Thursday, 28 March 2013

“Trong đôi mắt anh, em là tất cả,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ hai Phục sinh năm C 07/4/2013

“Trong đôi mắt anh, em là tất cả,”
“Là nguồn vui là, hạnh phúc anh dấu yêu.”
(Đức Huy - Như Đã Dấu Yêu)
( Ga 13: 35)
            Em là tất cả”, là “nguồn vui” và là “hạnh phúc anh dấu yêu”, ư? Lời ở trên, phải chăng là lời trần tình của vị truởng thượng trong Hội thánh vừa gửi đến toàn thể dân con nhà Đạo, như một nhắn nhủ rất chân tình?
            Nhắn nhủ này, nay còn gộp cả giòng chảy có ý/lời cũng rất nhẹ, ở bên dưới:

“Anh sẽ cố quên khung trời hoa mộng
Ngày hè bên em tình mình đến rất nhanh
Em sẽ cố quên lần đầu mình đến bên nhau
Nồng nàn như đã dấu yêu từ thưở nào.”
(Đức Huy – bđd)

            Vâng. Đúng thế. Đến với thánh hội để gửi gắm/nhắn nhủ những lời vàng của bậc chủ chăn, vẫn là động thái cũng rất tình, như bao giờ. Lời vàng từ bậc trưởng thượng có trách nhiệm chăn dắt hơn một tỷ người, vẫn hàm ngụ thêm một tình tiết rất da diết, như:

“Anh đến với em với tất cả tâm hồn
Em đến với anh với tất cả trái tim
Ta đến với nhau muộn màng cho đớn đau
Một lần cho mãi nhớ thương dài lâu.”
(Đức Huy – bđd)

Hôm nay đây, ở trời Tây bên đó, lại cũng có tình huống diễn tả tâm tình “đến với nhau muộn màng”, nhưng không “đớn đau”. Đến với nhau, một lần “cho mãi nhớ thương dài lâu.”
Hôm nay đây, sự kiện đăng quang Giáo Hoàng của Đức Phanxicô đệ Nhất hôm 19/3/2013 cũng đã có âm vang rộn ràng khắp chốn, được báo đài/truyền thông chuyển tải nhiều chi tiết, rất độc đáo:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất đã chúc mừng và khen ngợi 6,000 phóng viên được ủy nhiệm đến Rôma để tường thuật về cơ-mật-viện và cuộc bầu cử Giáo Hoàng. Ngài đã giải trừ họ bằng nụ cười mỉm nhẹ nhàng, dễ thương và chuyển đến các vị này một thông điệp sâu sắc, trực tiếp đi thẳng đến họ nhưng êm đềm. Đức Giáo Hoàng nói với họ, rằng:

“Vai trò của truyền thông đại chúng trong những năm gần đây đã phát triển rộng rãi đến độ nó trở thành phương tiện thiết yếu ngõ hầu cho thế giới biết về các sự kiện đã diễn biến trong lịch sử hiện giờ. Chính vì thế, mà tôi đây hôm nay, muốn gửi đến quý vị lời cảm tạ đặc biệt về sự việc quý vị đã tường trình theo qui cách chuyên nghiệp trong những ngày này. Quý vị đã thực sự việc rất đắc lực, phải thế không? Bởi, khi mọi con mắt của thế giới, chứ không chỉ mỗi người Công giáo, đều dồn về Thành Đô Vĩnh Cửu này và đặc biệt ở nơi này, ngay trung tâm đây, có mộ phần của thánh cả Phêrô ở bên dưới. Trong mấy tuần vừa qua, quý vị đã cung cấp thông tin về Đức Thánh Cha và Hội thánh, về các nghi lễ và truyền thống, về niềm tin yêu và trên hết mọi sự, về vai trò của Giáo Hoàng và các cộng sự viên.

Tôi đặc biệt biết ơn những vị đã chứng kiến và trình bày các sự kiện lịch sử Hội thánh theo cung cách nhạy bén, trực chỉ bối cảnh trong đó mọi người cần nhận rõ thế nào là niềm tin. Các sự kiện lịch sử hầu như lúc nào cũng đòi một sự diễn giải mang sắc thái mà nhiều lúc cũng chú trọng đến chiều kích của niềm tin. Các sự kiện trong Đạo chắc chắn không đến nỗi phức tạp hơn các biến cố chính trị và kinh tế. Nhưng nó cũng có sắc thái đặc biệt cần ta nhấn mạnh là đang theo kiểu không sẵn sàng đáp ứng với các phạm trù trần thế mà ta quen sử dụng. Thế nên, thật không dễ để ta diễn giải và thông chuyển các điều đó cho quảng đại quần chúng, vẫn đa dạng. Hội thánh, là thể chế mang tính con người lịch sử vốn bao hàm tất cả những chuyện như thế. Chí ít, là bản chất Hội thánh không nhất thiết mang tính cách chính trị, nhưng linh đạo…”

            Chừng như, khi đã thông truyền với giới truyền thông rồi, đấng bậc trưởng thượng lại đã có hứng để nói đôi điều cho báo/đài biết thêm:

“Một số bà con lại muốn biết tại sao đấng chủ quản Giáo phận Rôma thích được mọi người gọi mình bằng tên Phanxicô Đệ Nhất. Có người nghĩ: đó có thể là thánh Phanxicô Xaviê, hoặc Phanxicô đệ Lasan. Cũng có người liên tưởng đến thánh Phanxicô thành Assisi. Thôi thì, để tôi kể cho nghe chuyện xảy ra mới đây thôi.

Trong quá trình bầu bán, tôi ngồi cạnh Đức Tổng Giám Mục chủ quản Giáo phận Sao Paolô và vị Tổng quản thánh bộ Giáo sĩ là Hồng Y Claudio Hummes, ofm cả hai đều là bạn thân thiết của tôi.

