Saturday, 31 March 2018

“Rồi mai đây tôi sẽ chết,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần Phục Sinh năm B 010418

“Rồi mai đây tôi sẽ chết,
Trên đường về nơi cõi hết,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?”
(Phạm Duy – Rồi Mai Đây Tôi Sẽ Chết)

(Gioan 12: 25-25; 20: 1-9)

Trong một dĩa nhạc do Khánh Ly thực-hiện hát chung với người viết nhạc tôi chộp được trên vi-tính, “nhạc sĩ già” nhà ta có nói: “Tôi viết lên bản nhạc này là vào thời-gian mà tôi bị ám ảnh bởi 3 vấn-đề: tình yêu, sự đau khổ và cái chết. Tình yêu, thì đã nói nhiều rồi. Đau khổ, thì: ai mà chẳng đau khổ, nhưng cái chết thì ít người nói đến… Nghệ sĩ chúng ta chẳng đem được cái gì ngoài niềm vui khi đi vào cõi chết…” (X. www.facebook.com/khanhlysinger/posts/97640192574383)

Trong bài giảng ở nhà thờ, hôm ấy, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay 2018 một họ đạo nhỏ ở Sydney, vị linh mục giảng lễ có nói đến “Sự chết” hay “cái chết”, là cái mà ai cũng sợ “không bao giờ nói đến”. Bài giảng này, mang ý-nghĩa mà “nghệ sĩ già” nhà ta vừa nói đến. Và đây, cũng là đề-tài mà bần-đạo bầy tôi muốn bàn đến, dù rất ngắn.

Nói cho cùng, mỗi lần nói về “sự chết” hay “cái chết”, là cả người nghe lẫn người nói đều nghĩ rằng: điều ấy đã và sẽ xảy ra với ai khác, chứ không là chính mình. Dù, sự thật là: có sống thế nào đi nữa, cuộc sống của bạn và của tôi, cũng đều đang “đi dần vào cõi chết”, hay cái chết.

“Nghệ sĩ già” năm xưa đã hỏi người và hỏi mình, một câu để đời qua bài hát: “Rồi mai đây, tôi sẽ chết trên đường về nơi cõi hết, tôi sẽ mang theo những gì đây?” Trả lời cho câu hỏi đượm nhiều ý-nghĩa này, trước đó ta phải hỏi: Sự chết hay cái chết là gì? Chết, có phải là rồi ra sẽ chẳng còn gì nữa hết hay không? Chết, có giải quyết được sự gì, việc gì không? Chết, cuối cùng rồi mọi sự sẽ ra sao? Ta và người, có còn vui như bao giờ chứ? Thôi thì, cả một “lô” câu hỏi được nhiều người đặt ra, mà chẳng ai buồn tìm đến câu trả lời, cho mau chóng.

Hôm nay đây một lần nữa, bần đạo tìm đến đề tài này, không để chuyển-tải tải đến bạn và tôi, câu trả lời nào đó khả dĩ khiến người đọc thấy thỏa mãn, chút nào hết. Trái lại, viết và nói lên ở đây, chỉ để tiếp-cận một đề-tài ít khi được người viết hoặc người đọc tìm đến thưởng lãm. Viết, chỉ để viết. Và, đọc cũng chỉ để đọc. Đọc, “cho bưa, cho vừa lòng mọi người, mỗi thế thôi.

Nếu vậy, mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào vấn-đề này. Thế nhưng, lại chữ “nhưng” lạ kỳ nghe rất chõi . Vậy thì, trước khi đi vào cốt lõi của bài phiếm hôm nay, mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm ít câu hát do “nghệ sĩ già” khởi phát như sau:
          
“Rồi mai đây tôi hóa kiếp
Trong lòng còn bao luyến tiếc
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được tiền tài hay danh lợi
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp hay ruợu nồng
Tôi không đem theo với tôi được lầu vàng hay gác tía,
Tôi không đem theo với tôi được mộng giàu sang phú quý,
Tôi xin đem theo với tôi một nụ cười không nghi ngại,
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời,
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc đời đang bước tới,
Tương lai vui hay tối thui cũng là nhờ anh lớn thôi !

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Tôi không đem theo với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được tượng đồng bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được tuổi vàng trong cõi sống.
Tôi xin đem theo với tôi một cuộc tình không quen thuộc,
Đôi uyên ương xin mến thương
không khó nhọc hay ngượng ngùng!
Trong đêm thâu ôm ấp nhau bên cột đèn hay khóm trúc
Không ai ngăn hay lấy cung vì phạm thuần phong mỹ tục.

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Rồi mai đây tôi hóa kiếp
Trong lòng còn bao luyến tiếc
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Tôi không đem theo với tôi được nhiều điều tôi mong đợi
Tôi không đem theo với tôi danh với lợi ra ngoài đời,
Tôi không đem theo với tôi được cả buồn vui mấy nỗi
Tôi không đem theo với tôi, và để lại cho thế giới.
Tôi xin dâng cho thế gian một vài điều tôi công nhận
Tôi xin dâng cho thế gian, ôi số phận sinh làm người!
Thương cho em chưa thoát thai
trong cuộc đời chưa hết chuyến,
Tôi xin dâng cho cái quên của một người sẽ tái duyên.

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi Niết,
Tôi sẽ không đem với tôi những gì đâu!
Rồi mai đây tôi hóa kiếp
Trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem với tôi những gì đâu!”
(Phạm Duy – bđd)

Đúng thế. Khi đã đi vào “cõi hết” rồi, thì mọi sự cũng sẽ như chết, cũng trở thành “hết chuyện”. Hết mọi thứ chuyện để nghe và để kể. Còn lại, cũng chỉ là những thứ và những sự ta cứ lai rai bàn hoài không hết.

