“Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan-ngoãn xích gần thêm chút nữa.”
“Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu! Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin-tưởng: chung một đời, một
mộng.
Em là em; anh vẫn cứ là anh. Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
Thương nhớ cũ trôi theo ngày tháng
mất,
Quá khứ anh; anh không nhắc cùng em. Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm, Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ.”
(Xuân Diệu – bđd)
“Linh-hồn ta, còn u-ẩn hơn đêm”, “ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ”, âu đó cũng lời nhắn xin được gửi
đến hết mọi người. Chưa kịp gửi đi xa, đã thấy có bạn đạo xà đến báo-động
bằng một câu hỏi, rất để đời như sau:
“Này bạn thân, hôm rồi thấy anh trích-dẫn đôi điều về tục-lệ phụng
thờ “Mẹ và Con” ở
Babylon, bạn còn đính kèm thêm nguồn của
bài viết nên tôi đây bèn đi tìm đọc theo nguồn
sách bạn trích ở cuốn gì đó có tên là “Babylon Mystery Religion do một
bạn đạo nọ là tác
giả nên dám hỏi rằng: cây thập-tự ta dùng bấy lâu nay có là biểu-tượng
của Đạo Thiên-
Chúa không?’ Thấy bạn mình
thông-thạo chữ-nghĩa Tây/Tàu bèn nhờ bạn hoặc ai biết xin
Chỉ giáo bằng một giải-đáp hoặc phiên-dịch xem điều ấy thế nào, nhớ
cho mình biết nhé!”
Nghe bạn hỏi, bần đạo bầy tôi đây bèn kiếm tìm bài viết ấy để suy xét
dăm ba phút rồi hẹn sẽ trả lời bạn ngay sau. Khổ nỗi bầy tôi đây có thói
quen, la: cứ để đó ngâm thêm đôi câu thơ còn bỏ dở, rồi sẽ tính.
Thơ rằng:
“Anh
muốn vào dò xét giấc em mơ.
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ, Cũng như em giấu những điều quá thực...
(Xuân Diệu – bđd)
|
Giờ thì, bạn hãy cùng bần đạo bầy
tôi đây, ta đi vào phần giải-đáp của tác-giả Ralph Woodrow, trong bài viết ngắn
ấy, có nói rằng:
“Thập-giá,
hoặc còn gọi là cây thập-tự bằng gỗ, được công-nhận là một trong các biểu-
trưng quan-trọng vào bậc nhất
trong Đạo của người Công-giáo. Biểu-trưng hay biểu-hiệu
này được trưng-bày ở nhiều nơi như: trên nóc nhà thờ, tháp chuông hoặc
đâu đó mọi người
đều thấy rõ.
Thập-giá đây còn được cung kính đặt
trên bàn thờ làm lễ, trên áo lễ hoặc nhiều đồ vật
dùng trong nghi-thức phụng-vụ có
thêm chữ thánh ở đầu như khăn thánh, dĩa/chén thánh,
vv.,, Sàn/thảm ở nhà
thờ còn được thiết-kế theo hình thù của thánh-giá nữa. Nhà ở của
người Công-giáo bao giờ cũng
treo hình/tượng thánh-giá chứng-tỏ nhà này theo đạo. Nói
tóm lại, nơi nào cũng thấy cây
thánh-giá được mọi người tôn-kính như báu vật vậy.
Nhiều nghi-lễ trong Đạo còn trang-trọng
bằng viết dấu chữ thập lên đầu, trên trán như khi
người đi Đạo chịu phép Thêm Sức,
xức tro, khi bước vào nhà thờ, trước khi mở tiệc tùng,
ăn uống. Trong thánh-lễ, vị chủ-tế
làm dấu Thánh-giá đến 16 lần và làm phép trên bàn
thánh đến 30 lần cả thảy.
Giáo-hội Tin Lành/Thệ-Phản hầu hết
không tin tưởng vào việc làm dấu thập-tự bằng tay.
Các đạo-hữu bên ấy, không có thói
quen cung-kính cúi đầu trước thập-giá hoặc coi đó như
đối-tượng của việc phụng-thờ, vì không thấy
các điều ấy được ghi trong Sách Thánh; nhưng
việc sử dụng thập-giá vẫn được phần
đông các giáo-hữu giữ lại trên các gác chuông, bục
giảng và nhiều nơi khác theo
hình-thức như để trang-trí, mà thôi.
