giáo Hội, đừng để mình bị hoang mang, xáo trộn nhưng tiến bước trong niềm tín thác và hy vọng.” (X. Lm G. Trần Đức Anh, O.P dịch từ tin Vatican trên VietCatholic 08/11/2015)

Lâu lắm mới thấy Đức Phanxicô phát-biểu về chuyện “công-bình” và công-chính ở trên đời. Quả là, sống ở đời, nhiều lúc thấy có vị đã quên bẵng đi điều đó.
Bần đạo còn nhớ ở đâu đó, trong những ngày đầu năm 1975, đã thấy có hiện-tượng nhà chức-trách từng lôi kẻ cắp/ăn trộm ra hiện-trường đường phố có đông-đảo bà con chứng-giám mà chặt ngón tay hoặc bàn tay của thủ-phạm vừa mắc lỗi, để răn đe hoặc làm trò tuân-giữ luật-lệ thật khắc khe.
Ăn cắp/ăn trộm tài-sản vật-chất của người khác, thì bị thế. Thề còn, ăn trộm tài-sản trí-tuệ của một đạo-giáo có số người đi Đạo lên đến gần cả tỷ, thì ta chặt gì đây? Đức Giáo-chủ nhà mình có dám ra lệnh như thế không, đó mới là vấn-đề.
Nay, đưa ra câu hỏi gọn/nhẹ này cốt chỉ để đề-nghị với các bạn đang đọc những giòng phiếm-luận này, có chút thì giờ để ta cùng nhau suy tư/nghĩ-ngợi về hiện-tượng công-bình/chính-trực và lòng yêu-thương trong Đạo, hoặc ngoài đời.
Nhưng, trước khi đi vào chuyện đứng-đắn có chủ-đề, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào giòng chảy lời vàng có những lời lẽ rất “để đời”, như sau:

            “Thật thế,
làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính?
Làm sao ánh sáng lại dung hoà được với bóng tối?
Làm sao Đức Kitô lại hoà hợp được với Bêlia?
Làm sao người tin
lại chung phần được với người không tin?”
(2Côrinthô 6: 13-15)