Bàn, lai rai, là bắt đầu bằng một diễn-nghĩa có những câu hỏi như: Chết là gì?  Chết rồi, mọi sự sẽ ra sao, ngay sau đó? Chết tốt, hay “chết thật rồi!”, có thật sự là nỗi chết không còn gì để nói? Và, chết rồi ta có đem theo được gì ngoài nỗi niềm “hy vọng” như “nghệ sĩ già” nói ở trên vừa phát hiện?

Vâng. Chết không là gì cả. Và, là tất cả gồm toàn chữ “Không!”. Không còn sống; tức: không có gì để thưởng-lãm, vui hưởng hoặc kỳ vọng. Chết, là trạng-thái trở về với hu-vô to lớn. Vô thường. Vô sản, cả đến vô sinh, vô tử, tức: chữ “vô” to đùng chẳng có nghĩa gì hết. Vô, là đi vào cõi không, chẳng bao giờ ra khỏi đó. Vô, là thứ tiêu-cực của một thực-tại chẳng nghĩa lý gì hết. Vô nghĩa lý. Vô hồn. Vô thực, toàn những vô và vô.

Nói hư vô, bần đạo lại nghĩ về sự thể Đức Chúa cũng đã đi vào “cõi hết” ngang qua cái chết khổ nhục, cực hình để rồi ngang qua cái chết, hoặc cái-gọi-là “cõi hết” ấy, Ngài sẽ trở nên quang vinh, định-hình trong cõi sáng.

Nói khác đi, Đức Chúa có kinh qua nỗi chết hay cõi hết như thế mới đi vào một thực tế “lôi kéo mọi người rời cõi hết mà hưởng trọn vinh quang với Ngài và trong Ngài, như đấng thánh hiền đã xác nhận:

“Thầy bảo thật anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
(Gioan 12-23-25) 

Vào chốn vinh-quang/chói sáng ta đạt được, chính là mục tiêu của sự sống, chứ không phải của cái chết hoặc cõi hết. Bởi thế nên, toàn-bộ nền phụng-vụ của Hội-thánh vào Mùa Chay, đều nói lên ý-nghĩa đích-thực cao cả của sự chết và “cõi hết”, ra như thế. 

Về việc này, các đấng bậc vị vọng trong nhà Đạo còn nói rõ hơn ý-nghĩa và mục tiêu của một trỗi dậy ngang qua cái chết, rất như sau:

“Trình thuật Chúa sống lại gồm các đặc trưng vẫn được lập đi lập lại ở Phúc Âm, như: “Galilê”, “viên đá”, “bắt đầu tin”, “và từ đó”… Galilê với tác giả Máccô: “Ngài sẽ đi trước các ông đến Galilê, ở đó các ông sẽ thấy Ngài.” (Mc16: 7) Với Mátthêu, thì: “Ngài đi trước các ngươi đến Galilê. Ở đó các ngươi sẽ thấy Ngài.” (Mt 28:7) Tác giả Luca lại nói: “Ngài không có đây nhưng đã sống lại; hãy nhớ lời Ngài nói lúc còn ở Galilê.” (Lc 24:6) Và Gioan:“Ta lên cùng Cha và cũng là Cha của các ngươi”. (Ga 20: 17).

Xem như thế, đi Galilê là đi và đến với Cha. “Galilê” đây, không mang tính không gian/địa dư/nơi chốn, mà là biểu tượng rất nghĩa bóng. Galilê, có nghĩa là “đất lành” của người nghèo. Của những ai có cuộc sống đầy đặn. Tuy là như thế, nhưng cũng đừng đến nơi ấy, để rồi cứ ngồi đó mà chờ Chúa hiện hình, hoặc bàn tán Chúa sống lại, mà phải có “hành động” nào mang mục đích sống thực.

“Hành động” đây, là làm những gì? Là, thực hiện điều Chúa làm ở đó. Là, lấy đi những gì gây chết chóc, trầm thống, đói khổ. Để, người người được an vui, lành thánh và hy vọng, ngõ hầu đưa họ đi dần vào Thứ Bẩy Thánh, để rồi tiến thẳng vào chốn “không-gian-cộng-thời-gian” đầy sự sống. Nói cách khác, hãy giúp nâng nhấc mọi người để họ có thể rời nỗi buồn rất chết chóc. Có làm thế, người người mới hiểu được thế nào là phục sinh. Thế nào là sự sống quang vinh. Và, có làm thế mới cảm nghiệm được sức mạnh Phục Sinh năng động ở trong ta, như thánh Phaolô từng căn dặn: điều cần thiết là ta biết Chúa và sức mạnh phục sinh của Ngài.

“Viên đá”, nói trong câu: “Ai là người vần viên đá lăn khỏi mồ Thày?” (Mc 16: 3) “Đá” ở đây, nên hiểu là những “trở ngại” cản-ngăn ta làm điều tốt đẹp cho đời mình. “Đá”, còn là thành viên gia đình. Là, thủ trưởng nơi sở làm. Là bạn bè, niềm đơn côi, tật bệnh; là thế gian, đầy những khủng hoảng. Là, đá tảng trên đó có ghi chữ “giả như”, giống hệt giòng chữ nguệch ngoạc trên tường, xoá nó đi bờ tường sẽ sạch đẹp. “Đá”, là người vẫn cứ quấy rầy, quậy phá khiến ta khó quyết tâm thực hiện dứt bỏ mọi khó khăn rất không đẹp.

