Sunday 26 June 2016

“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,”



Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 14 mùa thường niên C 03/7/2016

“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,”
“Ngỡ như đất trời giao hòa.
Và tai nghe thấy một rừng âm vang
khúc hát dâng đời ta.”
(Nhạc ngoại quốc – Lời Việt: Nỗi Đau Dịu Dàng)
(Mt 23: 11-12)

Mấy hôm nay, gặp ngày trời mây trong sáng, mà lại nghe anh/chị hát khúc “thiên tình ca” như thế thì bần đạo đây thấy đời bỗng nhiên tuyệt đẹp. Đẹp nhiều và đẹp lắm, chí ít là khi thấy câu hát những ca-tụng “đất trời giao-hoà”, “một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta”, nữa.  

Chả nói giấu gì bạn đọc và cả những bạn không chịu đọc, rằng thì là: đất trời của ta, ít khi nào chịu giao hoà, hết ráo trọi. Và, rừng của ta cũng ít khi “âm vang khúc hát dâng đời” người và đời ta, bao giờ hết. Gọi là ít khi nghe như thế, rồi lại nghe câu hát tiếp những lời “bóp nát” rất như sau:

“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”
“Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm da.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

Nghe nhạc ngoại quốc có giòng nhạc thong thả rất êm ả chứ đâu “lã chã” đầy những lời “bóp nát sức sống”, đến như thế. May thay! Mấy câu tiếp nghe cũng không đến nỗi nào, như sau:

Cỏ cây muôn loại đều hân hoan
Nhưng riêng em tưởng như anh
Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em,
giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê,
và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm dạ.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song- bđd)

Kể lể hơi dài giòng như thế, là để dẫn nhập đôi câu quyết bảo rằng: trong đời người, và cả đời nhà Đạo, lại có nhiều điều nghe qua bỗng thấy như bị “bóp nát sức sống” của mọi người. Thôi thì, đã trót nghe nhạc rồi, xin cứ tiếp tục nghe cho hết, rồi hẵng tính. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp cho hết nhưng câu như:

Rồi khi cơn sốt đun tình tôi
Bỗng theo cõi nhạc xa vời
Và anh lên tiếng gọi hồn em
đang khóc bên con vực sâu
Hãy mau lên đường về uyên uyến
Khi nghe thân xác nài van

Giờ đây ai hát thiên tình ca
Khiến tôi thêm nhiều xa lạ
Lời ca âu yếm vỗ về
êm nhưng vẫn thấy xa thật xa
Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên
Tim em vẫn còn nghe.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

Nghe thế rồi, nay mời bạn và mơi tôi ta đi vào chuyện Đạo, có những vụ việc rất “lạo xạo” như sau:

Vừa rồi, bần đạo gặp được ông bạn già tên là Nguyễn Văn Tạ, cựu sinh viên “Giáo Hoàng Học Viện ĐàLạt” đến gần bên gạn hỏi: Này, anh đã đọc bài của tác giả Ralph Woodrow hỏi rằng: Ông Phêrô có là vị Giáo Hoàng La Mã đâu tiên không? Anh thấy bài ấy thế nào?

Nghe hỏi, bần-đạo thấy bỗng dưng chột dạ, bèn lần lữa, khất hẹn với anh bạn già rằng thì là: để tớ kiếm giờ đọc xong, rồi sẽ tính. Nói của đáng, đọc rồi mới thấy: Ôi thôi rồi, nồi xôi! Bài viết xem ra: rất ư là … nổi cộm. Thôi thì, xin bạn và tôi cứ để bần đạo đây tìm dịp thông và dịch cho chuẩn-xác rồi sẽ thưa thốt sau.

Thôi thì, quí bạn đang đọc những hàng chữ này nếu nghe có chói tai hoặc trái khuấy thế nào cũng cứ xin để đó, hạ hồi phân-giải nhé. Nhưng, trước khi dịch và thuật cho thông, xin bầu bạn hãy cùng tôi nghe thêm câu truyện kể khá đáng kể, để cho “nhẹ lòng tướng quân”, rồi sẽ tính.

Truyện kể, là kể những điều như sau:

Ngày 31/5/2016 vừa qua, tại bệnh viện Koln ở Đức đã có một trái tim nhỏ ngừng đập ở tuổi 77. Một người ra đi ở tuổi gọi là thất thập cổ lai hy, điều đó có gì để gây xôn xao! Vì trên hành tinh này mỗi ngày có hơn 150,000 người từ trần với nhiều nguyên nhân!
            Nhưng đây là một tin gây rúng động cho nhiều cộng đồng, đặc biệt là người VN di tản hiện đang sống tại Đức, vì người đó  là Tiến sỹ Rupert Nudeck, một nhà thần học Thiên-chúa-giáo, một nhà báo, nhà hoạt động xã hội.
            Rupert Nudeck, ông là ai?
            Thú thật trước đây, Anh Tri đây cũng chưa biết đến tính danh của ông, nhưng tình cờ  nhận một email của một cộng đồng người Việt ở Đức đang kêu gọi nhau đến dự lễ cầu nguyện ông vào ngày 14/6/2016, tôi mới tò mò tìm hiểu tại sao  một người Đức qua đời mà cộng đồng người Việt lại xôn xao báo tin và kêu gọi nhau đến nơi sẽ an táng ông để dự lễ tưởng niệm vậy!
            Càng tìm hiểu về ông tôi lại càng say mê và ngưỡng mộ về những gì ông đã làm cho đồng bào của tôi trong thập niên1970s, khi hàng ngày ở miền Nam có hàng trăm người vượt biển đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ!
            Thời đó, do phương tiện truyền thông bị hạn chế, cũng như tin tức về người vuợt biên rất nhạy cảm theo quan điểm của nhà cầm quyền, nói chung chưa có face book, Twitter… như thời bây giờ! Nên những vụ đắm tàu, cướp biển tấn công, hãm hiếp người di tản, một số nước châu Á cho tàu quân đội ra xua đuổi tàu chở thuyền nhân khi vào lãnh hải của họ... ít người biết đến!
            Nhưng lúc đó, ở các nước phương Tây tin tức này là thời sự, nó cũng như cảnh ta đang xem trên tivi mới đây về những  người dân Somali, Lybia vượt biên chết hàng loạt trên biển! Tình cảnh thê lương cùng đường bị xua đuổi  như tội đồ đã đánh động trái tim của tiến sỹ Rupert Nudert. Nó thúc đẩy ông dấn thân hành- động bằng cách kêu gọi chính quyền Đức, cộng đồng xã hội,tôn giáo, các  bằng hữu hãy cứu  giúp những thuyền nhân VN đang bị nạn như thuyền hết xăng dầu, lương thực,  chết máy,  bị cướp bóc đang lênh đênh trên biển! 
            Khi bị nhà cầm quyền từ chối, ông không nản lòng mà đã cầm cố ngôi nhà của mình, kêu gọi bạn bè thân nhân góp tiền của để đóng thuyền ra khơi cứu người Việt Nam! Câu chuyện về người có trái tim nhân ái này được ông Franz Alt, sau này là giám đốc đài truyền hình Baden kể lại vô cùng ấn tượng đối với tôi: “Ông ấy gõ cửa xin tôi phát lời kêu gọi cộng-đồng, tôi bảo không thể làm thế được, vì một ý-kiến cá-nhân!". Ông ấy kêu gào: "Chẳng lẽ chúng ta cứ nhìn thảm- cảnh như vậy mỗi ngày sao?” tôi trả lời: "Tôi có thể làm được gì?” ông trả lời: “Tôi có thể cầm-cố ngôi nhà đang ở để khởi-sự cho chuyến đi biển”. Tôi đành nhượng bộ trước quyết tâm của con người này và cho ông ấy 2 phút để phát song!!!
            Đúng vậy, sau lời kêu gọi trên đài, chỉ 3 ngày sau cả nước Đức đã hưởng ứng với số tiền đóng góp lên đến 1.3 triệu mác (tiền Đức thời bấy giờ)- để thuê chiếc tàu CAP ANAMOUR đầu tiên ra khơi vào ngày 9/8/1979 với sứ mệnh cao cả là cứu vớt người VN gặp nguy khốn trên biển Đông! Tiếp theo đó, là thêm 2 chiếc Cap Anamur được hạ thủy nhờ vào sự ủng hộ của những người có lòng từ tâm!
            Trong thời gian 7 năm hoạt động (1979-1986) tổ chức Cap Anamour đã cứu vớt được 11.300 người vượt biển trên 223 chiếc ghe/thuyền và hầu hết được định cư tại nước Đức! Để làm được việc này chính ông, cùng với nhà văn Heinrich Boll, đoạt giải Nobel năm 1972, cùng thân hữu đã thuyết phục thành công chính quyền Đức cho thuyền nhân Việt Nam được nhập-cư vào nước này! Được biết, ngoài việc cứu giúp cho người Việt; tổ chức do ông sáng lập đã có nhiều hoạt động giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc tại Somali, châu Phi, Afganistan, Pakistan. Để tỏ lòng trân trọng công lao to lớn của ông mà nhà cầm quyền Đức đã tặng ông huân-chương Chevalier cao quý, nhưng ông đã hai lần từ chối nó.
            Chính ông đã đánh động lương tâm nhiều người, trong đó có người Mỹ và người Việt Nam sống tại Mỹ! Năm 1979, chính tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã ra lệnh cho 5 tuần-dương-hạm đi cứu-vớt các thuyền-nhân và cho họ được nhập cư vào đất Mỹ!
            Hãy tưởng tượng, từ 11.300 người suốt từ năm 1979 đến nay cũng gần 40 năm, số người như thế đã tăng lên biết bao nhiêu? Nếu tính luôn việc họ bảo-lãnh người thân từ Việt Nam sang, thì hẳn có hàng chục ngàn số phận đã đổi thay từ cơ-duyên này!
            14/6 năm nay, sẽ diễn ra lễ tưởng-niệm một con người vĩ-đại, nói như lời của ông thị-trưởng thành-phố nơi ông qua đời, rằng: "ông Rupert Nudeck đã làm công việc cao-cả của con người, là cứu- vớt nhiều mạng người. Nước Đức rất tự-hào về ông!"
            Sẽ còn nhiều người Việt-Nam và con cháu họ chịu ơn cứu-tử của ông từ khắp nơi trên nước Đức đến dự lễ tưởng-niệm! Sẽ có nhiều lời tri ân, cảm phục tấm-lòng nhân ái của ông! Riêng tôi, dù không là thuyền nhân trên các chuyến tàu thập-tử-nhất-sinh đó, tôi vẫn ngưỡng mộ ông như một nhân cách cao quý, một trái tim vĩ đại! Ông sẽ sống mãi trong lòng của những người tử tế biết trân quý tinh cảm, có lòng nhớ! 
Tôi cũng muốn chia xẻ thêm tin về thời niên thiếu của ông: Lúc còn bé, thời đệ nhị thế chiến, ông và gia đình đã nhỡ một chuyến tàu tỵ nạn và chuyến tàu xấu số đó trúng thuỷ lôi của hồng quân Liên-xô chìm ngoài biển mang theo hơn 9000 người. Có lẽ biến cố này đã gây ấn tượng lớn với cậu để khi trưởng thành nó đã thôi thúc ông làm nghĩa cử gì đó cho nạn-nhân trên biển cả chăng?
            Vĩnh-biệt tiến-sỹ Rupert Nudeck! Ông đã ra đi về nơi thanh-nhàn sau khi làm được công việc tốt đẹp của Thượng-Đế, là: đem sự sống lần thứ hai cho hàng chục ngàn người! Và nhờ đó ông trở thành bất-tử!” (Anh-Tri 7/6/2016) 