Công-bình/chính-trực, bắt đầu bằng những ưu-tư/quan-ngại về các nhu-cầu và khát-vọng của con người. Và rồi, nỗi-niềm ưu-tư ấy diễn rộng để giúp ta biết đến nhu-cầu và khác-vọng của người khác cũng như toàn-thể xã-hội, theo tổng-thể.
            Tổng-thể hơn cả, là gia-đình ruột thịt của mỗi người trong đó các thành-viên lại đã yêu-thương lẫn nhau cách đậm sâu. Thế nhưng, thực-tế ở đời vẫn có trường-hợp: anh nọ, chị kia lại hợp ý, hợp khẩu-vị với người em nào đó trong gia-đình, hơn em khác. Nhất thứ, là gia-đình đông-đúc như ở Đạo Chúa.
Cả đến bậc mẹ/cha cũng thế. Nhiều lúc, lắm khi cha hoặc mẹ lại thích yêu riêng bé này/em nọ hơn ai khác; chỉ vì bé biết ý của mẹ/cha nên đã nghe lời, hoặc tuân lệnh răm-rắp.
Trong sống đời thực-tế, có nhiều thứ còn quan-trọng và đáng kể hơn chuyện công-bình/chính-trực. Công-bình và chính-trực, đặt căn-bản trên việc tôn-trọng kẻ khác, người khác. Nhưng, cũng không vì thế mà, để đổi lại, mình bắt-buộc người khác tôn-trọng mình.
Tôn-trọng người khác, không chỉ mỗi bậc ngang hàng tức: những ngươi có cùng một nhu-cầu và ham muốn giống nhau. Mà, cả đến bậc trên của mình, tức: những người mà mình cứ tưởng, là: có quyền và có lực trên mình và người ngang hàng mình, kể cả các giới-chức có quyền và lực trên cả hai, hoặc mọi người.
Về phía Đạo, có đạo-hữu lại cứ nghĩ rằng: Đấng Bề Trên là Thượng-Đế , Chúa Trời đôi lúc xử-sự cũng không được công-minh cho lắm. Nhất thứ, là về trường-hợp: tiền/của, sức khoẻ/bệnh tật hoặc tài-nguyên nhân/vật/lực.
Người đi Đạo luôn tin vào Đức Chúa là Đấng thương-yêu mỗi người trên đời cách say mê, nên đã phú-ban cho mọi người sự tự do để họ vui-hưởng cuộc đời hầu dựng-xây thế-giới/xã-hội cách đại-độ, để mọi người sống vui, sống mạnh, sống đạo-hạnh với Chúa và cho Chúa.
Thật ra thì, cuộc sống có nhau và với nhau, hoặc với Chúa là sống trong tương-quan chặt-chẽ với nhau. Những gì xấu-xa/tồi-tệ xảy ra với người này không phải là đã và sẽ không xảy đến với người khác. Thành thử, khi có ai phàn-nàn về chuyện xấu sao cứ xảy ra với người tồt lành mà không phải người khác?
Công-bình/chính-trực, phải được quan-niệm như thể trong tương-quan giữa ta với người khác. Ta như mắc nợ một số điều nơi người khác. Công-bình và chính-trực, chỉ có nghĩa là khi người khác và ta đều hành-xử rất ngang bằng/đồng đều, có tôn-trọng lẫn nhau.
Công-bình và chính-trực, thực-sự diễn ra cách rộng rãi hơn là giữa hai người thôi. Nhưng, giữa nhiều người, nhiều nhóm người trong cộng-đồng nhân-loại.
Công-bình, tuỳ-thuộc vào hệ-thống tôn-trọng và sự chính-trực với cả cộng-đồng xã-hội nữa. Nếu ta muốn có một xã-hội công-bình, thì chính mình phải sống sao cho công-bình trước đã. Và cứ thế, mỗi người và mọi người đều làm giống như thế, tự khắc toàn xã-hội cũng sẽ làm như thế.
Hơn nữa, công-bình sẽ không là yếu-tố độc-nhất trong đời người. Đời con người, có nhiều thứ và nhiều sự còn quan-trọng hơn. Trong đó, phải kể đến tình thương-yêu mở rộng ra cho mọi người và với mỗi người. Xã-hội nào có được sự yêu-thương rộng-lượng, tự khắc sẽ có công-bình/chính-trực.
Cuối cùng thì, có thể nói: trong cuộc đời người, cũng có những chuyện tuy không thiết-yếu như công-bình/chính-trực, trong đối xử vì đời là một chuỗi ngày rất muôn hình vạn dạng. Trong đó, có chuyện quan-yếu hoặc lý-tưởng khiến mọi người cần để ý.
Thế nhưng, đời người còn được điểm-tô bằng các sắc mầu khác-biệt để giúp người đời sống vui, sống mạnh sống thoải mái, rất dễ chịu. Trong số đó, có truyện kể để cười vui cho qua ngày đoạn tháng, thế thôi. Tựa như truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Truyện rằng:
Hai người bạn thân ở chung một phòng trong lúc rảnh-rỗi ngồi nói chuyện với nhau, như sau:
-Hôm qua, tao vừa rủ người em bé nhỏ đi chơi mà trong túi không có được đồng xu teng nào hết, thế có sợ không cơ chứ. Nhưng, tao vẫn quyết-định cứ rủ nó đi.

Người bạn kia, hứng chí vỗ vào đùi rồi bảo:
-Ông thật là can-đảm!
Chẳng mấy chốc, người này lại được kể tiếp câu chuyện hơi lạ, rằng:
-Cũng chẳng can-đảm gì đâu. Chả là, khi tới nơi, tao mới biết là trong túi quần mình mặc lại có một đống tiền, thế là hai đứa bọn tao tha hồ xài cho hết số tiền ấy, chẳng thắc mắc, bận-tâm gì hết.
-Thế đấy. Ông Trời thường vẫn không phụ lòng người tốt bụng, ấy mà.
-Chưa hết. Khi về đến nhà, mới phát-giác ra rằng: tao lỡ mặc nhầm quần của mày đấy. Thế có chết không?”