Thần thoại Hy Lạp, có nhân vật Sisiphus dùng mỗi đôi bàn tay thôi cũng lăn được viên đá rất to cồng kềnh lên đỉnh đồi, để rồi chính “đá” lại lăn đè vào người ông. Thử nghĩ, “giả như” các nữ phụ hôm ấy lăn được “đá viên che mộ Thầy mình”, thì các bà sẽ thấy được những gì ở phía bên kia đá tảng có là thi hài của người chết cần xức dầu/tẩm liệm thêm cho kỹ? Đó là điều, khiến các bà nghĩ phải làm khi có người trợ giúp lăn đá mở cửa mồ cho Chúa; sau đó, nhờ người ấy lăn về chốn cũ.

Về “đá tảng còn lăn”, ám chỉ chính “cái chết” là “đá” thực thụ khả dĩ cản ngăn mọi người chúng ta. Cất bỏ “đá-tảng-sự-chết”, tức: tìm cách chối bỏ cái chết không nhân nhượng. Thật ra, ta vẫn muốn cất bỏ những gì gây phiền toái/chết chóc cứ lảng vảng ở quanh mình trong khi ta hiện hữu. Đó là lý do khiến ta cứ phải “đi” bác sĩ, nhờ y tá giúp hoặc trông cậy vào phương pháp vật lý trị liệu, tập tạ, đi bộ cho thật xa, kiểm tra sức khoẻ, bỏ hút thuốc, cữ uống rượu, vv... “Đá” đây, còn là kinh nghiệm bản thân về những hạn chế/sút giảm trong đời mình khiến ta hiểu lầm cuộc sống, nên vẫn muốn cái chết cứ chậm đến với ta.

Về “đá tảng vẫn cứ lăn”, là cá tính khó đổi của mọi người. Bởi, đá tảng hoặc đá vẫn lăn hiện diện ở đâu đó, chẳng phải để ta đổi dời, hoặc chuyển lăn. Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến “đá lăn”. Còn thánh Gioan lại vẫn viết: đá ấy được “lấy đi”. Tựu chung thì, có chuyển lăn hay được lấy đi, cũng chẳng có gì làm ta hãi sợ. Điều, khiến ta hãi sợ lại là những “đá và sỏi” nằm trong đầu/trong óc của mỗi người. Những đã tảng nằm im đó, cũng rất to, nên khó lòng mà rời lăn nó ra khỏi đầu óc con người.

“Bắt đầu tin”. Ngay khi ấy, mọi người đã thấy ‘sợ’. Sợ, vì nghĩ rằng có sự sống đâu đó ở ngoài đây, chốn này. “Bắt đầu tin”, là khởi đầu sống một cuộc sống không hãi sợ nỗi chết. Cuộc sống, không nỗi sợ và cũng không bao gồm chỉ một hạn chế. Cuộc sống ấy, không do ta thiết lập mà là quà tặng. Quà sự Sống, khiến ta kinh ngạc, hồ hởi. Bởi thế, cũng đừng nên kiếm tìm sự sống nơi cõi chết. Nhưng, hãy cứ sống và sống ngay tại đây, chốn này!

Người cứu hộ, bao giờ cũng hứa hẹn nhiều điều như thế. Thế gian, ngập tràn khốn khó để có được người cứu hộ như thế. Tuy nhiên, họ là người chỉ biết nói năng hoặc giùm giúp, nhưng không tặng sự sống có “dậy nguồn”. Đức Giêsu mới đích thực là Đấng Nhân Hiền duy nhất trao ban hết mọi sự. Ngài ban hết tất cả. Trao và ban, cả thân mình Ngài. Chính đó là Phục Sinh quang vinh cho mọi người.

Tin Mừng thánh Gioan, vẫn quan tâm đến “hừng đông” của niềm tin rất thực, nhờ đó khiến người người thêm phấn khởi. Khi viết lên những giòng chữ đầy vui mừng: “Bấy giờ môn đồ kia, người đã tới mộ trước tiên, cũng đi vào. Ông đã thấy, và đã tin.” (Ga 20: 8) Bản Hy Lạp không rõ ràng, dứt khoát với câu: “Ông đã thấy, và bắt đầu tin…”  Tức, ông chưa đạt niềm tin trọn vẹn cho đến khi Đức Chúa chợt đến vào xế hôm Chủ nhật Phục Sinh ấy và ban cho họ Thần Khí Ngài. Chính Thần Khí mới là Đấng khiến “đồ đệ tin một cách thực tình” vào Sự Sống.      

“Và từ đó…” tức: từ đó về sau, đến với Galilê là để cất nhắc người nào đó khỏi nỗi chết. Để, ta hiểu rằng: dù sao đi nữa, cũng chẳng nên nói chỉ mỗi sự sống tốt đẹp, thôi. Nhưng hãy cứ tin vào sự sống. Sống cuộc sống đích thực. San sẻ cuộc sống thực, để rồi sức mạnh của phục sinh tràn đầy sẽ đổ dồn vào với niềm tin ta đang sống, ngõ hầu lấy đi mọi “đá tảng” cản ngăn sự sống rất đích thực. Và nâng nhấc mọi người để họ cũng sống đích thực như ta. Thế nên, hãy đem đến cho mọi người phục sinh đích thực vào trong cuộc sống có trỗi dậy, phấn khởi.