Tín-hữu Đạo Chúa vào thời đầu, lại
cũng không coi cây thập-giá như biểu-tượng lành-
thánh/đạo-đức, nhưng lại coi đó như
cây gỗ đáng xấu-hổ, nguyền-rủa, tức một thứ thiết-bị
diễn-tả sự chết hay “khổ-nhục” như
thư Do-thái đoạn 12 câu 2 từng diễn-tả. Các ngài không
tin-tưởng vào cây gỗ sần-xùi, mà niềm
tin của các ngài lại đặt lên thập-giá, và ngang qua
đó, để các ngài biết tha-thứ cách đầy tràn
và trọn vẹn.
Cũng trong ý-nghĩa này mà đấng thánh-hiền
là Phaolô tông-đồ vẫn từng giảng-rao về thập-
giá và vinh-danh Chúa ở trên đó như
mọi người đều thấy rõ ở thư thứ nhất gửi giáo-đoàn
Côrinthô đoạn 1 câu 17, 18. Tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi không bao
giờ nói về thập-giá
như thanh gỗ mà nhiều vị quàng cổ với sợi
dây chuyền hoặc cầm trên tay để làm dáng hoặc
bảo vệ thân xác. Tập-tục này mãi về sau mới thấy…
Mãi sau này, chỉ vào niên-biểu 431, khi Đạo
Chúa bắt đầu bị phàm-tục-hoá do ảnh-hưởng
của dân ngoại, thì “thập-giá” mới được đưa vào nhà thờ và phòng ốc,
trong khi tập-tục đặt
thập-giá trên gác chuông chỉ mới khởi-đầu
từ năm 586, trở về sau thôi. Kịp đến thế kỷ thứ 6,
hình thập-giá bị Giáo-hội La Mã cấm-đoán,
mãi đến khi Công đồng Êphêsô được triệu-tập,
mới có lệnh ban ra buộc các nhà tư của
tín-hữu phải treo thánh-giá ở trong nhà…
Nếu ta gọi thập-giá là biểu-tượng của
Đạo Chúa, thì vẫn không thể khẳng-định cách đúng-
đắn khi bảo rằng nguồn-gốc của
hình/tượng này là nằm bên trong Đạo, bởi lẽ bằng vào hình-
thức này/khác, đây là biểu-tượng
thánh-thiêng có từ lâu, trước cả thời Đạo Chúa đi vào hiện-
hữu ta đã thấy cây gỗ này với
chúng-dân ngoài Đạo. Nói khác đi, thập-giá gỗ đã xuất-hiện
nơi người Babylon ở vùng Chalđê vào thời cổ-đại.
Biểu-tượng thập-giá sau này được phổ-biến
rộng lan tràn sang nhiều nước trên thế-giới, mỗi
nơi dùng mỗi cách, rất khác nhau. Với
người Trung-hoa, “cây thập-tự được công-nhận là một
trong các thiết-bị cổ được treo trên
tường các đền đài, chùa chiền và được sơn son thiếp vàng
trên các đèn lồng đặt ở nhiều nơi
thiêng/thánh của đền chùa.
Tại Ấn-độ, thập-giá từng là biểu-tượng thánh thiêng qua nhiều thế-kỷ đối
với dân ngoại. Có nơi
dân chúng địa phương dùng sơn/mục để vẽ các hình thập-tự lên chum/vại
đựng thứ nước
lành thánh lấy từ sông Hằng hoặc làm phù-hiệu của các thần thánh Jaina
không thân xác.
Các nước châu Phi, người dân bản xứ lại đem thập-giá nhúng xuống Sông
Gitche. Phụ-nữ sắc
tộc Kabyle dù là người đạo Hồi, lại vẫn xâm
hình thập-tự lên ấn-đường giữa hai mắt. Dân vùng
Wanyamwizi lại thích trang trí thập-giá trên tường. Còn người Yaricks
lại vẫn kẻ đường ranh
vương-quốc dọc sông Niger đến sông Nile bằng hình thập-giá và cũng vẽ
lên thuẫn của họ
nữa.
Vùng Palenque ở Mêxicô vào thế kỷ thứ 9 trước khi các cố Đạo người Tây
Ban Nha đến lập-
nghiệp ở đây cũng thấy các sắc dân thổ-địa có thiết-dựng một đền thờ lấy
tên là “Đền Thập-tự”,
trên bàn thờ cúng tổ, họ cũng đặt cây thập-tự làm phù-hiệu niềm tin
coi như cổ vật thờ cúng
trong các đền…” (X.