Khi chuyện bầu bán đã đến hồi căng thẳng, vị này đã khích lệ tôi ghê lắm. Và, khi số phiếu đã đạt kết quả 2/3 rồi, mọi người bắt đầu vỗ tay vì đã có Giáo hoàng mới. Và, hồng y này đã tới quàng vai ôm hôn tôi rồi nói: “Này! đừng quên người nghèo đấy nhé!” Và, cụm từ “người nghèo”, “người nghèo” cứ thế lẩn quẩn bên tai tôi. Thế rồi, ngay lúc đó, tôi đã nghĩ đến thánh Phanxicô thành Assisi. Bởi, thánh-nhân là người của giới nghèo. Và cứ thế, trong lúc diễn tiến cuộc bầu cử cho đến phút chót, tôi vẫn nghĩ đến các cuộc chiến xảy ra ở nhiều nơi. Mà, thánh Phanxicô đích thực là người của hoà bình. Đó là sự thể về tên gọi Phanxicô thành Assisi đã đến với tâm trí tôi là như thế. Với tôi, ngài là người của giới nghèo, của hoà bình, tức một người luôn yêu thương bảo bọc mọi thụ tạo. Quý vị chắc thừa biết rằng ngày hôm nay, ta không có được quan hệ tốt đẹp với mọi thụ tạo, phải thế không? Và, thánh Phanxicô là người đem đến cho ta tinh thần hoà bình. Ôi vị thánh nghèo!…

Xem như thế, đủ biết là tôi rất muốn Hội thánh mình trở nên nghèo và sống cho người nghèo. Và sau đó, có người đến nói đôi câu diễu cợt bảo rằng: Không được. Ngài phải chọn tên Clêmentê mới được. Tại sao ư? Gọi ngài là Clêmentê thứ 15  như thế ngài sẽ trả được món nợ cho Đức Clêmentê thứ 14 là vị Giáo hoàng từng o ép Dòng Tên của ngài… Tóm lại, đó đều là chuyện diễu cợt cho vui thôi. Thật tình, tôi rất thương mến quý vị và cảm ơn quý vị về các công việc quý vị từng làm. Tôi cầu nguyện cho công việc của quý vị được lành mạnh và tạo nhiều hoa trái và rồi quý vị cũng sẽ hiểu tốt Phúc Âm của Chúa và biết rõ sự thực về cuộc sống của Hội thánh một cách dồi dào, phong phú.” (xem Sheila Liaugminas, MercatorNet 19/3/2013)

            Nói chuyện với truyền thông đại chúng là nói như thế. Dù có nói theo tư thế của đấng bậc trưởng thượng cả một thánh hội. Cũng thế, giới truyền thông đại chúng cũng từ một tư thế của dân gian quần chúng cũng thường tường trình mọi biến cố/sự kiện xảy ra ở đời hoặc trong Đạo. Và, một tay viết rất chuyên về tiểu sử các vị giáo hoàng là phóng viên George Weigel lại cũng nói và viết một cách chuyên nghiệp như chuyện bình thường, rất như sau:

“Đã có lần, Hồng y Bergoglio (tức đương kim Giáo hoàng Phanxicô Đệ Nhất) từng hạ bút viết lên những điều mà Đức Gioan Phaolô đệ Nhị và Đức Bênêđíchtô thứ 16 gọi là “Rao truyền Phúc Âm theo cung cách rất mới”, bằng giòng chảy suy tư nho nhỏ, như sau:  

Hội thánh ở thế kỷ 21 không thể tin tưởng vào thứ văn hoá “lang bạt kỳ hồ” của quần chúng hoặc cứ dựa vào với ký ức của một nền văn hoá thuyền thống ở Đạo Chúa, ngõ hầu rao truyền Phúc Âm theo đường lối khả dĩ chuyển đổi được cuộc sống cá nhân, sửa đổi các văn hoá và xã hội. Điều ta cần là: phải có cái gì đó sâu sắc hơn, phong phú hơn…”

Đó là thông điệp mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất sẽ đem đến với thế giới. Đó là Đạo Chúa tập trung vào Phúc Âm, tức thứ Đạo vẫn thách thức những người luôn cay cú vào thời hiện tại, cả những vị hiện đã chán chường những chuyện siêu hình học và những người đang thấy khô khan về linh đạo, để rồi lại sẽ khám phá ra mạo hiểm to lớn của con người khi họ sống nội tâm với những gì được đề cập trong trình thuật Kinh thánh, suốt nhiều thế kỷ…

Tắt một lời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất đã chính thức đăng quang vào ngày thứ Ba 19/3/2013 vừa rồi. Ngày đó, có thể là một ngày như mọi ngày đối với nhiều người. Tuy nhiên, gọi đó là ngày gì thì gọi, tự nó vẫn là một ngày rất mới đối với nhiều người, trên thế giới.” (xem Sheila Liaugminas, bđd)

            Thế đó là những điều được giới truyền thông ở nhà Đạo nói về Đạo và về đấng bậc trưởng thượng trong thánh Hội, tức Hội thánh rất Công giáo. Nói cho cùng, nói như nhà Đạo lại cũng quanh quẩn những điều như thế. Thế nhưng, là nghệ sĩ, có lẽ bạn và tôi, ta lại sẽ không nói nhiều và nói dài dài nhưng sẽ hát vnhững câu của người nghệ sĩ có ý/lời như sau:

“Trong đôi mắt anh em là tất cả.
Là niềm vui là mộng ước trong thoáng giây.
Em sẽ cố quên rằng mình đã đến trong nhau.
Nồng nàn như đã dấu yêu từ thưở nào.”
(Đức huy – bđd)

  nhà Đạo, có thể bạn hoặc tôi, ta sẽ không nói và hát như người nghệ sĩ, nhưng lại vẫn cứ kể về lời của Chúa được đấng thánh hiền ghi chép cũng như sau:

“Chính nơi điều này
mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta:
ấy là: anh em hãy có lòng yêu thương nhau.”
(Ga 13: 35)

            Thật ra thì, chưa chắc ý/lời của người nghệ sĩ cũng na ná giống Lời vàng của Đức Chúa khi Ngài nói về Tình Yêu quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con. Quan hệ ấy, vẫn là quan hệ của tình thân thương đùm bọc nhau, dù mình có ở địa vị nào.    