Thời trước, người người có truyền thống cổ mang tính chất cũng rất “Gioan” qua đó còn bàn luận: có thể, Giêsu Đức Chúa chưa hoàn toàn sống lại thật! Cũng có người lại cho rằng: Ngài sẽ còn trỗi dậy ngày một nhiều hơn, để rồi ngang qua động tác trỗi dậy, ta nâng nhấc người người khỏi tính chất rất chết chóc của họ. Có làm thế vào Tiệc Thánh, ta mới chứng minh được rằng Chúa đã sống lại thật. Có làm thế, người người mới không còn thắc mắc và tin chắc rằng Ngài vẫn trỗi dậy ngay trong gia đình, cộng đoàn mình đang sống. Sống rất thực, ở nơi này nhiều hơn nơi khác. Có làm thế, người người sẽ không tập trung vào việc so sánh, ganh đua, tị nạnh để chỉ chú trọng vào việc nâng nhấc hết mọi người.

Nhiều truyền thống trong Đạo vẫn cứ coi thời buổi hôm nay, bắt đầu từ chủ nhật Chúa Phục Sinh đến chủ nhật Chúa Thánh Thần Hiện đến vào ngày Ngũ Tuần, là thời điểm của Thần Khí mới Chúa phú ban, cũng rất đúng. Chay mùa kiêng khem và tuần lễ thánh xưa nay vẫn là mùa của tháng ngày cần “vượt qua”. Lễ Thánh Thần Ngự đến, mới là kỷ niệm tính hiệu năng của phục sinh, trỗi dậy. Có quan niệm như thế, rồi ra ta sẽ nguyện cầu Phục Sinh thể hiện đúng cách cứ đến mãi, với mọi người.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San nxb Hồng Đức 2014, tr. 97-99)
 
Có những người cảm nghiệm về “cái chết” cũng rất mệt, vì nhiều han hỏi như câu truyện kể nhè nhẹ ở bên dưới:

“Trong một khách sạn lớn một bà hỏi anh gác thang máy:
- Lên xuống mãi thế này anh có mệt không…
- Thưa mệt ạ.
- Lên mệt hơn phải không…
- Thưa không ạ.
- Vậy thì xuống mệt hơn à…
- Thưa không ạ.
- Khi ngừng…
- Thưa không ạ.
- Thế thì khi nào anh mệt…
- Khi gặp những người hỏi nhiều..”
(Truyện kể trích dịch từ mạng vi tính, cũng rất mệt).

Mệt, nhưng không chết. Hoặc, “mệt chết được” như nhiều người vẫn bảo thế. Bảo như thế, là bảo về nhiều thứ “chết mệt” ở đời người. Những người đang sống tưởng chừng như chết được, vì quá mệt với đời người và người đời.

Thế đó, là truyện kể cũng lai rai rất “phiếm loạn” ở đây đó, như câu chuyện về đời người có nỗi chết hoặc “nỗi hết” mà chẳng ai muốn đi vào trong đó, thế mới phiền.

Thế đó, là kết cuộc một chuyện phiếm rất sống/chết nhưng không đi vào “cõi hết” vì chẳng đem được niềm vui cho ai, cho cuộc đời như người nghệ sĩ từng diễn-tả.


Trần Ngọc Mười Hai
Và những chuyện
Nghe qua tưởng chết được
Nhưng không phải thế.   

Friday, 16 March 2018

“Yêu em như thuở nào”,



Chuyện phiếm đọc sau Lễ Lá năm B 25-3-2018

“Yêu em như thuở nào”,
tình yêu còn biên đầy trang giấy,”
(Nguyễn Trung Cang – Còn Yêu Em Mãi)

(Thư Rôma 5: 5-8)

Đó là quả quyết của người đời, khi người đương yêu nói cho nhau nghe những lời đầu tiên đầy ắp những thương yêu, tình-tứ. Còn, dưới đây là lời của người nhà Đạo, đã và đang thuyết phục lẫn nhau về tình-yêu, tình người và tình Chúa luôn thương yêu hết mọi người:

“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta,
nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.
Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì
vì còn là hạng người vô đạo,
thì theo đúng kỳ hạn,
Đức Kitô đã chết vì chúng ta. …
Đức Kitô đã chết vì chúng ta,
ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”
(Thư Rôma 5: 5-8)

Thế đó là thư từ của đấng bậc hiển-thánh quả quyết với những người cùng một niềm thương yêu, làm bằng chứng. Bằng chứng qua thư từ, vẫn cứ khô-khan, lan man nhiều triết-thuyết có lý có tình. Nhưng mang tính thi-ca như lời thơ còn hát mãi, những điều sau đây:

“Yêu em như thuở nào,
Tình yêu còn đong đầy trang sách.
Dù biết trái tim đã già,
Mà những thiết tha chẳng nhòa,
Tình cũ vẫn nghe ấm nồng,
Gọi tên nhau lúc cô đơn,
Để nghe sưởi ấm tâm hồn.
Em ơi đây tiếng đàn,
Lời ca dệt ân tình năm tháng,
Câu ca hay khúc nhạc
Tình yêu còn đong đầy khao khát,
Dù có cách xa mỏi mòn,
Mà những dấu yêu mãi còn,
Sưởi ấm xác thân héo gầy,
Tình yêu như gió đem mây,
Gọi mưa giăng kín khung trời.
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Thi ca/âm-nhạc cũng sâu sắc, thấm-thía tràn đầy tình người ở huyện. Nhưng dẫu thế, vẫn không bằng những lời thực tế trong đời sống vui thươi vợ chồng như câu chuyện lòng vòng đầy cãi vã, ở bên dưới.