            Chẳng chết thằng Tây còn Đầm nào hết. Truyện kể ở trên chỉ là chuyện hư cấu thuộc loại “nghe qua rồi bỏ”, cho vui đời mà thôi. Nhưng, thực-tế cuộc đời người, nhiều lúc cũng thấy xảy ra đôi ba chuyện thuộc loại “tréo cẳng ngỗng”, mà người trong cuộc nhiều lúc chẳng thấy vui.
            Thôi thì, ta cứ coi đây là truyện hư-cấu chỉ để vui thoáng chốc. Vui rồi, nay xin bạn và tôi, ta về lại với nhạc-bản trích-dẫn ở trên để cùng hát chung đôi câu cho rộn rã, dù chỉ vài ba giây phút phù-du đọng lại trong đời mình. Vậy, bạn và tôi ta cứ hát, những lời rằng:

            “Dù đời tàn trên cánh nhac chơi vơi.
Vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời.
Lúc bao nhiêu tiếng cười.
Rộn ràng chảy về xuôi.

Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi.
Khoan khoan hò ơi dặt dìu trong tiếng đàn tôi.
Mêng mông lả ơi thuyền về bát ngát hương trời.
Khoan khoan hò ơi nhịp sầu xa vắng mà thôi!

Buồm về dội nắng trên khơi.
Bao nhiêu hoàng hôn đên cho yên vui người ơi!
Có tiếng hát theo đàn tôi.
Như ru như thương linh hồn đắm đuối.

Mêng mông lả ơi, thuyền chờ mong gió lên trời.
Mang theo đàn tôi chảy về đậu bến ngày mai.”
(Phạm Duy – bđd)

Ngày mai hay hôm nay, ta cứ thế mà rộn ràng để con thuyền “chờ mong gió lên trời”, chẳng về bến mơ hay cõi mộng rất mai ngày, trọn kiếp người.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mong và cứ chờ
Thuyền mình không lái
Chảy về bến mơ.

   
 




Saturday, 21 November 2015

“Có một bận, em ngồi xa anh quá,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ nhất mùa Vọng năm C 29/11/2015

“Có một bận, em ngồi xa anh quá,”
“Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan-ngoãn xích gần thêm chút nữa.”
(Thơ: Xuân Diệu – Xa Cách)
           
(1 Côrinthô 1: 17)

            Viết chuyện phiếm, mà lại trích và dẫn những lời lẽ giống như trên, kể ra đôi lúc thấy cũng bất tiện rất nhiều điều. Điều bất tiện, không do bởi sự-kiện, là: các bạn đạo hoặc bạn đọc nào mắt yếu chỉ thích nghe CD có người đọc sẵn cho nghe, có lẽ sẽ không thích.
            Bần đạo đây, viết chuyện phiếm cũng khá nhiều và đọc truyện kể để dẫn-nhập cũng không ít. Nên hôm nay, tự thấy cũng nên thay đổi đường-lối cho bớt nhàm/chán, bèn tìm đến bài thơ “Xa cách” của Nguyễn Bính, dùng đôi câu để dẫn-nhập, rồi phiếm tiếp. Lời thơ nay thấy hơi lạ, bèn ngâm tiếp:

            “Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
            Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
            Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
            Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
            Dầu tin-tưởng: chung một đời, một mộng.
            Em là em; anh vẫn cứ là anh.
            Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
           Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
           Thương nhớ cũ trôi theo ngày tháng mất,
           Quá khứ anh; anh không nhắc cùng em.
           Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm,
          Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ.”
          (Xuân Diệu – bđd)

          Linh-hồn ta, còn u-ẩn hơn đêm”, “ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ”, âu đó cũng lời nhắn xin được gửi đến hết mọi người. Chưa kịp gửi đi xa, đã thấy có bạn đạo xà đến báo-động bằng một câu hỏi, rất để đời như sau:

           “Này bạn thân, hôm rồi thấy anh trích-dẫn đôi điều về tục-lệ phụng thờ “Mẹ và Con” ở
            Babylon, bạn còn đính kèm thêm nguồn của bài viết nên tôi đây bèn đi tìm đọc theo nguồn
            sách bạn trích ở cuốn gì đó có tên là “Babylon Mystery Religion do một bạn đạo nọ là tác
            giả nên dám hỏi rằng: cây thập-tự ta dùng bấy lâu nay có là biểu-tượng của Đạo Thiên-
            Chúa không?’ Thấy bạn mình thông-thạo chữ-nghĩa Tây/Tàu bèn nhờ bạn hoặc ai biết xin
            Chỉ giáo bằng một giải-đáp hoặc phiên-dịch xem điều ấy thế nào, nhớ cho mình biết nhé!”