Ralph Woodrow, Babylon Mystery
Religion, Ralph Woodrow Evangelistic
Association, Inc. 1981, tr. 47-50).
Phần trích-dẫn ở trên chắc hẳn
tác-giả Ralph Woodrow không có ý phản-bác niềm tin của ai đó đặt vào linh-vật
hoặc hình/tượng hoặc dấu hiệu này/khác cốt biểu-tỏ niềm tin sấu-sắc của mỗi
người, mà là muốn tìm đến lịch-sử/nguồn-gốc của linh-vật hay tập-tục của
tôn-giáo, thôi.
Nghiên-cứu một chút sự việc biểu-tỏ
niềm tin vào các linh-vật hoặc dấu-hiệu thấy có ở thập-giá, cũng là điều nên
làm khi các kẻ tin muốn duy-trì các dấu-hiệu cùng biểu-trưng ấy cho người
cùng Đạo hoặc khác tôn-giáo, đều rất tốt.
Duy có điều, là: tất cả mọi biểu-trưng/biểu-tượng
đều có nghĩa tượng-trưng chứ chẳng là nền-tảng của niềm tin đi Đạo chút nào hết.
Niềm tin đi Đạo, trước hết và trên hết, vẫn nằm ở bên trong cung lòng của mỗi
người mà xưa nay các tín-hữu thường dùng hình-ảnh hoặc ngôn-ngữ của trái
tim.
Với người đi Đạo và giữ Đạo, thì
như thế. Còn, người mình lại nghĩ khác và làm theo cách khác, tương-tự nghệ-sĩ
ngành thơ và nhạc ở trên cứ sử-dụng âm-thanh/lời lẽ mà diễn-tả những điều
mình tin tưởng. Tin và tưởng đến chắc-nịch, như lời thơ còn vang vọng một
tâm-tình thần-thánh, như sau:
“Em là
em; anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
Thương nhớ cũ trôi theo ngày tháng
mất,
Quá khứ anh; anh không nhắc cùng em. Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm, Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ.”
(Xuân Diệu – bđd)
Diễn-tả tâm tình bằng lời thơ hoặc cử-chỉ
trân-trọng lẫn nhau, như tôn kính/suy tôn thập-giá, cũng là động-thái tư
riêng của mỗi người. Động-thái ấy, có thể không như thế mãi. Cũng có thể đổi
thay theo nhiều tháng ngày đượm nhiều tình-tiết lẫn xúc-cảm.
Tình
tiết hoặc xúc-cảm đến 7 kiểu mà người xưa gọi là “thất-tình”, trong đó có cả
tình-tự giận hờn, ai oán chuyện đời, cũng không đáng sợ bằng chuyện ganh
đua/hơn thua giữa các đấng bậc có vai trò không nhỏ ở đời.
Chuyện ganh đua/hơn thua ở đời, là
“chuyện nhỏ” giữa hai bậc vị-vọng là luật sư/bác sĩ được kể ở bên dưới, cốt để
minh-hoạ cho một tình-tiết ở đời có những giao-dịch lạ kỳ, qua câu truyện kể ở
bên dưới:
“Truyện rằng:
Có Ông Bác Sĩ ế khách,
nên cô Y tá mông tròn muốn bỏ phòng mạch đi làm chỗ khác. Ông
Bác sĩ bèn nghĩ ra một kế quảng cáo kiếm tiền. Bác
sĩ trưng tấm biển quảng cáo rất lớn
trước phòng mạch ghi hàng chữ:
"Đốc-tưa tốt nghiệp Đại học Y
khoa Hà-Lội; kinh nghiệm bệnh viện quân y 20 năm chiến
tranh
chống Mỹ, 10 năm phục vụ đẻ đái bệnh viện bà mẹ trẻ em.. Nhận khám
bệnh mọi
thứ trên đời! Nếu trị dứt
bệnh thì chỉ tính tiền 20 Đôla Mỹ! Nếu bệnh không lành, bồi thường
cho bệnh nhân 100 Đôla Mỹ hay
tương đương 2 Triệu đồng ngân hàng Việt Nam!"
Anh Luật sư tốt nghiệp Thầy cãi trường
Luật Sàigòn, đi ngang qua đọc thấy vậy bèn ghé
vào làm tiền ông Bác sĩ:
-Đốc-tưa ơi, mũi tui bị mất khứu giác không ngửi được gì! Bác sĩ gọi cô y-tá có thân-hình nẩy lửa ra mà bảo:
-Cô lấy chai số 35 nhỏ vào mũi ông
Luật sư 3 giọt!