“Truyện rằng:

Trong một buổi nhậu, một ông nhà binh phát biểu:
-Các ông có biết không?  Mỗi cuối tuần, tôi chở vợ đi chợ.  Tôi đẩy xe theo sau bà cả buổi, khi mua đầy xe, tôi hỏi bả “Về chưa?”
Bả nói:  Ông chở dùm tôi lại chợ X mua một chai nuớc mắm.
Tôi hỏi: Sao bà không mua ở đây luôn?
Bả nói:  Ở đây nuớc mắm  $2.99, còn chợ kia chỉ có $2.88.
Từ chợ nầy đến chợ kia, phải lái xe mất 20 phút, bả quên tính tiền xăng rồi sao? 
Tôi với bả bắt đầu… cãi nhau.

Một ông khác chen vô:
- Còn tôi, khi đang lái xe, tôi quẹo phải, bả nói sao ông không quẹo trái. 
Tôi chạy nhanh, bả kêu tôi chạy chậm lại. 
Tôi chạy chậm, bả nói ông chạy như rùa bò.
Tôi nói: Để tôi order hãng Toyota chế cho bà chiếc xe có 2 tay lái để bà khỏi phải lái xe bằng miệng.  
Và thế là ... cãi nhau.

Ông nhà bếp lắc đầu và kể câu chuyện ông nghe đuợc như sau:
Có ông kia lái xe chở bà vợ trên xa lộ quá tốc độ cho phép, bị cảnh sát quay đèn chận lại.
- Cảnh sát hỏi: Ông có biết lỗi gì không?  
Ông chồng chưa kịp trả lời, bà vợ tươm tướp la lên:
- Tôi đã nói với ông rồi, ông chạy bạt mạng 7, 8 chục miles có ngày bị phạt mà ông không chịu nghe!
Ông chồng  giận dữ la lên:
- Để tôi lo, bà câm cái mồm bà lại đi!
Không ngờ ông Cảnh Sát này biết tiếng Việt, liền hỏi bà vợ:
- Bộ chồng bà ở nhà cũng nạt nộ bà như vậy à?
Bà vợ liền trả lời:
- Đâu có .......  Bữa nào ổng uống say, ổng mới la như vậy.
Thế là ông chồng nhận một lần 2 cái tickets: 1 vượt tốc độ cọng thêm 1 uống ruợu lái xe.
Thế là vợ chồng ..... cãi nhau.

Một ông khác nghe nói nãy giờ, liền nhảy vô:
Bà ngoại con Tép của tui cũng không thua ai.
Bả nói :
- “Sao tôi thấy ông ở Mỹ cả mấy chục năm rồi mà ông không hội nhập đuợc gì hết.”
Tôi tức quá, trả lời: 
-“Bà không thấy tôi hội nhập sao? Ai cao máu, tôi cũng cao máu, ai cao mỡ, tôi cũng cao mỡ, ai tiểu đường, tôi cũng tiểu đường, tôi còn hơn biết bao nhiêu người cái bệnh thấp khớp !  Bà còn muốn tôi hội nhập gì nữa?”
Bà nói: 
-“Ý tôi muốn nói là ông không biết galant như người Mỹ, mở cửa xe cho vợ, mua bó hoa tặng vợ ngày Birthday, ngày Valentine!.....”
- Trời ơi! Tôi cũng  muốn mở cửa xe cho bà lắm chứ, nhưng sợ người ta nhìn vào, người ta nói: “Thân bà cả một đống thịt, cọp ăn 3 ngày không hết, bộ bà bị bịnh bại liệt gì mà không mở cửa xe được". Còn birthday của bà, thì tôi mua cho bà 1 bó rau muống, 1 bó hành, 1 bó ngò, bà còn muốn gì nữa.?
Thế là ông bà ngoại của con Tép bắt đầu ....... cãi nhau.
Một ông nhà văn nãy giờ ngồi trầm ngâm, cười mím chi, chậm rãi kể:
Có một ông chồng đang đi sau xe chở quan tài của vợ đưa ra nghĩa trang. 
Ông bạn đi gần bên thấy ông này sao cái miệng cứ nhép nhép như đọc kinh. 
Ông bạn tò mò đến gần bên thì nghe ông này không phải đọc kinh mà đang hát!
Ông bạn hỏi: 
-“Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát?”
Ông chồng trả lời: 
-“Từ ngày cưới bả đến giờ, chỉ có hôm nay, tôi đi chung với bả mà không..... cãi nhau”

Một ông khác chen vô:
Năm rồi, tôi phải vô bệnh viện mổ van tim. Bà vợ buồn rầu ngồi bên than:  
-“Ông ơi, ông mà chết thì tôi cũng chết theo ông”
Tôi hoảng hồn: 
-“Thôi bà ơi, làm ơn để tôi đi một mình cho thanh thản, khỏi phải đi chung, để khỏi phải ..... cãi nhau với bà!”

Thôi thì, chuyện cãi vã suốt ngày và có khi suốt đời giữa người vợ và ông chồng, kể mãi không hết. Không hết, tức: chẳng bao giờ hết chuyện “nảy lửa”; nhưng cãi xong, hai người lại vẫn cứ yêu nhau và ở mãi suốt đời bên nhau.
 
Thế đó, là câu chuyện đời thường ở ngoài đời, cũng rất thường. Còn, chuyện của nhà Đạo cũng lắm công phu, cũng đầy ý-tứ với ý-từ thần-học, học mãi vẫn cứ quên. Thế nên, nay xin kể lại thêm một lần nữa, để bà con xa gần ý-thức mà thực-hiện sống đời thực-tế rất thiết yêu.

Chuyện yêu đương, được đấng bậc nhà Đạo biện-luận bằng ngôn-từ và cung-cách bài bản Chúa tỏ bày tình Ngài thương ta, như sau:

“Thiên-Chúa tỏ bày tình thương yêu độ lượng của Ngài ngang qua mọi người, thì việc ấy không còn mang tính thánh thiêng/huyền nhiệm cách trọn vẹn nữa. Mà, đó chỉ là hành xử mang tính xảo thuật đầy kinh ngạc, thôi.