          Nghe bạn hỏi, bần đạo bầy tôi đây bèn kiếm tìm bài viết ấy để suy xét dăm ba phút rồi hẹn sẽ trả lời bạn ngay sau. Khổ nỗi bầy tôi đây có thói quen, la: cứ để đó ngâm thêm đôi câu thơ còn bỏ dở, rồi sẽ tính.
          Thơ rằng:

          “Anh muốn vào dò xét giấc em mơ.
           Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ,
           Cũng như em giấu những điều quá thực...
           (Xuân Diệu – bđd)

          Giờ thì, bạn hãy cùng bần đạo bầy tôi đây, ta đi vào phần giải-đáp của tác-giả Ralph Woodrow, trong bài viết ngắn ấy, có nói rằng:

            “Thập-giá, hoặc còn gọi là cây thập-tự bằng gỗ, được công-nhận là một trong các biểu-
            trưng quan-trọng vào bậc nhất trong Đạo của người Công-giáo. Biểu-trưng hay biểu-hiệu
            này được trưng-bày ở nhiều nơi như: trên nóc nhà thờ, tháp chuông hoặc đâu đó mọi người
            đều thấy rõ.

            Thập-giá đây còn được cung kính đặt trên bàn thờ làm lễ, trên áo lễ hoặc nhiều đồ vật
            dùng trong nghi-thức phụng-vụ có thêm chữ thánh ở đầu như khăn thánh, dĩa/chén thánh,
            vv.,, Sàn/thảm ở nhà thờ còn được thiết-kế theo hình thù của thánh-giá nữa. Nhà ở của
             người Công-giáo bao giờ cũng treo hình/tượng thánh-giá chứng-tỏ nhà này theo đạo. Nói
             tóm lại, nơi nào cũng thấy cây thánh-giá được mọi người tôn-kính như báu vật vậy.

            Nhiều nghi-lễ trong Đạo còn trang-trọng bằng viết dấu chữ thập lên đầu, trên trán như khi
            người đi Đạo chịu phép Thêm Sức, xức tro, khi bước vào nhà thờ, trước khi mở tiệc tùng,
            ăn uống. Trong thánh-lễ, vị chủ-tế làm dấu Thánh-giá đến 16 lần và làm phép trên bàn
            thánh đến 30 lần cả thảy.     

           Giáo-hội Tin Lành/Thệ-Phản hầu hết không tin tưởng vào việc làm dấu thập-tự bằng tay.
           Các đạo-hữu bên ấy, không có thói quen cung-kính cúi đầu trước thập-giá hoặc coi đó như
           đối-tượng của việc phụng-thờ, vì không thấy các điều ấy được ghi trong Sách Thánh; nhưng
           việc sử dụng thập-giá vẫn được phần đông các giáo-hữu giữ lại trên các gác chuông, bục
           giảng và nhiều nơi khác theo hình-thức như để trang-trí, mà thôi.

          Tín-hữu Đạo Chúa vào thời đầu, lại cũng không coi cây thập-giá như biểu-tượng lành-
          thánh/đạo-đức, nhưng lại coi đó như cây gỗ đáng xấu-hổ, nguyền-rủa, tức một thứ thiết-bị
          diễn-tả sự chết hay “khổ-nhục” như thư Do-thái đoạn 12 câu 2 từng diễn-tả. Các ngài không
          tin-tưởng vào cây gỗ sần-xùi, mà niềm tin của các ngài lại đặt lên thập-giá, và ngang qua
          đó, để các ngài biết tha-thứ cách đầy tràn và trọn vẹn.
     