Với nhà Đạo, thì chắc hẳn Ts Rupert Nudeck đã là thánh-nhân được sống cạnh bên Thiên-Chúa ngay khi ông nhắm mắt lìa đời! Ghi lại câu truyện về bậc vĩ-nhân rất ân-cần với nhiều người, là để sánh-ví và tưởng/nhớ các vĩ-nhân khác, trong đời người. Chí ít, là đời người đi Đạo. Nói xa/nói gần, chi bằng nói thẳng/nói thật. Và, nói thật đây, là nói về vĩ-nhân nhà Đạo mà mọi người có thói quen gọi ngài là Đức Giáo Tông, hay Đức Giáo-hoàng của La Mã.

Nói về Giáo hoàng của nhà Đạo, nhiều người vẫn nói nhiều và nói quá lời, để đến nỗi quên cả lịch-sử hoặc sự-tích về nhân-vật vĩ-nhân, vĩ-đại ấy. Nên, hôm nay, có đề-nghị với tôi và với bạn, rằng: ta nên có một chút gọi là “đôi giòng lịch-sử” cũng rất lịch-sự để rồi nói thật và nói thẳng về nhân-vật mà ta quen gọi là Đức Giáo-Tông hay Giáo-hoàng của Công-giáo, như sau:

“Theo đạo-lý/tín-điều của Công-giáo thì “đầu não” của Giáo-hội ở dưới thế và là người kế-vị của thánh Phêrô. Vốn tin là thế, người đi Đạo cứ nghĩ là Đức Kitô đã chỉ-định thánh Phêrô là vị Giáo-hoàng tiên-khởi và đã đi Rôma nhậm-chức cùng làm việc tại nơi đó, suốt 25 năm. Nhưng, hỏi rằng sách thánh có chỗ nào nói về chức-năng của vị Giáo-hoàng, hoặc Giáo-Tông như thế không? Và, tín-hữu thời tiên-khởi có công-nhận thánh Phêrô là thế chứ?

Ngược lại, Kinh thánh rõ ràng cho thấy rằng: khi xưa, thành-viên Hội-thánh đều có chức-năng đồng đều, và Đức Kitô mới là “đầu não” của Giáo-hội mọi thời, chứ không phải Đức Giáo Hoàng, như thánh Phaolô có viết ở thư Êphêsô đoạn 5 câu 23.

Trong Tân Ước, có lần thánh Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu hỏi xin Ngài cho mỗi vị được ngồi bên phải và bên trái Ngài nơi Vương-quốc của Ngài. Nên nhớ, ở các nước Đông-phương, hai vị bộ-trưởng quan-trọng đều ngồi bên tay phải và tay trái của nhà vua.

Giả như điều mà Đạo Công-giáo La Mã chúng ta nói đúng, thì: xem ra Đức Giêsu đã phải cắt nghĩa là Ngài đã dành chỗ bên tay phải cho ông Phêrô và không có ý-định đặt ai bên tay trái hết.. Nhưng ở đây thì ngược lại, câu trả lời của Ngài ở Tin Mừng theo thánh Mác-cô rày đã viết:
     
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây." Ngài hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?" Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang."

Đức Giêsu bảo: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được." Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được."

Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người."

Thế nhưng, người Công-giáo chúng ta lại được giới-chức trong Đạo dạy bảo rằng: thánh Phê-rô được ở vào vị-trí gọi là toàn Giáo-hội được dừng xây trên vị-trí của ông. Câu kinh-thánh mà Giáo-hội Công-giáo vẫn qui về là đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu đoạn 16 câu 18 như sau:

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, và quyền-lực tử-thần sẽ không thể thắng nổi.”  

Xét kỹ câu này, ta sẽ thấy là Giáo-hội của Chúa không dựng-xây trên thánh Phêrô mà trên Đức Kitô. Ở giòng chữ trước câu ấy, Đức Giêsu có hỏi các môn-đệ Ngài xem thiên-hạ nói Ngài là Ai? Có người bảo: là, ông Gioan Tẩy Giả, có người nói là ngôn-sứ Êlya; người khác lại cho rằng Ngài là ngôn sứ Giêrêmia hoặc một trong các Tiên-tri của thời trước đó.

Khi ấy, Đức Giêsu mới hỏi: “Thế còn anh, anh bảo Ta là ai?” Nghe lời này, ông Phêrô mới thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên-Chúa Hằng Sống.” Và khi đó, Ngài mới bảo cùng thánh Phê-rô rằng: “Anh là Đá (“Petros”, tiếng Hy-Lạp gọi đây là viên đá, hòn đá) và trên đá này (chữ “đá” đây là: “Petra”, tiếng Hy-Lạp là “tảng đá”, tức: thứ đá tảng thật lớn của “sự thật” mà thánh Phêrô vừa bày-tỏ), Ta sẽ dựng-xây Giáo-hội của Ta.”

Đá tảng, mà trên đó Giáo-hội đích-thực được dựng-xây đã nối-kết với câu nói của thánh Phêrô, tức câu trả-lời, rằng: “Thày là Đức Kitô” và như thế là nền-tảng đích-thực trên đó Giáo-hội được dựng-xây chính là Đức Kitô, chứ không phải thánh Phêrô.