Vấn đề là, làm sao ta nhận ra cách Chúa tỏ bày tình Ngài thương ta, nơi nhiệm tích Thánh?
Việc này chỉ hiểu được khi ta tin và nhận rằng Chúa tỏ cho ta biết qua mặc khải và bằng tâm tình người dự đối xử với nhau. Nếu không, người dự Tiệc chỉ ngồi đó nghe/nhìn/ca hát cách biếng nhác/thụ động không là phụng vụ.

Thật ra, ta còn thực hiện việc “dọn sạch” cả trong đời của mình nữa. “Dọn sạch” cuộc sống ở nhà. Tại sở làm. Với bạn bè và cho bạn bè, như thế mới đúng. Nên, “dọn sạch” là việc trước nhất Chúa tỏ cho mọi người biết rõ đường lối Ngài đối xử với con người. Nếu nghĩ rằng: việc tiên quyết ta phải làm là: xây dựng đền thờ mà thôi, tức là ta đã lật ngược ưu tiên trên dưới, được sắp đặt. Chúa nhập thể làm người, Ngài đâu thực hiện ở chốn thánh thiêng/đền thờ hay hội đường. Nhưng, ở thôn làng nhỏ bé có căn phòng bé nhỏ để thú bầy nghỉ ngơi, thế thôi. Nên, “dọn sạch” cuộc sống huyền nhiệm qua nghi tiết phụng vụ, là bắt đầu từ nhà.

Làm chuyện lành thánh ở nhà và với người thân, là đã chứng tỏ tình thương yêu của Chúa. Làm như thế, tức cử hành nghi tiết phụng vụ rất huyền nhiệm! Ngôn ngữ đời thường cho thấy: thật ra không phải như thế hiểu theo cách trọn vẹn. Trên thực tế, ta không thể cử hành nghi tiết phụng vụ tại nhà của Chúa mà lại không thực hiện điều ấy, ngay nhà mình. Bí tích rửa tội sẽ không long trọng và đủ nghĩa nếu không có tiệc mừng sinh nhật ngay sau đó. 

Bí tích xá tội ở toà cáo giải, cũng sẽ không mang ý nghĩa thực thụ, nếu ta không được người thân thuộc nhà mình cảm thông yêu thương, ngay trước đó, khi sai phạm điều gì khó coi. Cũng thế, Tiệc Thánh sẽ không là chuyện thực tế nếu trước đó, ở nhà, ta chẳng có gì để ăn. Cũng thế, lễ cưới nhà thờ sẽ không đáng để đôi trẻ ký kết sống trăm năm cuộc đời, nếu hai người không thực sự yêu nhau và cưới nhau. Cả việc hai vợ chồng mới cưới ôm hôn hoà bình trước mặt mọi người, ở nhà thờ, sẽ không còn ý nghĩa nếu cả hai người không thực lòng yêu nhau, ngay tại nhà mình. Xức dầu kẻ liệt, sẽ là việc phiền toái rất vô nghĩa nếu không ai chịu ở lại để đỡ nâng người bệnh đang cần mọi người đến giúp.

Vậy, cử hành nghi tiết phụng vụ ở nhà thờ để làm gì? Có nghĩa gì?   
Dĩ nhiên, ta vẫn cần nghi thức như thế. Nhưng, có nhiều cách diễn tả tình thương của Chúa, mà cuộc sống ở nhà hoặc sinh hoạt nơi làm việc, hoặc nơi bạn bè vui chơi, đều giới hạn để ta có thể “cưu mang” tình nồng thắm rất yêu thương. Ta vẫn cần khung cảnh lớn rộng hoặc nơi thuận tiện để mọi người trong gia đình cùng đến với nhau mà tỏ bày tình thương yêu Chúa uỷ thác. Vẫn cần nơi rộng rãi để thực hiện việc ấy cho kết quả. Tuy nhiên, kết quả của nơi chốn lớn rộng như đền đài thánh thiêng vẫn tuỳ vào khung cảnh nhỏ bé, ở gia đình trước đã.

Phải chăng những thứ ấy làm ta dễ tỏ bày tình thương yêu với mọi người, và với nhau hơn? Làm thế có để cho động thái diễn tả tình thương yêu mật thiết hầu tỏ bày thực chất điều Chúa đòi hỏi nơi mỗi người không? Bởi, Chúa vẫn cùng ta sinh hoạt trong cuộc sống, ở đời.

Thập niên qua, người Công giáo cũng đổi thay theo chiều hướng tốt. Nhất là chiều hướng hiểu rõ nhiệm tích thánh thiêng đối với mình. Có thể, họ không dùng ngôn từ chính xác để nói lên điều đó, nhưng thực sự hiểu biết hơn. Có thể, họ không cần ai giải thích để có cảm giác giống như thế, ngang qua các đổi thay trong phụng vụ. Có thể, các cấp lãnh đạo tôn giáo không mấy thích thú đón nhận họ khi họ làm thế. Tuy nhiên, nay mọi người Công giáo làm được việc ấy, đó là chuyện tài tình.