“Truyện rằng:
Thời võ sĩ Đạo tại Nhật, có kiếm khách nổi tiếng với đường kiếm tuyệt luân của mình. Ngoài ra, Ông còn có tài đánh cờ thuộc hàng thượng thặng. Sau một quãng đời tung hoành ngang dọc trong chốn giang hồ, vị kiếm khách này đã ngộ ra lý Thiền nên đã “rửa tay gác kiếm”, khoác áo tu hành. Qua nhiều năm dài tu hành tinh tấn, Ông đã trở thành một Thiền Sư được nhiều người biết đến về đạo hạnh.
Trong suốt thời gian đó, Ông cũng đã đem hết tâm huyết ra để nâng khả năng về Kiếm và Cờ của Ông lên hàng Kiếm Đạo và Kỳ Đạo. Vì vậy, tên tuổi của Ông ngày càng thêm lừng lẫy.Nhiều người đã đến xin học đạo với Ông và do đó Ông đã có nhiều môn đệ. Một ngày kia, có một chàng thanh niên đến ra mắt Ông để xin theo học Đạo. Vị Thiền Sư đã nhìn kỹ chàng thanh niên và nói :
- Ta chỉ nhận làm đệ tử những ai có đạo hạnh cao hoặc có khả năng khá về Kiếm hoặc Cờ. Ngươi tự xét thấy có khả năng nào trong các thứ ấy để có thể được ta thu nhận đây? Sau một thoáng suy nghĩ, chàng thanh niên vội đáp :
- Con có khả năng chơi Cờ; mặc dù không phải là hạng cao thủ nhưng con cũng đã từng hạ nhiều tay chơi Cờ giỏi có hạng. Liền đấy vị Thiền Sư lại hỏi :
- Vậy, bây giờ ngươi có muốn thi đấu về Cờ không?
- Dạ, thưa ! Con muốn thử. – Chàng thanh niên đáp.
Nghe vậy, vị Thiền sư vội đi vào phía sau Thiền viện và trong khoảnh khắc lại trở ra với một thiền sinh. Đó là một nhà sư đã có tuổi vẻ mặt hiền lành, phúc hậu và là một trong những thiền sinh rất giỏi về Cờ trong Thiền viện. Sau khi giới thiệu thiền sinh này với chàng thanh niên để thi đấu với nhau, ông đã nghiêm nghị nói:
- Trước khi bắt đầu cuộc đấu, Ta cần phải nói rõ: đây sẽ là một ván cờ “sinh tử”, người thua cuộc sẽ phải chết dưới lưỡi kiếm của ta. Các ngươi có đồng ý nguyên tắc này không? Cả hai đều tỏ vẻ đồng ý và ngồi xuống chiếc bàn có đặt sẵn bàn cờ để bắt đầu thi đấu, trong khi vị Thiền sư đặt thanh kiếm trên chiếc bàn nhỏ trước mặt rồi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên để giám sát cuộc đấu.
Thoạt tiên, khi bắt đầu cuộc đấu cả hai đều rất thận trọng khi đi cờ như để dò ý và tìm hiểu về khả năng cũng như lối chơi cờ của đối phương. Khoảng một lúc sau, với những bước vững chắc về thủ và linh động về công, vị thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào trạng thái bị động, phải lui về thế thủ. Chàng thanh niên đã tỏ ra bối rối trước sự tiến công dũng mãnh của đối phương. Chàng bỗng đâm ra lo ngại là không những sẽ bị thua cuộc và mất dịp được theo học Đạo mà còn bị mất mạng nữa. Do đó, chàng ta cố vận dụng trí óc để moi ra từ ký ức những thế cờ đã từng đánh và từng học được trước đây để mong chận bớt những nước cờ tấn công rất hiệu lực của đối phương.
Nhưng chàng ta chẳng nhớ ra được điều gì có thể xử dụng để thay đổi tình thế. Trong cơn lo lắng miên man, bất chợt chàng có ý nghĩ: hay là xử dụng những nước cờ “liều”, biết đâu sẽ chẳng có kết quả tốt. Nghĩ xong chàng liền áp dụng ngay. Đang ở trong thế thủ, bỗng bất thình lình chàng vùng lên tấn công quyết liệt. Những nước cờ “liều mạng” của chàng vừa đánh ra chẳng có một quy tắc căn bản nào cả, chỉ toàn là những nước cờ “thí” không ai dám sử dụng hay nghĩ đến trong khi chơi Cờ, nhất là trong một ván cờ sinh tử như thế này. Chỉ trong vài nước, thế cờ liều đột nhiên có kết quả. Nước cờ đang ở vào thế thủ bỗng chuyển sang thành thế công, bắt buộc đối thủ phải lui về chống đỡ.
Người thiền sinh cao cờ giờ đây bị đưa vào thế bị động vì những bước đi cờ lạ lùng, kỳ dị không thể tiên đoán được của chàng thanh niên liều mạng này. Chàng thanh niên đang ở vào thế “thượng phong”, chàng tấn công tới tấp để mong chiến thắng. Trong lúc hăng say để đạt chiến thắng đó, từ trong nội tâm của chàng bỗng nổi lên ý nghĩ: “Hôm nay, đến nơi này để xin học Đạo, phải đánh ván Cờ “sinh tử” để được nhập môn, rồi trong lúc nguy khốn vì bị tấn công dồn dập đã phải dùng thế cờ “liều mạng” để chuyển bại thành thắng, đưa đối phương vào thế thúc thủ. Trong chốc lát đây ván cờ sẽ kết thúc, người thiền sinh phúc hậu kia sẽ phải chết dưới lưỡi kiếm của Thầy. Người Thiền sinh đã mất gần suốt cuộc đời để học Đạo, tu hành tinh tấn, có được đạo hạnh cao; nay lại phải trở thành “cây thước” để đo tài người đến xin học Đạo, để rồi phải bỏ mạng vì kết quả của ván cờ. Thật là oan uổng… Trong khi những ý niệm đó hiện ra và đưa chàng thanh niên vào suy tư thì nước cờ của chàng đang đi bỗng nhiên có vẻ chậm lại và mất phần kiến hiệu.
Vì vậy, chỉ trong năm, ba nước cờ nguời thiền sinh đã tiến dần đến thế quân bình, rồi trong khoảnh khắc đã nắm lại được thế chủ động. Bây giờ đến lượt chàng thanh niên mất thế “thượng phong”.
Chỉ thêm vài nước, người thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào thế gần như không có lối thoát. Nhưng bất chợt, đột nhiên thế cờ của người thiền sinh bỗng như chậm lại và có vẻ hòa hoãn, ngập ngừng trong khi thế cờ của chàng thanh niên lại có phần chần chừ, bất định. Do đó, ván cờ đang ở vào giai đoạn sắp kết thúc bỗng nhiên như dừng hẳn lại. Nhưng cuối cùng, dù muốn dù không, ván Cờ cũng phải đi đến chỗ kết thúc. Vì vậy, người thiền sinh nhân hậu kia bắt buộc phải ra tay hạ thủ để kết thúc ván Cờ. Thế thắng, bại đã hiện ra trước mắt.
Đột nhiên, vị Thiền Sư bỗng vụt đứng phắt dậy, hét lên một tiếng thật to và rút kiếm ra khỏi vỏ.Mũi kiếm được chĩa ngay vào đỉnh đầu của chàng thanh niên. Nghe tiếng hét của Sư phụ, người thiền sinh vội cúi đầu, chấp tay niệm Phật. Với một đường kiếm tuyệt luân và thần tốc không thể ngờ được, thoáng một cái lưỡi kiếm của vị Thiền sư đã cạo nhẵn mái tóc trên đỉnh đầu của chàng thanh niên. Giờ đây, trông chàng thanh niên chẳng khác nào một người vừa được “thí phát” để “quy y”. Và vị Thiền sư đã cất tiếng nói với chàng thanh niên:
- Hôm nay, ta chính thức nhận con làm môn đệ.
Ván Cờ đã kết thúc trước khi nước cờ cuối cùng được đánh ra để quyết định việc thắng bại mà chiến thắng đang nằm trong tay của vị Thiền sinh nhân hậu. Là một bậc Thầy về Kiếm và Cờ, vị Thiền sư trong khi ngồi giám sát cuộc thi đấu đã thấy và hiểu rõ khả năng và lối chơi Cờ của đôi bên. Ngoài ra, là một Thiền sư đắc đạo, Ông đã đọc được từng tâm niệm khởi nghĩ của hai kẻ ngồi trước mặt, nên hiểu được tánh ý, đức hạnh của người môn đệ của mình và thấy rõ tâm hạnh của người thanh niên xa lạ kia; sau cùng Ông đã đi đến quyết định. Dưới mắt vị Thiền sư: ván cờ đang sắp sửa được kết thúc mà phần thắng lợi đang nghiêng về phía người thiền sinh, môn đệ của Ông, nhưng chàng thanh niên lại là kẻ chiến thắng.
Chàng trở thành kẻ chiến thắng vì đã đánh bại được cái ước vọng nhiều tham muốn và lòng háo thắng của chính mình, dẹp bỏ được cái “ngã” riêng tư để nghĩ đến người mà không màng đến sự an nguy của chính bản thân. Chàng đã tự chiến thắng mình bằng lòng nhân ái. Chàng thực sự là một kẻ chiến thắng trong một chiến công vô cùng oanh liệt và quả cảm đúng như lời dạy của Đức Phật: “Chiến thắng oanh liệt và dũng cảm nhất mà không gây đổ máu và thù hận là tự chiến thắng bản thân mình”.
Chàng thanh niên vô cùng xứng đáng được thu nhận để bái sư học Đạo và có cơ duyên để trở thành huynh đệ với  thiền sinh nhân hậu họ Triều kia. “(Tâm Ảnh kể)