Ngay đến thánh Phêrô cũng tuyên-bố rằng Đức Kitô là tảng đá khổng-lổ làm nền-tảng ở thư thứ I Phêrô đoạn 2 câu 4-8 và ở sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 1 câu 11, 12 cũng nói như sau:

“Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, tảng đá sống-động bị người ta loại-bỏ, nhưng đã được Thiên-Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên-Chúa dùng anh em như những tảng đá sống-động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng-liêng, và hãy để Thiên-Chúa đặt anh em làm hàng tư-tế thánh, dâng những lễ-tế thiêng-liêng đẹp lòng Ngài, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một tảng đá quý được lựa-chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất-vọng. Vậy vinh-dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì đá mà thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là tảng đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số-phận của họ là như vậy.” (1P 2: 4-8)

Thật ra thì, mãi cho đến thời của Giám-mục Calixtô từng là Giám-mục thành La-Mã từ năm 218 đến 223, đoạn phúc-Âm trên đây của thánh Mát-thêu mới được sử-dụng để xác-chứng là Giáo-hội được dựng-xây trên thánh Phê-rô và từ đó Đức Giám-mục thành La Mã được gọi là vị kế-tục thánh Phê-rô trong chức-vụ này.

Để ý kỹ các đoạn Kinh-thánh nói về thánh Phêrô, ta thấy rõ-ràng thánh-nhân đây chưa từng là Giáo-Hoàng bao giờ hết. Hơn nữa, xét từng luận-điểm ở bên dưới, ta còn thấy rõ hơn, rằng:

  1. Thánh Phêrô là người có gia-đình. Điều này không phù-hợp với vai-trò của Đức Giáo-chủ của Công-giáo. Các đoạn Kinh-thánh như Mátthêu đoạn 8 câu 14, và nhất là đoạn thư thứ nhất Côrintô ở đoạn 9 câu 5, thánh Phaolô có nói rằng các tông-đồ đều có vợ.
  2. Thánh Phêrô không bao giờ để mọi người cúi gập người chào thánh-nhân. Điều này thấy rõ nhất khi ông Cornêliô phủ-phục kính-cẩn thánh nhân (x. Cv 10: 25, 26)
  3. Thánh Phêrô không đặt truyền-thống ngang tầm mức với Lời Chúa, Ngược lại, thánh-nhân ít tin vào truyền-thống của các tổ-phụ như có viết trong thư thứ nhất Phêrô đoạn 1 câu 18.
  4. Thánh Phêrô không là Giáo-hoàng, bởi thánh-nhân chưa từng đội vương-miện hoặc mũ/mão Giáo-hoàng bao giờ hết. Ở thư thứ nhất Phêrô đoạn 5 câu 4, tác-giả giải-thích rõ rằng: “Khi Vị Mục-Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”

Quả là, vào những ngày đầu của Giáo-hội, thánh Phêrô đã có địa vị cao-cả trong hàg các thánh tông-đồ. Thánh-nhân luôn dẫn đầu đội ngũ các tông-đồ và là người cất lời giảng rao đầu tiên vào Lễ Ngũ Tuần sau khi Thánh Thần Chúa đổ tràn ơn mưa-móc xuống trên 3000 người có mặt. Nhưng, không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng thánh Phêrô là Giáo-hoàng tiên-khởi hoặc là Giám mục của các Giám mục trên thế-giới hết.

Thật ra thì, dù thánh Phêrô đứng đầu danh-sách các thánh Tông-đồ, nhưng thánh Phaolô mới là người có tác-vụ thừa-sai cao-cả nhất. Chẳng hạn, về việc viết Tân Ước, trong khi thánh Phaolô viết lên khoảng 100 chương gồm 2,325 câu, thì thánh Phêrô chỉ viết có 8 chương bao gồm 166 câu mà thôi.

Đằng khác, nói theo Kinh thánh, không có chứng-cớ nào quả-quyết rằng: thánh Phêrô từng đi gần đến Rôma! Mà, Tân Ước chỉ nói cho ta biết thánh-nhân mới đến Antiôkia, Samaria, Joppa, Cêsarê và vài nơi khác chứ không phải Rôma hoặc La-Mã. Nếu các tác-giả Tân Ước đã quên sót không đề-cập, thì đây quả là lãng quên thê-thảm chưa từng thấy, bởi Rôma (hoặc La-Mã) là thành-phố quan-trọng vào bậc nhất, với thế-giới…” (X. Ralph Woodrow, Was Peter the First Pope? Trong cuốn “Babylon Mystery Religion”, Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc. 1966 tr. 74-78) 

Nói thế rồi, nay ta đi vào vùng trời truyện kể để xem thiên-hạ có kinh-nghiệm gì về các bậc trưởng-thượng nào khác, trong đời hay không.

Truyện rằng:

“Ông bà nọ tên là Quỳnh có 4 người con, 2 trai 2 gái. Hai đứa trai là bác sĩ y khoa, còn 2 đứa gái, một là dược sĩ và một nha sĩ. Khoảng thời gian khi đứa con gái út vừa rời trường trung học thì 2 vợ chồng ông ly dị, và chỉ một năm sau, bà đã tái giá với một bác sĩ Mỹ già đã về hưu.

Vì mục đích chính trong đề tài này nói về chữ “hiếu”, nên tác giả xin phép không trình bày lý do vì sao 2 vợ chồng ông bà Quỳnh lại ly dị.