Tham dự Tiệc thánh mỗi tuần, là để nhận lãnh phép lành từ Hội thánh. Ơn ấy, không chỉ hoá giải lỗi lầm ta vi phạm mà thôi, nhưng còn là tiến-trình mang đến cho mình biểu-hiện của tình thân-thương mật-thiết. Có điều là: để ý một chút, ta sẽ thấy Hội thánh nay cũng hơi khác Nước Trời cần có, như dạo trước. Hội thánh phải là hội của các thánh biết sống đời lành mạnh, biết khám phá ra Đức Kitô và tin vào Ngài. Hội thánh phải nhận chân rằng: nhóm hội rất thánh của mình là chốn đền đài nơi đó mọi người sống khác xưa, vì niềm tin và tình thân-thương do niềm tin mang đến. Tin rằng: Chúa vẫn yêu ta và chờ đợi ta yêu Chúa đang hiện diện nơi mỗi người và mọi người.

Quả thật, ngày nay Hội thánh vẫn tưởng nhớ ngày Chúa ban ơn lành đến với mọi người. Ơn lành và thánh Chúa ban không là thành-phần của một trị-liệu tiểu-tiết, rất bán lẻ. Thế nên, cũng đừng tìm cách mua bán/đổi chác mọi thứ để được ơn lành Chúa ban. Bởi, Chúa của ta đâu nào ban ơn theo kiểu bán buôn. Nên, ta hãy tỏ bày niềm cảm kích biết ơn với nhau và cho nhau nhiều hơn, vì Ngài độ lượng nên mới giới thiệu với ta tình Cha yêu thương hết mọi người.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San nxb Hồng Đức 2014, tr.76-80).0

Biến đổi chính mình để mang yêu thương đến với mọi người, vẫn được thể-hiện qua nhiều cách, trong đó có thi-ca/âm nhạc luôn đồng hành với con người vào lúc. Cả những lúc ta mang đầy tình tự thương yêu qua ca-từ được hát tiếp như sau:

“Này em hỡi, ta mơ ngày sẽ tới,
khi tương phùng,
em khóc cho niềm vui vì hạnh phúc.
Ngọt hay đắng,
trong cuộc đời mưa nắng,
ta luôn cười trong giấc mơ hạnh phúc xưa tuyệt vời.
Riêng ta nơi núi rừng,
về đêm càng nghe hồn băng giá,
câu ca hay khúc nhạc,
càng thêm sầu cho tình tan nát.
Dù biết cách xa với đời,
dù biết thủy chung chẳng rời,
mà vẫn xót xa tháng ngày,
chờ ta chi nữa em ơi,
còn đâu giây phút tuyệt vời “.
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

“Còn đâu giây phút tuyệt vời”, không chỉ là lúc hai người hoặc nhiều người yêu đương như những người đương yêu. Thế nhưng, “Ngọt hay đắng, trong cuộc đời mưa nắng, ta luôn cười trong giấc mơ hạnh phúc xưa tuyệt vời”. Tuyệt vời hơn, có lẽ là chuyện của mọi người đã từng yêu và còn yêu nhau mãi, như được minh-chứng qua câu truyện kể ở bên dưới:

“Truyện rằng:
Thời xửa thời xưa, có ông phú hộ nọ sinh được bốn người con trai. Khi bốn người con lớn lên lập gia đình, ông bèn đem một phần gia tài chia cho bốn người con, phần còn lại vợ chồng ông giữ để dưỡng già. Mấy năm sau khi vợ ông qua đời, mấy người con sợ rằng ông sẽ tìm vợ mới, lúc có con, gia tài này phải chia cho những đứa con khác. Chúng bàn với nhau thuyết phục cha, về ở với mình, săn sóc cha thật chu đáo, sung sướng; để ông không cảm thấy cô đơn, khỏi cần phải tục huyền. Ðược ít lâu, chúng thuyết phục ông phú hộ chia hết tài sản cho chúng. Bùi tai và thấy không cần giữ riêng cho mình tài khoản nào, ông đồng ý đem gia tài chia hết cho bốn đứa con.
Sau đó ông đến ở với đứa con thứ nhất, nhưng đứa con này nghe vợ, chỉ được ít hôm, bảo ông đến ở nhà đứa em kế. Cứ như thế, không ở được với đứa con nào. Không một đồng xu dính túi, người cha bị bỏ rơi, phải đi khất thực từng nhà. Bấy giờ cây gậy cũng còn có ích hơn là những đứa con. Cây gậy đó có thể giúp ông già xua đuổi những con chó, dò dẫm  trên đường, tránh những vũng nước và giúp ông những lúc yếu chân sắp ngã.

Câu chuyện này sao giống câu chuyện của một bà mẹ ở Quận Cam.  Sau Tháng Tư 1975, hai vợ chồng đem một đàn con vượt biển sang Mỹ. Trong nhiều năm, ông bà vừa nuôi con khôn lớn, ăn học thành tài, dựng vợ gả chồng cho con, vừa tậu được một căn nhà khang trang trong vùng Bolsa. Sau khi người chồng qua đời ít lâu, bà vợ được con cái thuyết phục nên bán ngôi nhà đi, chia đều cho các con rồi về ở với con cháu cho đỡ cô đơn. Bà nghe theo, và cũng lần lượt ở với nhiều đứa con, chịu cảnh bạc đãi và cuối cùng bà quyết định phải rời khỏi nhà những đứa con ấy. May thay, trên đất Mỹ, bà già cô đơn này còn có chỗ nương tựa, đó là một món trợ cấp nhỏ và ngôi nhà “housing;” mà chính phủ đã đành cho bà. Nếu ở một xứ sở khác, chắc bà cũng cần đến một cây gậy.