Truyện kể thường như thế. Bao giờ cũng “có hậu” và gửi đến người đọc một thông điệp. Thông điệp hôm nay được người nghe chứ không phải người kể liên tưởng đến các đấng bậc dẫn dắt dân con nhà Đạo rất mô phạm, đạo mạo. Hy vọng, truyện kể đem đến cho người nghe ở đây đó thêm đôi điều vào quyết tâm sống Đạo, vì Đạo, mãi về sau.
Quyết tâm ấy, sẽ là tâm can quyết chí theo một con đường cho riêng mình. Lại cũng hy vọng: con Đường sẽ là Đạo, là Đường vẫn sáng chói ở khắp nơi.
Nghĩ thế rồi, nay bần đạo lại xin đề nghị người nghe và người kể truyện, ta ngâm nga hát theo ý/lời của nghệ sĩ từng diễn tả, rằng:

Trong đôi mắt anh, em là tất cả,”
“Là nguồn vui là, hạnh phúc anh dấu yêu.
Nhưng anh ước gì,
Mình gặp nhau lúc em chưa ràng buộc
và anh chưa thuộc về ai.”
(Đức Huy - Như Đã Dấu Yêu)

Vâng. khi “chưa thuộc về ai”, thì anh có nói câu “Như đã dấu yêu”, thật cũng dễ. Và khi anh đã trở thành đấng bậc trưởng thượng ở đâu đó, có lẽ cũng khó. Khó, vì không chỉ mỗi dấu yêu một mình em thôi, mà là nhiều người, rất nhiều. Ở nhiều nơi, từ chân trời, góc biển đến thôn làng bé nhỏ của quê tôi, quê anh quê chị, rất tế nhị và đẹp đẽ.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng cứ xin nói lời
“Như đã dấu yêu”
với hết mọi người,
dù không là trưởng thượng.  

 

.

Saturday, 23 March 2013

“Với biển cả anh là thủy thủ...ù u,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần Phục Sinh Năm C 31-03-2013
“Với biển cả anh là thủy thủ...ù u,”
“Với lòng nàng anh là hoàng tử...ừ ư!
“Nhớ chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư…ừ ư!
“Và chuyện thần tiên bao thế hệ.
(Y Vũ – Thủy Thủvà Biển Cả)