Ông Quỳnh là một nhà thương gia tài giỏi, thành công ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Khi sang tới Hoa Kỳ thì ông tiếp tục xây dựng lại sự nghiệp thương mại, và mọi sự còn thành công nhiều hơn hồi ông còn ở Việt Nam. Chả thế mà vợ ông không cần phải đi làm việc, chỉ ở nhà và phụ giúp ông săn sóc 4 đứa con cho tới khi chúng khôn lớn, 3 đứa học hành thành tài và một đứa út ra trường trung học với hạng tối ưu. Gia đình ông quả là một hình mẫu mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng mong muốn.

Sau một năm sau ngày vợ chồng ly dị, ông bị bệnh nặng không đi đứng bình thường và không thể tự săn sóc vệ sinh cho mình. Ông phải vào sống trong một “nursing home” vì 3 đứa con lớn đều đã lập gia đình, còn đứa út thì được học bổng phải đi học xa nhà. Về vấn đề vật chất, quả thực ông không thiếu thốn bất kể thứ gì, nhưng về mặt tinh thần thì ông có tâm sự cho tôi biết rằng ông rất cô đơn. Đứa con út bận học hành ở xa, một năm chỉ có thể về thăm ông tối đa là 2 lần. Còn 3 đứa lớn, mặc dù sống chung một thành phố với ông nhưng chúng chỉ đến thăm ông mỗi tháng 1 lần, mỗi lần từ 30 đến 60 phút. Chúng nó viện đủ mọi lý do như bận rộn công việc, con cái…

Có lần, ông tâm sự với những giọt nước mắt chảy dài trên hai gò má gầy gò, nhăn nheo: “Thầy có biết không, lắm lúc tôi ngồi một mình nghĩ lại, cả một cuộc đời của tôi làm việc vất vả để kiếm đủ tiền mang về nhà phụng dưỡng cha mẹ già của mình. Cho đến khi cha mẹ tôi qua đời, sau đó 2 năm tôi mới lập gia đình và vợ tôi sinh cho tôi được 4 người con. Tôi lại làm việc vất vả, cố gắng kiếm được nhiều tiền hơn trước để cho vợ và 4 con của tôi được vui hưởng một cuộc sống sung túc, không thiếu thốn bất cứ một thứ gì, không thua kém bất cứ ai. Thế mà bây giờ Thầy thấy đấy, tôi thân tàn ma dại, bị vợ bỏ, con cái không đoái hoài gì đến, một mình lủi thủi trong viện dưỡng lão.

Ba đứa lớn, cả tháng chúng mới tới thăm tôi một lần chớp nhoáng, đến cho có lệ. Còn đứa út nó bận học hành tôi không trách cứ. Không biết kiếp trước tôi có làm điều gì ác độc, hay cha mẹ tôi có làm gì sai quấy không mà ngày hôm nay tôi phải chịu cảnh này. Nhiều khi buồn quá tôi chỉ muốn chết sớm ngày nào tốt ngày ấy...” (Truyện kể ở trên mạng rất hà rầm, tha hồ đọc).

Mỗi người mỗi ý và mỗi cảnh, nhà Đạo của ta vẫn cứ dạy: mọi sự là do thánh-ý Chúa. Nhưng, tận thâm-tâm, ta có tin thế không hay chỉ là lời an-ủi, một hy-vọng? Hôm nay, về với Hội-thánh Chúa lại có người hỏi là: thánh Phêrô có là Giáo-Hoàng đầu-tiên không, dù có hay không, tưởng cũng không nên quên lời vàng Kinh Sách vẫn bảo rằng:

“Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh-đạo,
vì anh em chỉ có một lãnh-đạo, là Đức Kitô.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”  
(Mt 23: 11-12)

Thành ra, cứ như lời dặn của Đấng Thánh hiền trên đây, hẳn bạn và tôi, ta lại cũng quyết-tâm coi nhau như ngang-hàng, cùng một cấp. Không ai hơn ai. Cũng chẳng có ai thua thiệt, làm bề tôi của ai. Nhưng, hãy cứ tay trong tay hướng về phía trước mà sống nhanh, sống mạnh, sống vững chãi trong niềm tin của người đồng đồng Đạo, và đồng hàng.

Nghĩ thế rồi, hãy cứ hiên ngang hát lên ca-từ rất “hết biết” hoặc đáng sợ, ở trên mà rằng:

Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,
Ngỡ như đất trời giao hòa.
Và tai nghe thấy một rừng âm vang
khúc hát dâng đời ta.
Cỏ cây muôn loài đều hân hoan,
Nhưng em tưởng như anh
Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em,
giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê,
và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm dạ…”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

Trần Ngọc Mười Hai
Có những lúc
Thấy đời người và đời mình
Cũng nản chí nam nhi
Vì những chuyện như thế.
Nhưng không sao.

Friday 24 June 2016

“Xuân vương trên ngàn hoa,”

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 13 mùa thường niên C 26/6/2016

“Xuân vương trên ngàn hoa,”
nhắc bao sầu nhớ mơ màng 
mây buông trong chiều vắng
như luyến tiếc giấc mơ đã tàn 
nhớ dưới xuân năm nào

lòng say ước mơ sống trong mộng vàng.”

(Hoàng Bách – Nhớ Bạn)


(1Cor 1: 10-13)

 

Có lúc buồn, bọn tôi thường nhớ nhiều đến nhạc bản “Nhớ Bạn” do ca sĩ có giọng trầm buồn rất dễ thương là: Sĩ Phú. Nghe Sĩ Phú hát, bọn tôi thường mường-tượng về buổi thính-phòng nào đó, trong quá khứ. Có thể là phòng-trà “Đêm Mầu Hồng” hoặc quán “Ritz” ở Sàigòn thập-niên 1960s lúc thị thành còn sôi-động.