Những đứa con mua nhà mới có thể đã không tính đến một chỗ cho cha mẹ già khi xế bóng, nhưng tôi biết nhiều bậc cha mẹ khi luống tuổi, con cái lập gia đình đi xa cả rồi, mà vẫn giữ cái nhà cũ nhiều phòng, với ý nghĩ dành cho con lúc trở về thăm viếng. Tôi có một người bạn được con trai bảo lãnh sang Mỹ, nhưng chỉ ít lâu sau cô con dâu muốn chồng bán căn nhà đang ở và đi mua lại một cái nhà nhỏ hơn, lấy lý do để tiết kiệm cũng là lý do để cha mẹ chồng phải dọn ra.

Cha mẹ đối với con lúc nào cũng hết lòng. Mẹ có thể lăn vào lửa để cứu con, cha có thể đổ mồ hôi nhọc nhằn; để đứa con có được một nụ cười hạnh phúc, nhưng những đứa con, khi đã có gia đình riêng của mình, không giữ được sự chăm sóc, lo lắng cho đời sống của cha mẹ. Người mẹ nào cũng mỗi đêm kéo chăn đắp cho con, sờ trán con, hạnh phúc theo từng nụ cười của con, nhưng bây giờ con ở xa, thời giờ dùng để gọi điện thoại về thăm cha mẹ đôi khi cũng hiếm hoi.

Ông Chu Dung Cơ nói về mối liên hệ giữa cha mẹ già và con cái:
“Cha mẹ thương con là vô hạn, con thương cha mẹ là có hạn. Con bệnh cha mẹ buồn lo. Cha mẹ bệnh con đến nhòm một cái, hỏi vài câu thấy thế là đủ; rồi rút lui êm ả. Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái, cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào. Nhà của cha mẹ là của con. Nhà của con không phải là nhà cha mẹ. Ốm đau trông cậy vào ai? Nếu ốm đau dai dẳng có đứa con hiếu thảo nào ở bên giường đâu (cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử)”. Và lời khuyên đối với các bậc cha mẹ là: “Khác nhau là như vậy! Người hiểu đời coi việc lo cho con là nghĩa vụ, là niềm vui không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình”

Nhiều người con cũng có nuôi cha mẹ. Luận Ngữ chép, Tử Du hỏi về đạo hiếu. Khổng Tử đáp: “Ngày nay người ta cho rằng nuôi cha mẹ là hiếu, ngay cả đến chó ngựa kia, người ta cũng nuôi, nhưng nếu nuôi mà không kính hiếu cha mẹ; thì có khác chi!”  Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn, con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm, nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.

Người thợ hớt tóc cho tôi biết về con cái của ông, cả hai đứa con đều có nhà riêng, cùng ở trong quận Cam, nhưng không mấy khi chúng điện thoại hỏi thăm ông. Tháng trước, ông bệnh, nằm nhà một tuần lễ; mà cũng chẳng đứa con nào ghé qua thăm.. Ông nói thêm: “ Chỉ trừ lúc nào chúng cần nhờ đến ông việc gì đó ”, và buồn bã kết luận: “Ở Mỹ này, có chín đứa con, cha mẹ già bệnh cũng phải vào viện dưỡng lão thôi!”

Tuy vậy, viện dưỡng lão ở Âu Mỹ  mang tiếng là văn minh, hiện đại, nhưng liệu rằng đây có phải là nơi yên ổn cho những ngày cuối cùng của tuổi già không? Tại các viện dưỡng lão trên đất Mỹ mỗi năm có hàng chục nghìn trường hợp khiếu nại vì cách đối xử của nhân viên như bỏ bê, đánh đập, đại tiểu tiện, ói mửa mà không dọn dẹp, không cho uống nước, tệ hại nhất là đối với những bệnh nhân bị lẫn. Năm ngoái, phúc trình của Bộ Y Tế tiểu bang Minnesota Hoa Kỳ cho thấy chỉ trong vòng 5 tháng đã có 15 trường hợp bệnh nhân mất trí nhớ bị hành hạ, trong đó có những vụ như bị chọc ghẹo liên tục, bị nhổ nước bọt vào miệng. Phải chăng nhà dưỡng lão, chặng cuối đời của người già là chốn địa ngục có thật trên trần gian như thế!

Vậy thì con cái có hiếu tâm, xin cầu nguyện cho các đấng sinh thành sớm ra đi trước khi họ trở thành những người mất trí lú lẫn, nằm suốt ngày một chỗ, tiêu tiểu không kiểm soát được. Thấy cha mẹ lớn tuổi mà còn minh mẫn, mạnh khỏe nên mừng, mà thấy cha mẹ ra đi nhẹ nhàng, trước khi phải chịu những cảnh đau lòng của tuổi già lại càng mừng hơn.

Tuy vậy, rất nhiều gia đình người Việt trên xứ người có được niềm an ủi là họ có những đứa con Việt Nam, nhất là những đứa con của một gia đình nghèo khó, lớn lên trong chiến tranh và thông cảm được nỗi thiệt thòi bất hạnh của cha mẹ. (Nguồn Internet -Nắng Cali sưu tầm)

Sự thực ở đời, đôi khi là như thế. Nhưng không phải chỉ như thế. Có nhiều trường-hợp cũng không đến nỗi nào, tùy cách người đời xử sự với nhau, mà thôi. Nói cho cùng, các cụ xưa nay đều hay nói chữ, cứ bảo rằng: “Mặn này, cho bõ nhạt ngày xưa.” Ý-nghĩa của câu nói, có thích hợp với tôi và với bạn hay không, cũng tùy mỗi người và mọi người. Hãy cứ nhìn vào mình và vào người khác, để rồi sẽ có một nhân-sinh-quan thích hợp với chính mình.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng đang trải qua
Những tháng ngày dài
Cuối cuộc đời.