          Cũng trong ý-nghĩa này mà đấng thánh-hiền là Phaolô tông-đồ vẫn từng giảng-rao về thập-
          giá và vinh-danh Chúa ở trên đó như mọi người đều thấy rõ ở thư thứ nhất gửi giáo-đoàn
          Côrinthô đoạn 1 câu 17, 18. Tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi không bao giờ nói về thập-giá
          như thanh gỗ mà nhiều vị quàng cổ với sợi dây chuyền hoặc cầm trên tay để làm dáng hoặc
          bảo vệ thân xác. Tập-tục này mãi về sau mới thấy…

         Mãi sau này, chỉ vào niên-biểu 431, khi Đạo Chúa bắt đầu bị phàm-tục-hoá do ảnh-hưởng
         của dân ngoại, thì “thập-giá” mới được đưa vào nhà thờ và phòng ốc, trong khi tập-tục đặt
         thập-giá trên gác chuông chỉ mới khởi-đầu từ năm 586, trở về sau thôi. Kịp đến thế kỷ thứ 6,
         hình thập-giá bị Giáo-hội La Mã cấm-đoán, mãi đến khi Công đồng Êphêsô được triệu-tập,
         mới có lệnh ban ra buộc các nhà tư của tín-hữu phải treo thánh-giá ở trong nhà…

        Nếu ta gọi thập-giá là biểu-tượng của Đạo Chúa, thì vẫn không thể khẳng-định cách đúng-
        đắn khi bảo rằng nguồn-gốc của hình/tượng này là nằm bên trong Đạo, bởi lẽ bằng vào hình-
        thức này/khác, đây là biểu-tượng thánh-thiêng có từ lâu, trước cả thời Đạo Chúa đi vào hiện-
        hữu ta đã thấy cây gỗ này với chúng-dân ngoài Đạo. Nói khác đi, thập-giá gỗ đã xuất-hiện
        nơi người Babylon ở vùng Chalđê vào thời cổ-đại.

       Biểu-tượng thập-giá sau này được phổ-biến rộng lan tràn sang nhiều nước trên thế-giới, mỗi
       nơi dùng mỗi cách, rất khác nhau. Với người Trung-hoa, “cây thập-tự được công-nhận là một
       trong các thiết-bị cổ được treo trên tường các đền đài, chùa chiền và được sơn son thiếp vàng
       trên các đèn lồng đặt ở nhiều nơi thiêng/thánh của đền chùa.

      Tại Ấn-độ, thập-giá từng là biểu-tượng thánh thiêng qua nhiều thế-kỷ đối với dân ngoại. Có nơi
      dân chúng địa phương dùng sơn/mục để vẽ các hình thập-tự lên chum/vại đựng thứ nước
      lành thánh lấy từ sông Hằng hoặc làm phù-hiệu của các thần thánh Jaina không thân xác.

      Các nước châu Phi, người dân bản xứ lại đem thập-giá nhúng xuống Sông Gitche. Phụ-nữ sắc
      tộc Kabyle dù là người đạo Hồi, lại vẫn xâm hình thập-tự lên ấn-đường giữa hai mắt. Dân vùng
      Wanyamwizi lại thích trang trí thập-giá trên tường. Còn người Yaricks lại vẫn kẻ đường ranh
      vương-quốc dọc sông Niger đến sông Nile bằng hình thập-giá và cũng vẽ lên thuẫn của họ
      nữa.

     Vùng Palenque ở Mêxicô vào thế kỷ thứ 9 trước khi các cố Đạo người Tây Ban Nha đến lập-
     nghiệp ở đây cũng thấy các sắc dân thổ-địa có thiết-dựng một đền thờ lấy tên là “Đền Thập-tự”,
     trên bàn thờ cúng tổ, họ cũng đặt cây thập-tự làm phù-hiệu niềm tin coi như cổ vật thờ cúng
     trong các đền…” (X. Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion, Ralph Woodrow Evangelistic
     Association, Inc. 1981, tr. 47-50).