 

Giọng trầm và ấm của Sĩ Phú vẫn đưa lòng người về với nhớ nhung. Nhớ rất nhiều, là đám bầu bạn thân-thương thuở cắp sách đến trường. Nhớ, bạn cùng trang-lứa có những ngày trốn học rủ nhau đi Xinê, nghe nhạc hoặc tìm nơi chuyện trò cũng dễ thương. Nói chung, bọn tôi “Nhớ Bạn” cũng rất “khủng” tưởng chừng như sẽ không còn gặp lại nhau, bao giờ nữa.

 

Quả, như lời bài hát vẫn đưa bọn tôi vào chốn thân quen bàng bạc một tình-tự, như sau:

 

“Chiều nay niềm ái ân xưa

tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương

lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương. 

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa, 
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt, 
muôn đường tơ vương, 
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.  

Bóng dáng xa khuất ngàn
trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương 
cung đàn lỡ bao nhịp
luyến thương đường đời vạn nẻo 
nhuốm mối đau thương 
nhớ phút giây êm đềm say đắm 
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng 
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa 
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”
(Hoàng Bách – bđd)


Nỗi nhớ niềm thương ở đời, là như thế. Niềm thương/nỗi nhớ đầy ân-huệ ở nhà Đạo, lại khác thế cũng rất nhiều. Khác, nhưvừa rồi ở trời Tây bên ấy, đã có đấng bậc nọ từng dẫn-giải tình-tự đầy tiếc nuối, như sau:

“Hôm ấy, nhân kỷ-niệm 500 năm cải-cách của giới Thệ-Phản, lm Raneiro Cantalamessa có nói rằng: lãnh-đạo Kitô-giáo phải tập-trung nhiều hơn vào niềm tin mình đang san-sẻ hơn là cãi-tranh nhau về công-thức đạo-lý/tín-điều. Linh mục này có nói:

Cùng lúc có các cuộc bàn-luận về tín-lý, ta phải có cuộc đại-kết giáp-mặt riêng tư thân-thiện và hòa-hợp tâm-can, thì tốt hơn. Bởi, có như thế ta mới lôi kéo cộng-đồng Đạo Chúa xích lại gần nhau hơn như đã xảy ra trong vài thập-niên vừa qua. Lâu nay, giữa người Công-giáo và Thệ-Phản vẫn có xung-đột dựa trên nền-tảng không hiểu rõ ràng thông-điệp của thánh Phaolô về những sự việc như thể để biện minh cho mình luôn là đúng.

Khi xưa, thánh Phaolô tông-đồ, qua thư Rôma ở chương 3, chỉ muốn khẳng-định rằng những gì ta biện-minh/bào-chữa cho chính mình bằng niềm tin chính là biện-minh niềm tin vào Đấng Kitô. Thường thì, ta cũng không mấy đặt nặng việc mình bào chữa nhờ ân-huệ cho bằng nhờ ân-huệ do Đấng Kitô ban cho ta.

Bằng vào việc tin-tưởng vào Đấng Ki-tô, người Công-giáo cũng như Thệ-Phản mới có thể lướt thắng khác-biệt của nhau. Nay, không còn chiến-tranh tôn-giáo giữa người Công-giáo và Thệ-Phản nữa rồi. Nên, cần nghĩ đến những việc tốt đẹp nào khác để làm hơn là cãi-vã hoặc tranh-luận với nhau nữa. (x. phần tin: Focus on beliefs, not doctrine, says papal preacher, trên The Catholic Weekly này 27/3/2016, tr. 12)

Nếu cứ xét chuyện đạo-lý thần-học trong Giáo-triều đầy quyền-bính, hẳn là người Đạo Chúa sẽ thấy rằng: mọi sự trong Đạo không phải lúc nào cũng mang dáng-dấp mầu hồng, bao giờ hết. Đó, còn là ý-tưởng được Đức Giáo Tông nói lên vào một buổi triều-yết có giảng-giải ở Rôma, được các phóng-viên ghi lại qua tiêu-đề là Nhưng bên trong Giáo hội, con đường không đầy màu hồng với Đức Phanxicô như sau:

Lúc Đức Bênêđictô XVI thoái vị, Giáo triều Roma, nội các của giáo hoàng với các hồng y và giám mục điều hành thể chế Giáo hội ở trong cơn khủng hoảng. Các tin đồn về nạn đấu đá và vấn đề tài chính đáng ngờ đang nhan nhản. Quản gia riêng của Đức Bênêđictô đã phản bội ngài, ông tiết lộ các tài liệu nội bộ cho truyền thông.

Trong những ngày trước khi xảy ra mật nghị hồi tháng ba năm 2013, các hồng y, những người chịu trách nhiệm trong việc bầu giáo-hoàng ý-thức mình phải làm gì đó. Vatican cần một người đến từ bên ngoài, một người không ngại lay chuyển mọi sự và đưa nhà Giáo hội vào trật tự. Người đó, tất nhiên, là Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Được bầu lên như một nhà cải cách ở tuổi 76, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận ngai tòa Phêrô với ý thức rằng mình không có nhiều thời gian để tạo nên sự khác biệt. Nên ngài vận động nhanh chóng, lập các văn phòng mới để quản lý tình trạng tài chính khó kiểm soát của Vatican. Ngài giới hạn quyền lực của Giáo triều bằng cách lập nhóm chín hồng y cố vấn, họp thường xuyên để định hướng công việc. Và ngài cắt bớt vây cánh của những người đối lập muốn tìm cách phá hoại các nỗ lực của ngài.