(Cv 15: 25)
“Thủy thủ và Biển Cả”. “Lòng Nàng và Hoàng Tử”, ôi! Lời ca nghe rất quen, từ thập niên khi ấy, lúc bần đạo vẫn còn là tay học trò thời trung học, hát hò tuy không nhiều, nhưng hát rồi lại quậy phá thật không thiếu. Quậy và phá, bất kể ông/bà thầy có ngồi đó kể “chuyện thần tiên bao thế hệ”, hay mỗi chuyện “ngàn đêm xứ Ba Tư”, làm bần đạo mải mê với những âm thanh và nhịp điệu những là “ù u!” hay “ừ ư!” của người ca sĩ một thời nổi tiếng, rất Hùng Cường.
Đó là chuyệnđời, của người học trò thời trung học. Còn chuyện Đạo của nhà thờ khi nghe kểvề con thuyền Hội thánh, vẫn chòng chành, bần đạo lại nhớ đến lời khẳng định của vị đứng đầu từng lèo lái “con thuyền Hội thánh”, rất như sau:
“Tuy nhiên, trước một thế giới có nhiều đổi thay nhanh chóng đang bịrúng động bởi những vấn nạn có liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin, muốn lèo lái con thuyền Thánh Phêrô trao cũng như việc rao giảng Tin Mừng, cả năng lực trí óc lẫn thể xác đều cần thiết.” (trích lời của Đức Bênêđíchtô 16 khi từnhiệm chức vụ Giáo Hoàng, hôm 11/2/2013 ở La Mã)
“Lèo lái Con thuyền thánh Phêrô trao”, “những vấn nạn có liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin”, phải chăng hai vấn đề này là một? Phải chăng đó là chuyện thần tiên bao thế hệ? Hoặc, chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư? Thôi thì, chuyện gì thì chuyện, bạn và tôi, ta hãy cứ nghe người nghệ sĩ nhạc kíchđộng thời đó, vẫn hát tiếp:
“Cho anh bao giây phút say sưa,
cho anh thêu muôn giấc mơ hoa,
cho anh luôn yêu đời hải hồ.”
(Y Vũ – bđd)
Say sưa”, “thêu giấc mơ hoa” hay “yêu đời hải hồ”, nhất nhất là lời người nghệ sĩ viết nhạc không nản lòng trước phong ba trên biển cả! Bởi, anh vẫn là thủy thủ, tức người lèo lái con thuyền mình có những dặn dò như sau:
“Càng đi xa anh càng nhớ em
Trước đại dương ngát xanh muôn trùng
Kìa ngư nhân in hình trên sóng
Bao nàng công chúa dưới thâm cung”
(Y Vũ – bđd)
Nghe câu trên, bần đạo chỉ nhớ đến câu hát nhại mình từng “chế” để cảnh báo mọi người, rằng: “Càng đi xa anh càng tốn xăng…” Hát xong, lại nhớ ra rằng: đã hết thời học trò chuyên quậy phá hay hát nhại để rồi người học trò nhỏ đó tự mời mình về với các vấn đề nghiêm trang, nghiêm túc để còn viết.
Vâng. Viết và lách, luôn là chuyện nghiêm túc, dù bần đạo chỉ muốn viết những chuyện nhà Đạo qua phong cách của một phiếm “loạn”, mà thôi. Vậy thì, xin bạn hãy “xá” cho bần đạo đây một ân huệ mà năm nay, tôi và bạn sẽ nhận được khá nhiều, do có “sự kiện thánh” này khác với “phép lành” rất mới từ Đức Giáo Chủ tân cử, hôm 14/3/2013 lúc 7 giờ sángĐông Bộ Úc Châu này.
Thanh minh thế rồi, nay xin bà con độc giả cho phép bần đạo được “lào khào” thêm đôi ba chuyện về “con thuyền Hội thánh” thời hiện tại, để xem tình hình “biển cả và thủy thủ” hoặc“Lòng nàng và hoàng tử” nay ra sao.
Trước hết là “ý/lời”của Đức Bênêđíchtô thứ 16, từng phát biểu trong buổi triều yết cuối cùng của ngài hôm 27/2/2013, như sau:
“Tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và biết rằng thuyền Hội thánh không phải là thuyền của tôi, không phải là thuyền của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và, Chúa sẽ không để nó chìm.” (PhạmXuânKhôi dịch đăng trong LegioMariae@googlegroups.com 01/3/2013)
Thật ra, chuyện “con thuyền Hội thánh” là của ai? Hoạt động thế nào? Có chòng chành hoặc rò rỉ đầy những nước không? vẫn không là chuyện cần bàn. Chuyện nên bàn và đáng bàn, là xem thành viên Hội thánh hoặc giới bàng quan ở ngoài nghĩthế nào về “thuyền ấy” trong hiện tại? Và, người lèo lái con “thuyền” này sẽlàm gì để vững lái? Đó có thể là đề tài sẽ kéo theo nhiều suy tư, bàn bạc. Và, cảm thông với “con thuyền” có vị thuyền trưởng mới, cũng nên chuyển cho nhauđôi ba nhận định ở đâu đó.
Trước nhất là Tác giảMarcus Roberts của tờ MercatorNet có ý kiến như sau:
“Điều mà Hội thánh Công giáo hôm nay sẽ nhớ nhiều nhất, đó là: lần đầu tiên trong lịch sử Đạo đã có vị kế nhiệm thánh Phêrô xuất từ Nam Mỹ. Điều này đem lại cho người dân ở châu lục điạ này tâm tư khởi sắc, rất hưng phấn. Trong các tin rộn lên từ khắp nơi, tưởng cũng nên nhắc đến bản tin từ Northern Voices Online vào trước giờ “G” lịch sử. Nói chung, bản tin cho thấy: ở phần đất trọng tâm của Đạo, các thành viên chuyên chăm trong Đạo nay không còn tập trung ở Châu Âu như trước, mà là Châu Phi và Nam Mỹ.