           Phần trích-dẫn ở trên chắc hẳn tác-giả Ralph Woodrow không có ý phản-bác niềm tin của ai đó đặt vào linh-vật hoặc hình/tượng hoặc dấu hiệu này/khác cốt biểu-tỏ niềm tin sấu-sắc của mỗi người, mà là muốn tìm đến lịch-sử/nguồn-gốc của linh-vật hay tập-tục của tôn-giáo, thôi.
           Nghiên-cứu một chút sự việc biểu-tỏ niềm tin vào các linh-vật hoặc dấu-hiệu thấy có ở thập-giá, cũng là điều nên làm khi các kẻ tin muốn duy-trì các dấu-hiệu cùng biểu-trưng ấy cho người cùng Đạo hoặc khác tôn-giáo, đều rất tốt.
           Duy có điều, là: tất cả mọi biểu-trưng/biểu-tượng đều có nghĩa tượng-trưng chứ chẳng là nền-tảng của niềm tin đi Đạo chút nào hết. Niềm tin đi Đạo, trước hết và trên hết, vẫn nằm ở bên trong cung lòng của mỗi người mà xưa nay các tín-hữu thường dùng hình-ảnh hoặc ngôn-ngữ của trái tim. 
           Với người đi Đạo và giữ Đạo, thì như thế. Còn, người mình lại nghĩ khác và làm theo cách khác, tương-tự nghệ-sĩ ngành thơ và nhạc ở trên cứ sử-dụng âm-thanh/lời lẽ mà diễn-tả những điều mình tin tưởng. Tin và tưởng đến chắc-nịch, như lời thơ còn vang vọng một tâm-tình thần-thánh, như sau:

          Em là em; anh vẫn cứ là anh.
          Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
          Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.

          Thương nhớ cũ trôi theo ngày tháng mất,
          Quá khứ anh; anh không nhắc cùng em.
          Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm,
          Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ.”
          (Xuân Diệu – bđd)
        
            Diễn-tả tâm tình bằng lời thơ hoặc cử-chỉ trân-trọng lẫn nhau, như tôn kính/suy tôn thập-giá, cũng là động-thái tư riêng của mỗi người. Động-thái ấy, có thể không như thế mãi. Cũng có thể đổi thay theo nhiều tháng ngày đượm nhiều tình-tiết lẫn xúc-cảm.       
            Tình tiết hoặc xúc-cảm đến 7 kiểu mà người xưa gọi là “thất-tình”, trong đó có cả tình-tự giận hờn, ai oán chuyện đời, cũng không đáng sợ bằng chuyện ganh đua/hơn thua giữa các đấng bậc có vai trò không nhỏ ở đời.
             Chuyện ganh đua/hơn thua ở đời, là “chuyện nhỏ” giữa hai bậc vị-vọng là luật sư/bác sĩ được kể ở bên dưới, cốt để minh-hoạ cho một tình-tiết ở đời có những giao-dịch lạ kỳ, qua câu truyện kể ở bên dưới:

            Truyện rằng:

            Có Ông Bác Sĩ ế khách, nên cô Y tá mông tròn muốn bỏ phòng mạch đi làm chỗ khác. Ông
            Bác sĩ bèn nghĩ ra một kế quảng cáo kiếm tiền. Bác sĩ trưng tấm biển quảng cáo rất lớn
            trước phòng mạch ghi hàng chữ:

            "Đốc-tưa tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà-Lội; kinh nghiệm bệnh viện quân y 20 năm chiến
             tranh chống Mỹ, 10 năm phục vụ đẻ đái bệnh viện bà mẹ trẻ em.. Nhận khám bệnh mọi
            thứ trên đời! Nếu trị dứt bệnh thì chỉ tính tiền 20 Đôla Mỹ! Nếu bệnh không lành, bồi thường
            cho bệnh nhân 100 Đôla Mỹ hay tương đương 2 Triệu đồng ngân hàng Việt Nam!"

             Anh Luật sư tốt nghiệp Thầy cãi trường Luật Sàigòn, đi ngang qua đọc thấy vậy bèn ghé
            vào làm tiền ông Bác sĩ:
            -Đốc-tưa ơi, mũi tui bị mất khứu giác không ngửi được gì!
            Bác sĩ gọi cô y-tá có thân-hình nẩy lửa ra mà bảo:
            -Cô lấy chai số 35 nhỏ vào mũi ông Luật sư 3 giọt!
            Nghe vậy, ông Thầy cãi cầm chai thuốc ngửi trước và nói:
            -Ấy chết, đừng nhỏ bậy.. Đây là xăng chạy xe sao nhỏ vào mũi tôi được!
            Ông Bác sĩ chìa tay ra:
            -Mũi của Luật sư đã ngửi lại được rồi.. Trả cho tôi 20 Đôla.