Là những con người của Chúa, các hồng y và giám mục đột nhiên bị tước quyền này, họ nuốt kiêu hãnh xuống và cùng chung sức làm việc với Đức Phanxicô, lãnh đạo mới của mình. Nhưng không phải ai cũng thế. Một số không đi chung đường với Đức Phanxicô, họ mở một chiến dịch xì xào với đủ kiểu đàm tiếu và ước-đoán, để làm giảm giá trị các cải cách của Đức Giáo hoàng. Những lời ám chỉ, tin đồn, và dối trá trắng trợn mà một vài cấp lãnh đạo trong Giáo hội đã tiết lộ cho truyền thông làm Vatican phải hổ thẹn.

Một trong những người cốt cán được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Ngân hàng Vatican, bị cáo buộc là có quan hệ đồng tính. Về sau, trong Hội đồng Gia đình, các giám mục có cảm tình với cải cách tự do trong Giáo hội bị cáo buộc là hấp tấp phát hành một báo cáo hội đồng với ngôn từ thân thiện với những người đồng tính và những người ly dị rồi tái hôn.

Lại có lời đồn rằng phòng thư từ Vatican đã không chuyển các quyển sách mang tính bảo vệ giáo huấn của Giáo hội hiện thời cho các thành viên hội đồng. Khi các cải cách tài chính của Đức Giáo hoàng được đẩy lên cao độ, thì nhân vật cốt cán được ngài giao phó kiểm tra chuyện tiền bạc, bị đồn là tiêu xài hoang phí cho trang trí văn phòng và trang phục. Đàm tiếu đang hung hăng vượt lên, muốn diệt các đồng minh của Đức Phanxicô.

Một hồng y người Mỹ có uy-thế ở Vatican, trở thành biểu tượng cho những người nghi ngờ cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng. Hồng y này nói là “nhiều” người bày tỏ “quan ngại” về Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Trong buổi phỏng vấn ngày 30 tháng mười, với tờ báo Công giáo Tây Ban Nha Vida Vueave, hồng y này nói, “có một suy nghĩ mạnh cho rằng giáo hội như con thuyền không bánh lái.” Ông nói rằng đây không phải là cảm giác của riêng ông, nhưng là của một người khác, với ý muốn làm rõ là những người chỉ trích Đức Giáo hoàng sẽ có một đồng minh mạnh ở Roma.

Chuyện này không kéo dài lâu. Khoảng một tuần sau, ông bị đẩy khỏi vai trò lãnh đạo Tòa Thượng Thẩm, và được bổ nhiệm vào một vai trò mang tính hình thức là tuyên úy cho Hội Hiệp sĩ Malta. Trường hợp đặc biệt này cũng là trường hợp cực đoan nhất, khi một hồng y đầy uy-thế công-khai chất vấn cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng và không lâu sau bị thuyên chuyển chức vụ, nhưng không phải là duy nhất.

Một giám mục Hoa Kỳ nói rằng Đức Phanxicô đang hạ bệ những người Công giáo bảo thủ. Một hồng y khác chất vấn không biết Đức Giáo hoàng có thực sự hiểụ được các bài diễn văn và bài giảng của ngài có tác động toàn cầu thế nào hay không. Và nhiều linh mục cũng như giáo dân, tiếp tục tỏ ra khó chịu mỗi khi Đức Phanxicô bỏ qua bài soạn sẵn, mà nói tự phát, từ trái tim và làm cho báo giới tốn nhiều giấy mực.

Vài người ở Vatican nghĩ, cách tốt nhất để chống lại các thay đổi của Đức Giáo hoàng là làm rò rỉ thông tin và nói bóng gió cạnh-khoé để loại trừ các đồng minh của Đức Phanxicô. Những chiến thuật này thường được các chức-sắc muốn giữ ghế áp dụng, và đôi khi bất chấp tác hại của nó với công việc phúc âm hóa. Đức Phanxicô đã có một thông điệp gởi đến các giám mục này: hãy thôi đi.

Các câu tweet của Đức Giáo hoàng về ngồi lê đôi mách cũng giống như “quả trứng Phục Sinh” với nhiều ẩn nghĩa mà tôi đã mô tả trong chương trước, và thực sự có tác động đến những người này. Chỉ có hai tweet trực tiếp nói về thói đàm tiếu, nhưng khi hiểu được những gì sau màn ảnh, chúng ta thấy đây là cú đấm mạnh hơn nhiều.

Đức Phanxicô muốn các giám mục hãy thôi ám ảnh về quyền lực và danh tiếng của mình, và phải biết đi vào trong thế giới. Chặn đứng thói đàm tiếu là một trong các bước đầu tiên của ngài. Nhưng ngài không tweet về đàm tiếu chỉ để chấn chỉnh hàng ngũ (dù chắc chắn là chúng có tác động tốt này). Nhưng ngài muốn mỗi một tín hữu biết noi gương Chúa Giêsu hơn nữa, mà chuyện đàm tiếu lại kéo chúng ta đi ngược lại con đường này.

Cuộc Cách mạng Phanxicô không diễn ra với những thay đổi lớn trong giáo huấn của Giáo hội, hay bán các tác phẩm nghệ thuật vô giá để lấy tiền phát cháo cho người nghèo. Nhưng cuộc Cách mạng Phanxicô sẽ đến khi các tín hữu bắt đầu sống giống Chúa Giêsu hơn, từ những giáo dân bình thường cho đến các hồng y cao cấp của Giáo triều.”

Muốn diễn-đạt tình-trạng sống Tin Mừng ở nhà Đạo, theo cách người ngoài đời vẫn làm, tưởng cũng nên quay về với truyện kể ngắn gọn nhưng bàn về “cái thâm thúy của người xưa”, từng sống đời thực-tế như sau:                                                                                                        

“Cao nhân chân-chính, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại.

Thế nào gọi là cao nhân? Tương truyền, Tả Tông Đường rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ, gần như không có ai là đối thủ của ông.