Bài báo còn viết tiếp: “Số người đi Đạo và giữ Đạo ở Tây Âu nay giảm sút khá trầm trọng so với mọi thời. Trong khi đó, ở châu Phi, trong thời gian từ năm 1978 đến 2007, số người Công giáo ở đây đang từ 55 triệu nay lên đến 176 triệu nguời. Rõ ràng là, Giáo hội Công giáo nay có được số người trở về với Đạo nhiều hơn so với người Hồi giáo và người thổ dân chỉ tin vào chuyện phù phép lẫn hồn linh thú dữ thôi. Tuy nhiên, châu Mỹ Latinh nay có số người đi Đạo tập trung nhiều nhất thế giới: 42% người Công Giáo sống ở vùng này, trong đó Ba Tây có số người Công giáo thuần thành đông nhất thế giới.
Đối lại tình trrạng này, số người Công Giáo ở châu Âu ngày càng giảm sútđến mức khiếp đảm. Người ở lại, cũng đã kém đi phần “sốt sắng”, nói theo nghĩa thường xuyên đi nhà thờ/nhà thánh mỗi tuần.
Qua thống kê, nhiều người còn thấy: vừa qua công cuộc khảo sát nghiên cứu mang tên “Diễn Đàn ở Bàn Quì” về chuyện Tôn giáo và Đời sống tổ chức tại Tây Ban Nha, thì: tại nước này, chỉ có 20% người Tây Ban Nha là còn đi nhà thờ/nhà thánh mỗi tuần một lần. Ở Đức, xứ sở của Đức Bênêđíchtô thứ 16, thì: chỉ một phần 6 số người ở nước này, có khi lại ít hơn, là còn bận tâm đi nhà thờ nhà thánh. Trong khi đó, ở Pháp, chỉ đếm được mỗi 10% thôi. Thống kê Toà Thánh cho biết: châu Âu là đất miền duy nhất trên thế giới từng chứng kiến sự giảm sút sốngười nhận mình là Công giáo tính từ thập niên 1990 đến 2010. Thời gian này, sốngười đi Đạo trên toàn thế giới đã gia tăng 30% tức lên đến 1tỷ 200 triệu người còn gắn bó với Đạo. Xem thế thì, châu Âu nay chỉ có 23.8% người tự nhận là Công giáo so với thế giới.
Điều này khiến nhiều người nghĩ đến tương lai cũng rất gần, khi toàn châu Âu cũng giống như tình trạng của Phi Châu, Ai Cập và Syria khi trước, từngđược coi là cái nôi của Đạo trong quá khứ. Nhưng, nay: giới Hồi giáo mộ đạo sẽ thếchỗ ở đó, trong khi Đạo Công giáo ở châu Âu được thay thế bằng các chủ thuyết tương đối, cá nhân vị kỷ, chế độ phàm tục và chung cuộc rồi ra cũng sẽ đi đến giai đoạn tự hủy. Mọi người sẽ nhận ra động thái trái nghịch sẽ xảy đến với châu này, là: tình trạng các linh mục thừa sai người châu Phi hay Nam Mỹ nay sẽquay ngược về với nôi của Đạo để rao truyền Đạo, trở lại. Cũng nên thêm đôi chuyện bên lề, bảo rằng: chuyện này đã và đang xảy ra ở Tân Tây Lan, nơi đó một số rấtđông các linh mục người Philíppin, Việt Nam, Ấn Độ và Nam Hàn tìm cách ngăn chặn tình trạng thuyết ngoại đạo, vật chất đang lan tràn chiếm đất ở xứ sở này.”(xem Marcus Roberts, Pope Francis and the Church He Must Shepherd, MercatorNet 14/3/2013)
Nhận định và lời cảnh báo của người trong cuộc, thì như thế. Còn người ngoài cuộc thì sao?
Trước nhất, hãy hoà mình vào với lời nhạc, vẫn như sau:
“Em ơi! ảo hình kia lôi cuốn,
Nhưng, anh đã nói anh yêu em.
Thì, ngàn kiếp vẫn không thay lòng.”
(Y Vũ – bđd)
Chao ôi, là lời lẽ! Những lời và lẽ nghe cũng dễ: “Ảo hình lôi cuốn”, nhưng “anh nói vẫn yêu em”, thì “ngàn kiếp không thay lòng”.Đó, là lời của “thủy thủ” với “biển cả”, và của “hoàng tử với lòng nàng”. Con thuyền Hội thánh hôm nay, cũng đang có “ảo hình kia lôi cuốn”, với những “chòng chành” sóng nước, và ọp ẹp rò rỉ khá tư bề! Vậy thì, vị thuyền trưởng mới cứng, sẽ ra sao? Vì này là ai thế? Ngài quyết vững lái đến thế nào?
Để trả lời, truyền thông/báo đài Đạo và đời, mấy hôm nay, đà lên tiếng. Một trong các tiếng nói được nêu lên từ người đi Đạo được ghi nhận, như sau:
“Trong lúc toàn thế giới đang hướng mắt về phía ống khói trên nóc nhà thờ Sistine ởRôma, mọi người đều thấy chú Hải âu nọ vừa đáp nhẹ lên trên đó. Tức thì, có nhà báo vội viết đôi giòng trên Twitter kể về hiện tượng này, bằng những câu: hìnhảnh chú chim hải âu trụ trên nắp ống khói chừng như tiên đoán điều gì đó. Điều trước tiên được liên kết với vị Giáo hoàng tương lai sẽ là người yêu thiên nhiên và chim muông một cách rất đặc biệt, đâu biết được.”
Không lâu sau đó, lớp khói trắng bốc phả dưới chân chú hải âu nọ cho thấy Hồng y đoàn cũng đã biết là Hội thánh Chúa đang cần gì ở vào giai đoạn đặc thù của lịch sử.Và, một hồng y thành viên Dòng Tên rất khiêm tốn, vừa đắc cử. Tên ngài là Jorge Mario Bergoglio, Tổng giám mục 76 tuổi của thành Buenos Aires, nước Argentinađích thị là Giáo hoàng đầu tiên của Nam Mỹ đã lấy tên của vị thánh khó nghèo thành Assisi, là Phanxicô.