           Luật sư về nhà tức muốn ói máu; chuyến nầy sẽ trả đòn cho thằng cha Đốc tưa nầy sạt
           nghiệp luôn. Luật sư đến phòng mạch:
           -Nguy rồi, tui mất trí nhớ nên Bác sĩ trị giùm tui!
           Luật sư nghĩ thầm "Mẹ kiếp, trí nhớ làm sao nó biết mất hay không.. Chuyến nầy lấy lại của
           mày100 Đôla cho mầy biết nghe con!"

           Đốc-tưa gọi cô Y tá của ông ra rồi bảo:
           -Cô lấy chai thuốc số 35 nhỏ vào họng ông Luật sư 10 giọt!
           Cô y tá cầm chai thuốc ra, Luật sư la toáng lên:
           -Nè cha nội.. Chai thuốc nầy hôm trước tui đã nói là xăng chạy xe mà sao cứ đòi nhỏ vào
           miệng tôi nữa vậy!
           
            Bác sĩ chìa tay ra:
           -Trả cho tôi 20 Đôla vì anh đã phục hồi trí nhớ rất tốt rồi..!
           Luật sư về nhà mất ăn vì thấy mất mặt Thầy Cãi quá rồi.. Lần nầy cho lão Bác sĩ tiêu đời  
           luôn.
           
           Luật sư bước vào phòng mạch:
           -Đốc-tưa ui, tui bị giảm thị giác nên hai mắt mờ câm không còn thấy gì cả..!
           Bác sĩ bảo cô Y tá mông tròn:
           -Lấy bông gòn chấm một tý nước lọc đưa đây!
           Bác sĩ lau hai mắt cho Luật sư và nói:
           -Thôi lần nầy thì tôi xin chịu thua nên trả cho Luật sư tờ 100 Đôla như đã cam kết!
           Bác sĩ trao tờ Đôla cho Luật sư. Luật sư hậm hực:
           -Mẹ kiếp, đây là tờ 20 Đôla chứ đâu phải tờ 100 Đôla.. Đưa nhầm rồi Đốc-Tưa!
          
           Bác sĩ ế hàng chìa tay ra cười hề hề:
           -Tui đã lấy lại được thị giác cho ông rồi! Làm ơn trả cho tui 20 Đôla vì mắt Luật sư đã được   
          sáng lại rồi.. Thị giác rất tốt!”…

           Cuối cùng ra, có phiếm-luận đường dài nhiều chuyện, kể cả chuyện ảnh/tượng thập-giá này/khác cũng chỉ để kể cho nhau nghe những truyện lai rai/dài dài mà nhiều lúc cũng không đúng thời hoặc đúng chỗ cho lắm. Kể dài dài chuyện phiếm Đạo vào đời hoặc Đạo giữa đời, nhiều khi và lắm lúc, cũng chỉ để kể cho nhau đôi tâm-tình/xúc-cảm của ai đó, chỉ một người hay nhiều người, mà thôi.  
          Cuối cùng thì, có lai rai viết phiếm hoặc kể chuyện dài dài để “Phiếm-loạn” hay phiếm-luận cũng chỉ để bạn và tôi, ta chung vui tìm hiểu đôi tập-tục có từ ngàn xưa mà cứ tưởng rằng: chỉ mỗi Đạo mình mới có, bấy lâu nay.
         Có hiểu cung-cách và mục-đích khi kể chuyện phiếm như thế, mới có thể đồng-thuận với người lục/tìm sử-liệu về ý-nghĩa một số hành-xử cũng như tập-tục trong Đạo, mới thấy được điều cần-thiết của người đi Đạo là cần tìm cần hiểu và học-hỏi, nhiều hơn nữa. Có như thế, mới giữ gìn niềm tin của chính mình hay bạn đạo của mình được tốt tươi, lành thánh, khách-quan. 
          Nghĩ thế rồi, nay xin mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm một chút ý-kiến/lập-trường của bạn đạo nọ lục/tìm sử-liệu trên, khi ông bảo:
  
          “Một số vị đi Đạo cứ đặt vấn-đề hỏi rằng: Do bởi sự-kiện là: ‘Đức Giêsu từng chết trên thập
           giá, hỏi rằng điều này có làm cho cây giá hình chữ thập thành biểu-tượng xác-chứng cho
           Đạo Chúa, chứ?’