Nghe vậy, ông Thầy cãi cầm chai thuốc ngửi trước và nói: -Ấy chết, đừng nhỏ bậy.. Đây là xăng chạy xe sao nhỏ vào mũi tôi được! Ông Bác sĩ chìa tay ra: -Mũi của Luật sư đã ngửi lại được rồi.. Trả cho tôi 20 Đôla. Luật sư về nhà tức muốn ói máu; chuyến nầy sẽ trả đòn cho thằng cha Đốc tưa nầy sạt
nghiệp luôn. Luật sư đến
phòng mạch:
-Nguy rồi, tui mất trí nhớ nên Bác sĩ trị giùm tui! Luật sư nghĩ thầm "Mẹ kiếp, trí nhớ làm sao nó biết mất hay không.. Chuyến nầy lấy lại của
mày100 Đôla cho mầy biết nghe
con!"
Đốc-tưa gọi cô Y tá của ông ra rồi bảo: -Cô lấy chai thuốc số 35 nhỏ vào họng ông Luật sư 10 giọt! Cô y tá cầm chai thuốc ra, Luật sư la toáng lên: -Nè cha nội.. Chai thuốc nầy hôm trước tui đã nói là xăng chạy xe mà sao cứ đòi nhỏ vào
miệng tôi nữa vậy!
Bác sĩ chìa tay ra:
-Trả cho tôi 20 Đôla vì anh đã phục hồi trí nhớ rất tốt rồi..! Luật sư về nhà mất ăn vì thấy mất mặt Thầy Cãi quá rồi.. Lần nầy cho lão Bác sĩ tiêu đời
luôn.
Luật sư bước vào phòng mạch:
-Đốc-tưa ui, tui bị giảm thị giác nên hai mắt mờ câm không còn thấy gì cả..! Bác sĩ bảo cô Y tá mông tròn: -Lấy bông gòn chấm một tý nước lọc đưa đây! Bác sĩ lau hai mắt cho Luật sư và nói: -Thôi lần nầy thì tôi xin chịu thua nên trả cho Luật sư tờ 100 Đôla như đã cam kết! Bác sĩ trao tờ Đôla cho Luật sư. Luật sư hậm hực: -Mẹ kiếp, đây là tờ 20 Đôla chứ đâu phải tờ 100 Đôla.. Đưa nhầm rồi Đốc-Tưa!
Bác sĩ ế hàng chìa tay ra
cười hề hề:
-Tui đã lấy lại được thị giác cho ông rồi! Làm ơn trả cho tui 20 Đôla vì mắt Luật sư đã được
sáng lại rồi.. Thị giác rất tốt!”…
Cuối cùng ra, có phiếm-luận đường
dài nhiều chuyện, kể cả chuyện ảnh/tượng thập-giá này/khác cũng chỉ để kể cho
nhau nghe những truyện lai rai/dài dài mà nhiều lúc cũng không đúng thời hoặc
đúng chỗ cho lắm. Kể dài dài chuyện phiếm Đạo vào đời hoặc Đạo giữa đời,
nhiều khi và lắm lúc, cũng chỉ để kể cho nhau đôi tâm-tình/xúc-cảm của ai đó,
chỉ một người hay nhiều người, mà thôi.
Cuối cùng thì, có lai rai viết
phiếm hoặc kể chuyện dài dài để “Phiếm-loạn” hay phiếm-luận cũng chỉ để bạn
và tôi, ta chung vui tìm hiểu đôi tập-tục có từ ngàn xưa mà cứ tưởng rằng: chỉ
mỗi Đạo mình mới có, bấy lâu nay.
Có hiểu cung-cách và mục-đích khi kể
chuyện phiếm như thế, mới có thể đồng-thuận với người lục/tìm sử-liệu về
ý-nghĩa một số hành-xử cũng như tập-tục trong Đạo, mới thấy được điều
cần-thiết của người đi Đạo là cần tìm cần hiểu và học-hỏi, nhiều hơn nữa. Có
như thế, mới giữ gìn niềm tin của chính mình hay bạn đạo của mình được tốt
tươi, lành thánh, khách-quan.
Nghĩ thế rồi, nay xin mời bạn và
mời tôi, ta nghe thêm một chút ý-kiến/lập-trường của bạn đạo nọ lục/tìm
sử-liệu trên, khi ông bảo:
“Một
số vị đi Đạo cứ đặt vấn-đề hỏi rằng: Do bởi sự-kiện là: ‘Đức Giêsu từng chết
trên thập
giá, hỏi rằng điều này có làm cho cây giá hình chữ thập thành
biểu-tượng xác-chứng cho
Đạo Chúa, chứ?’