Theo phóng viên John Allen, là nhà phân tích tình hình của Vaticăng trên đài CNN, thì: Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô Đệ Nhất là con của một công nhân đường sắt người Ý từng qua Argentinalập nghiệp. Cũng theo phóng viên Allen này, thì: Đức Tân Giáo Hoàng này nổi tiếng là con người bình dị. Ngài chọn lối sống ở căn hộ nhỏ chứ không phải toà nhà dành cho Tổng Giám Mục. Khi đi làm, ngài lại chọn phương tiện công cộng, như xe buýt rất thoải mái. Phóng viên Allen có viết: Giáo hoàng Phanxicô từng nổi danh là “tiếng nói của người nghèo vì người nghèo. Khi chọn tên vị thánh nổi tiếng khó nghèo làm tên mình, Đức Tân Giáo Hoàng muốn gửi đi khắp nơi một dấu hiệu cho thấy triều đại Giáo hoàng của ngài cũng sẽ khác thường. Danh xưng Phanxicô tượng trưng cho sự nghèo khó, khiêm hạ, giản đơn, quyết tái thiết Hội thánh Công giáo, khắp hoàn cầu.” (xem Sheila Liaugminas, We Have a Pope, MercatorNet 14/3/2013)
Thế đó là tường trình về cuộc bầu bán nhân vật chóp bu trong Đạo vừa đắc cử. Nhưng, câu hỏi được đặt ra ngay sau khi có kết quả nhưvừa rồi, là: Đức Tân Giáo Hoàng là ai thế? Tác giả chuyên viết tiểu sử các vịgiáo hoàng là Geoge Weigel của đài NBC từng phân tích: các sự việc xảy ra trong tuần qua với Hội thánh Công giáo đã gọi sự kiện về đức tân Giáo hoàng lấy tên Phanxicô Đệ Nhất là “thời khắc bản lề” của Hội thánh hôm nay. Thời khắc này, là thời của kỷ nguyên mới về cải cách ở thế kỷ thứ 21 này, trong đó Đạo Chúa sẽchuyên giảng rao Lời của Ngài bằng cách đưa ra bộ mặt mới cho thế giới.
Phóng viên George Weigel còn tường trình về đài NBC rằng: vị tân Giáo hoàng này là“con người quả cảm”. Ngài sẽ là bậc vĩ nhân chuyên bảo vệ Đạo trên khắp mọi miền tận cùng của thế giới. Triều đại Giáo hoàng hôm nay đã hướng về với thếgiới mới. Hội thánh nay đã có vị Giáo hoàng mới với tên gọi cũng rất mới. Theo phóng viên này, thì: nội tên gọi của vị Tân cử thôi cũng đã nói lên quyết tâm của Hội thánh đối với người nghèo trên thế giới. Quyết tâm đây, là quyết một lòng yêu thương độ lượng trong một thế giới đang cần nhiều sự chữa lành.
Và cuối cùng, chủ trương nằm gọn nơi danh xưng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất khi được bầu là “miserando atque eligendo” (tức: tuy thấp hèn nhưng lại đã được chọn) đã nói lên tình tự mình đã có khi bước lên ngai vị Giáo hoàng của Hội thánh rất toàn cầu. Tắt một lời, một ngày mới đã ló rạng. Và, một kỷ nguyên mới đã khởi đầu cho Giáo hội.
Xem như thế, chắc chắn là: từ nay, toàn thể thế giới sẽ hướng về Hội thánh Chúa nhiều hơn để xem vị chủ trì Giáo triều La Mã có thực hiện được những điều mình ước nguyện không. Chắc chắn là, từ nay, mọi cặp mắt và đôi tai của những người trong/ngoài Hội thánh sẽ đổ dồn về Rôma để chứng kiến sự việc còn xảy ra với thế giới, và Giáo hội.
Thế giới hôm nay, như phóng viên George Weigel nói: đang cần đến vĩ nhân khả dĩ làm được công việc cao cả là chữa lành, tức: cứu vớt nhiều người cả ở trong lẫn bên ngoài triều thần La Mã, tượng trưng cho thế giới nhà Đạo. Việc này làm cho bạn và tôi, ta lại nhớ vềtruyện kể từng nói đến vai trò chủ chốt của các đấng “tu mi nam tử” được gán cho mình, ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ.
Truyện kể bắt đầu bằng câu hỏi nhưsau:
“Tại sao anh muốn lấy vợ? Tức là: tại sao anh lại muốn làm chủ gia đình để rồi, sau này, lại sẽ làm chủ xã hội? Câu trả lời rất đơn giản, chỉ như sau: vì anh muốn chứng minh rằng mình thuộc loại người dũng cảm dám cứu vớt cả và nhân loại. Việc này cũng dễ hiểu, bởi đàn ông nào từ lúc sinh ra mà chẳng được gán cho trách nhiệm lớn lao và mơ ước cứu nhân loại, là: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ!”
Muốn làm việc lớn, trước hết phải làm việc nhỏ, là: cưới vợ. Bởi, khi cưới vợ, anhđã cứu được hai mạng người, đó là cha vợ và mẹ vợ. Vì hai vị này khi có con gáiđều đã nơm nớp lo sợ con mình bị ế, hay như người ta thường nói “hũ mắm treođầu giường”, như vậy, khi cưới vợ anh đã cứu được hai mạng người, ngày đêm sống trong âu lo, có thể đau tim chết bất cứ lúc nào, không hay.
Tuy nhiên, tui cũng khuyên: cứu nhân loại là việc vô cùng khó khăn. Vậy nên, đàn ông thường mắc kẹt ngay ở bước đầu, nghĩa là cưới vợ. Sau khi lấy vợ, anh lại phải loay hoay cứu bản thân mình trước… đã!
Nghĩthế rồi, bạn bè lại phản hồi thêm một truyện kể cũng na ná thế này:

Có phải anh bảo: Cưới vợ là vì nghĩa khíư? Thế, anh có đọc truyện chưởng Cổ Long không? Ông Cổ Long ổng nói: “Hôn nhân giống như nghĩa khí, biết là chuyện không đáng làm nhưng không thể không làm.”Thấy không? Đám cưới nào cũng diễn ra rất nhanh,đa số khách đến đều vội vã ăn, vội vã mừng, ngấm ngầm chia buồn với nhà trai, hân hoan chia vui với nhà gái, rồi hấp tấp xin phép cáo lui, chưa đầy 2 hay 3 tiếng, xong, là cái nhà hàng nó lạnh tanh.

Duy chỉ có cha mẹ cô dâu là tương đối thong thả, đi lại mang vẻ rầu rĩ nhưng sâu xa tự thấy sảng khoái thanh thản, ông bà hễ thấy ai ở nhà trai là chân thành lắp bắp cám ơn rối rít. Không phải là chuyện ngẫu nhiên mà tất cả đàn ông trong ngày cưới đều phảng phất có vẻ của kẻ trượng phu đại hiệp, đứng thẳng người, hiên ngang đón khách.
Tuy nhiên làm người anh hùng nghĩa khí thường hay chết sớm, cho nên tôi có lời khuyên:
Sống hùng sống mạnh sống chẳng dai
Sống hèn sống nhát lai rai sống hoài.” (Truyện kể trích trên mạng, mới vừa đây)
Truyện kể đọc rồi, hẳn người đọc hoặc người nghe, cũng sẽ có phản ứng rất khác nhau, Người thì đồng ý, kẻ thì không. Nhưng dù thế, hãy cứ nghe người nghệ sĩ ở trên vẫn cứ nhắc nhởbằng lời ca câu hát, rất như sau:
“Càng đi xa, anh càng nhớ em!
Trướcđại dương ngát xanh muôn trùng.
Kìa ngư nhân in hình trên sóng.
Bao nàng công chúa dưới thâm cung…”
(Y Vũ – bđd)
“Càng nhớ anh”, “trước đại dương”,ôi chao, là chữ nghĩa rất gọi “anh”. Nếu chữ này, mà lại viết hoa, thì có lẽngười em “đại dương” kia sẽ lại nhớ mãi lời lẽ của đấng thánh hiền, từng dặn dò:
“Chúng tôi đã đồng tâm nhất trí
quyết định chọn một số đại biểu,
và phái họ đến với anh em,
cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi
là ông Banaba và ông Phaolô,
những người đã cống hiến cuộc đời
vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
(Cv 15: 25-26)
Nếu thế thì, dù vĩ nhân vừa mới nổi có là vịGiáo chủ vừa đắc cử, chắc chắn vị ấy sẽ còn nhớ mãi Lời Ngài. Bởi, Lời không chỉ là âm thanh xuất từ môi miệng của Chúa, mà thôi; nhưng Lời lại chính là Ngài. Là, Đức Chúa. Và, Lời đã thành xác phàm để sống đời nghèo hèn làm gương cho muôn dân. Và, Lời sẽ lèo lái con thuyền của thánh hội. Lời, còn là thực thểrất thực tế vẫn cứ sống rất sinh động trong thánh hội. Lời, chính là Thần Khí Chúa tỏ hiện nơi thánh hội, đã mang đủ tính chất nghèo hèn, ngay từ đầu.
Trần Ngọc Mười Hai
Rất vui và cũng mừng
khi Hội thánh vừa có vị chủ chăn rất mới
đã nhớ đến người nghèo.
Sống rất nghèo, nhưng không hèn.