          Quả thật là, trong đầu óc của nhiều tín-hữu và tín-đồ, thì: thập-giá lâu nay vẫn được liên-kết
          với Đức Kitô, thật chặt-chẽ. Thế nhưng, những ai từng biết rõ nguồn-gốc/sử-liệu và cung-
          cách không kém mê-tín, hoặc say mê tin-tưởng thì cũng thế, qua nhiều thế-kỷ, có thể thấy
          mặt trái của đồng tiền kẽm.

          Mặc dù, nghe qua điều này thấy cũng hơi lỗ-mãng, một số vị lại vẫn bảo: ‘Giả như Đức
          Giêsu bị “quân dữ” giết chết bằng súng săn, thì có chăng lý-lẽ nào đó khiến các “cụ Đạo”
          nhà ta cứ là đeo lủng lẳng nơi cổ hoặc đặt trên chop gác chuông/nhà thờ biểu-tượng nào đó
          mang hình cây súng, chứ?’

          Cuối cùng, có lẽ cũng nên về với biện-luận của các bậc thánh-hiền vẫn bảo rằng: điều quan-
          trọng không phải hỏi: cái gì mà là ai? – ai là Đấng chết trên đó, chứ không phải cái gì được
          dùng làm công-cụ cho cái chết của Ngài, thế?

          Thánh Ambrôsiô có đưa ra một luận-điểm khá hợp lý khi ngài bảo: “Ta hãy đến mà tôn-thờ
          Đức Kitô, Vua Cha của ta, là Đấng bị chết treo trên cây gỗ hình chữ thập chứ đừng tôn-
          sùng cây giá hình chữ thập, làm bằng gỗ!” (Xem Ralph Woodrow, sđd tr. 53)                          

          Nghe ý-kiến bạn bè trong Đạo từng lục/tìm sử-liệu thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta nghe thêm lời vàng/ngọc của đấng thánh-hiền trong Đạo, khi xưa từng nhắn-nhủ:

          Quả vậy,
          Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi thanh-tẩy,
          mà là rao giảng Tin Mừng,
          không phải bằng sự khôn-ngoan
          của khoa ngôn-ngữ,
          kẻo Thập-giá của Đức Kitô
          bị ra hư không,
          trống rỗng”.
          (1 Côrinthô 1: 17)

          Nghe nhủ rồi, nay mời bạn và tôi, ta tìm về bài hát “Xa cách” của người nghệ-sĩ mang tên Tú Minh mà hát vang làm kết-đoạn bài phiếm-luận lai rai, dài dài naỳ, mà rằng:

         “Ngày mai xa cách rồi,
         Còn đâu những tiếng cười?
         Tình yêu em vương vấn,
         Ðể làm lưu luyến bước chân người đi.
         Tiếng đàn em văng tiếng anh hòa theo,
         Bước nhảy nào theo bước anh dìu đưa.
         Những buổi chiều không có anh dạo chơi.

         Lòng em trống vắng,
         Anh ngày mai đã cách xa ngàn khơi.
        Em về đây với nỗi đau quạnh hiu,
        Nhớ nụ cười trong ánh mắt của anh.

        Làn môi êm đềm,
        Gửi đến anh mối tình mới chớm.
        Và trái tim em người yêu dấu.

        Anh ơi hãy biết rằng:
        Tình mình không chia cách.
        Cho dù xa vắng, người yêu anh hỡi!
       Hãy để cho lòng
       Ðừng quên em nhé nơi xa nghìn trùng
       Lòng em vẫn dõi theo bóng hình người
       Biết bao giờ nguôi.
       (Tú Minh – Xa Cách)

       Hát những lời như: “Anh ơi hãy biết rằng: tình mình không chia cách”… dù cho anh và em có hiểu sai/nghĩ nhầm về ý-nghĩa của việc suy-tôn Thập-giá Đức Kitô đến thế nào đi nữa. Bởi có thế nào đi nữa, cũng hãy nhớ lại lời ca của nghệ-sĩ ngoài đời vẫn cứ bảo, rằng: Lòng em vẫn dõi theo bóng hình người, biết bao giờ nguôi..” dù anh có đeo trên ngực Thập-giá đích-thực của Đức Kitô, hay không. 

         Trần Ngọc Mười Hai
         Nay vẫn muốn tìm về
         Nguồn sử thập-tự
         của Đức Kitô,
         ngàn năm vẫn thế.