Quả thật là, trong đầu óc của nhiều tín-hữu và tín-đồ, thì: thập-giá
lâu nay vẫn được liên-kết
với Đức Kitô, thật chặt-chẽ. Thế nhưng,
những ai từng biết rõ nguồn-gốc/sử-liệu và cung-
cách không kém mê-tín, hoặc say mê tin-tưởng thì cũng thế, qua nhiều
thế-kỷ, có thể thấy
mặt trái của đồng tiền kẽm.
Mặc
dù, nghe qua điều này thấy cũng hơi lỗ-mãng, một số vị lại vẫn bảo: ‘Giả như
Đức
Giêsu bị “quân dữ” giết chết bằng
súng săn, thì có chăng lý-lẽ nào đó khiến các “cụ Đạo”
nhà ta cứ là đeo lủng lẳng nơi cổ
hoặc đặt trên chop gác chuông/nhà thờ biểu-tượng nào đó
mang hình cây súng, chứ?’
Cuối cùng, có lẽ cũng nên về với biện-luận của các bậc thánh-hiền vẫn
bảo rằng: điều quan-
trọng
không phải hỏi: cái gì mà là ai? – ai là Đấng chết trên
đó, chứ không phải cái gì được
dùng làm công-cụ cho cái chết của Ngài, thế?
Thánh Ambrôsiô có đưa ra một luận-điểm khá hợp lý khi ngài bảo: “Ta hãy đến mà tôn-thờ
Đức Kitô, Vua Cha của ta, là Đấng
bị chết treo trên cây gỗ hình chữ thập chứ đừng tôn-
sùng cây giá hình chữ thập, làm
bằng gỗ!” (Xem Ralph Woodrow,
sđd tr. 53)
Nghe ý-kiến bạn bè trong Đạo từng lục/tìm
sử-liệu thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta nghe thêm lời vàng/ngọc của đấng thánh-hiền
trong Đạo, khi xưa từng nhắn-nhủ:
“Quả
vậy,
Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi thanh-tẩy,
mà là rao giảng Tin Mừng,
không phải bằng sự khôn-ngoan
của khoa ngôn-ngữ,
kẻo Thập-giá của Đức Kitô
bị ra hư không,
trống rỗng”.
(1 Côrinthô 1: 17)
Nghe nhủ rồi, nay mời bạn và tôi,
ta tìm về bài hát “Xa cách” của người nghệ-sĩ mang tên Tú Minh mà hát vang
làm kết-đoạn bài phiếm-luận lai rai, dài dài naỳ, mà rằng:
“Ngày mai xa cách rồi,
Còn đâu những tiếng cười? Tình yêu em vương vấn, Ðể làm lưu luyến bước chân người đi. Tiếng đàn em văng tiếng anh hòa theo, Bước nhảy nào theo bước anh dìu đưa. Những buổi chiều không có anh dạo chơi. Lòng em trống vắng, Anh ngày mai đã cách xa ngàn khơi. Em về đây với nỗi đau quạnh hiu, Nhớ nụ cười trong ánh mắt của anh. Làn môi êm đềm, Gửi đến anh mối tình mới chớm. Và trái tim em người yêu dấu. Anh ơi hãy biết rằng: Tình mình không chia cách. Cho dù xa vắng, người yêu anh hỡi!
Hãy
để cho lòng
Ðừng quên em nhé nơi xa nghìn trùng Lòng em vẫn dõi theo bóng hình người Biết bao giờ nguôi.
(Tú Minh – Xa Cách)
|
Hát những lời như: “Anh ơi hãy biết rằng: tình mình không
chia cách”… dù cho anh và em có hiểu sai/nghĩ nhầm về ý-nghĩa của việc
suy-tôn Thập-giá Đức Kitô đến thế nào đi nữa. Bởi có thế nào đi nữa, cũng hãy
nhớ lại lời ca của nghệ-sĩ ngoài đời vẫn cứ bảo, rằng: Lòng em vẫn dõi theo bóng hình người, biết bao giờ nguôi..” dù
anh có đeo trên ngực Thập-giá đích-thực của Đức Kitô, hay không.
Trần
Ngọc Mười Hai
Nay vẫn muốn tìm về
Nguồn sử thập-tự
của Đức Kitô,
ngàn năm vẫn thế.
|
No comments:
Post a Comment