Có một lần, Tả Tông Đường cải trang trước khi xuất chinh đánh trận, trên đường bỗng nhìn thấy một ngôi nhà tranh, trên xà nhà có treo tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ”. Tả Tông Đường thấy thế thì trong lòng không phục, liền đi vào trong để cùng chủ nhân ngôi nhà đánh ba ván cờ.

Vị chủ nhà đánh ba ván đều thua, Tả Tông Đường cười nói: “Ông nên tháo tấm biển kia xuống đi!” Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, cao hứng bừng bừng mà rời đi.

Không lâu sau, Tả Tông Đường thắng trận trở về, lại đi ngang qua ngôi nhà ấy, thấy tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” vẫn chưa được gỡ xuống, Tả Tông Đường tức giận đi vào trong nhà để cùng vị chủ nhân tỷ thí ba ván cờ nữa.

Lần này, Tả Tông Đường thua cả ba ván. Tả Tông Đường vô cùng kinh ngạc, liền hỏi vị chủ nhân tại sao lại như vậy. Vị chủ nhân đáp:

-Lần trước, ngài tuy mặc thường phục nhưng ta đã sớm biết ngài là Tả Công, ngài mang trên mình nhiệm vụ đánh giặc, ta không thể dập tắt nhuệ khí chiến đấu của ngài. Lần này, ngài đã chiến thắng trở về, ta đương nhiên toàn lực ứng phó, việc đáng làm thì ắt phải làm, không thể nhượng bộ!

Cao thủ chân chính trên thế gian, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại, ấy là vì có tấm lòng khiêm nhượng, thiện tâm với người.

Cuộc sống chẳng phải là như vậy sao? Thông minh không nhất định là có trí tuệ, thế nhưng trí tuệ thì nhất định bao quát thông minh. Người thông minh tâm nặng chuyện được mất, người trí tuệ có thể dũng cảm xả bỏ. Tai thính thật sự thì có thể nghe được tiếng lòng, mắt sáng thật sự thì có thể nhìn thấu tâm linh.

Chứng kiến, không có nghĩa là nhìn thấy.
Nhìn thấy, không có nghĩa là nhìn rõ.
Nhìn rõ, không có nghĩa là hiểu được.
Hiểu được, không có nghĩa là hiểu rõ.
Hiểu rõ, không có nghĩa là đã thông suốt.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Không có văn hóa thì thật đáng sợ!”. Thế nhưng “văn hóa” ấy rốt cuộc là gì? Là bằng cấp hay kinh nghiệm? Hoặc sự từng trải? Câu trả lời: tt cả đều không phải! Ngày hôm nay, coi như chúng ta đã được thấy một lời giải thích thuyết phục, “văn hóa” ấy chính là biểu đạt bởi bốn điều sau đây:

1.Đào sâu vào tu dưỡng nội tâm.
2.Tự giác không cần nhắc nhở.
3.Lấy ước thúc làm tiền đề cho tự do.
4.Suy nghĩ lương thiện vì người khác.  (Dịch giả: Minh Nữ)

“Văn hóa” nhà Đạo, nay cũng thế. Cũng có khi, người nhà Đạo quyết-chí đào-sâu tu-dưỡng nội-tâm. Cũng có lúc, hơi bị “chểnh mảng” đi chệch ra ngoài mục-tiêu và mục-đích do Đạo đề ra. Thế nên, cũng phải tự-giác, lấy ước-thúc làm tiền-đề cho tự-do và suy-nghĩ lương-thiện vì người khác.

Nhà Đạo mình, nhiều lúc cũng quên đào sâu tư-tưởng và chiều-hướng được nhấn mạnh ở lời vàng thánh kinh, nên mới thế. Đào sâu tư-tưởng ở thánh kinh, ta sẽ thấy đấng thánh nhân hiền từng bảo rằng:

“Tôi khuyên tất cả anh em
hãy nhất trí với nhau
trong lời ăn tiếng nói,
và đừng để có sự chia rẽ
giữa anh em,
nhưng hãy sống hoà thuận,
một lòng một ý với nhau.”
(1Cor 1: 10-13)

Như thế có nghĩa: chuyện chia rẽ giữa anh chị em cùng thờ một Chúa, là chuyện thường ngày ở huyện từng xảy ra trước đây, ở Corintho6 và nhiều nơi khác. Xảy ra, là bởi vì người cùng một Đạo Chúa hay đạo làm người đã không còn biết sống hòa-thuận/một lòng một ý với nhau, như được khuyên.

Như thế tức là, ở mọi thời đều có những vấn-đề cần giải-quyết. Cả vấn đề sống đạo hoặc giữ gìn lời nói với nhau, trong mọi sự.

Nói như thế, tức là mọi chuyện xung khắc xảy ra trong đời người, phần lớn là do lời nói, tư-tưởng hoặc lối đối xử không nhất trí theo cùng một tinh-thần nương-tựa giùm giúp và sẻ san điều hay điều tốt với nhau, mà thôi.

Trong nhận thức rất như thế, nay mời bạn và mơi tôi, ta lại cất lên tiếng hát trích-dẫn ở trên để nhớ đời, rồi sống. Hát, là hát những lời như sau:

 

“Chiều nay niềm ái ân xưa tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương. 

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa, 
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt, 
muôn đường tơ vương, 
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.  

Bóng dáng xa khuất ngàn
trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương 
cung đàn lỡ bao nhịp luyến thương đường đời vạn nẻo 
nhuốm mối đau thương 
nhớ phút giây êm đềm say đắm 
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng 
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa 
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”
(Hoàng Bách – bđd)


Trần Ngọc Mười Hai
Có những lúc những thời
Vẫn liên-tưởng
đến những khó khan
trong đời đi Đạo
vốn dĩ là thế.