Saturday, 29 October 2011

“Vầng trăng từ độ lên ngôi,”


“Vầng trăng từ độ lên ngôi,”
“Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ,
Em ngồi quay tơ.
Quay đều! Quay đều! Quay đều!
(Phạm Duy – Vần Thơ Sầu Rụng)

(2Cr 9: 8)

“Quay đều! Quay đều! Quay đều!” có thể: là em vẫn cứ làm thế cả vào ngày của Chúa. Giống nhiều người. Những người già và trẻ nhỏ, ở nông thôn chốn thị thành. Thay vì, hát bài “Một mình đi lang thang trên đường. Buồn hiu hắt, và nhớ bâng khuâng…”, ở đâu đó chốn nhà tu hay nhà tù. Nhà tu hay nhà tù, cũng lớn cũng rộng nhưng không khác nhau là mấy nếu cứ ngồi lù lù, ru rú ở hàng ghế cuối , tồi đầu óc lơ mơ, nào thấy thích. Phải chăng đó là tâm trạng cứ như “quay đều” của người đi Đạo, rất hôm nay?

Người đi Đạo hôm nay, chí ít là người trẻ, có ngồi ở nhà hay ra quán xá chiều hôm suốt buổi, cứ lai rai ba sợi đến tê tái, với đầu óc cứ thế mà quay đều như ca từ người nghệ sĩ, nay cứ hát:

“Ðể tóc rối vần câu thơ sầu rụng
mái tóc cũng buồn theo thơ
cũng buồn theo thơ
Quay đều! Quay đều! Quay đều!”
(Phạm Duy – bđd)

            Nói theo kiểu thơ văn lãng đãng đầy những ý tứ và ý từ, thì: chừng như người đi Đạo còn rất trẻ nay có cảm tưởng như Hội thánh trời Tây nhìn họ như đang ở với “Vầng trăng từ độ lên ngôi”, “quay đều” lửng lơ ở bầu trời, nhiều thổn thức!

            Nói theo kiểu chuyên gia phụng vụ là tự hỏi và/hoặc đặt ra thắc mắc/vấn nạn cho riêng mình, như vị nữ tu Dòng Giuse là người chị tên Carmel Pilcher, khi trước chuyên trách dạy phụng vụ cho giới trẻ Sydney, nay có đôi giòng chảy tỏ bày như sau:

“Vừa rồì, tôi được mời đi thuyết trình về “Ý Nghĩa của Thánh Lễ trên Giòng chảy” do nhóm đồng đạo trẻ người Úc tổ chức tại thủ phủ New Castle, Sydney. Vừa đặt chân tới điểm hẹn, tôi đã yêu cầu ban tổ chức cho tôi được phép đàm đạo với cử toạ hơn là bày tỏ lập trường của chính mình, bởi e làm thế tôi sẽ không đủ tư cách và sợ không phù hợp với mạch chính của Luật Phụng tự, có từ xưa. Ngay khi đó, tôi được phép cùng với Sophie, người điều khiển chương trình còn rất trẻ, để giúp người nghe được dễ thở.

Buổi hôm ấy là tổ chức cho cả người già lẫn giới trẻ, nên ngay khi bắt đầu, Sophie đã kêu gọi thính giả đổi chỗ ngồi để có thể chan hoà xen kẽ cùng nhau mà học hỏi. Cô nói với tôi: lớp trẻ muốn học hỏi về Tiệc Thánh Thể, và nhóm người đến dự hôm nay đặc biệt muốn biết giáo huấn của Hội thánh về đề tài này ra sao.

Sophie vẫn có quan điểm rất vững khi cô cho rằng lớp người trẻ không muốn cho nhóm mình bị đồng hoá xếp loại thành lớp người riêng rẽ trong phụng thờ, bởi thế nên họ không muốn lập ra những buổi phụng tư gọi là “thánh lễ giới trẻ”. Và Sophie cũng nhắc tôi về chuyện bảo rằng: cho đến nay ta vẫn chưa có thánh lễ nào dành riêng cho phụ nữ, nam giới hoặc cho người cao nhiên hết, thế thì tại sao lại phải lập một thánh lễ riêng cho giới trẻ?

Điều này khiến tôi suy nghĩ thấy cũng đúng, đặc biệt khi nhớ về truyền thống Phaolô vẫn coi tất cả dân con trong Đạo đều nên một trong Đức Kitô. Và thêm điều nữa cũng hữu lý, đó là: yêu cầu cộng đoàn tham dự Tiệc Thánh nên có động thái tập thể, rất cần thiết. Nói chung, phụng vụ Đạo Chúa tự bản chất vẫn là những động thái rất chung.

Với tôi, một trong những nhận định khá quan trọng là sự tương phản giữa phương án do người trẻ chọn với lối sống đạo của ông bà cha mẹ của họ. Dù cả hai nhóm người này đều am tưởng rằng Tiệc Thánh Thể là trọng tâm của niềm tin và sự hành Đạo của người Công giáo, nhưng người trẻ vẫn đến câu lạc bộ hoặc quán rượu mà vui chơi chẳng màng gì chuyện đi nhà thờ nhà thánh như thói quen khi xưa. Họ cũng chẳng cảm thấy bó buộc phải làm những việc theo luật Đạo gò bó. Nhiều người trẻ lại còn xa vời chuyện trói buộc phải đi lễ và còn đặt nó khỏi mọi vướng bận của đầu óc nữa. Chuyện ấy ăn sâu vào tâm khảm của người đi Đạo, nên hễ thấy có người trẻ đến dự lễ, ta đều biết là họ tự chọn điều đó.

            Ăn sâu vào tâm khảm nhiều nhất, với giới trẻ, có lẽ là những ca từ đi vào lòng người, như:

                                    “Để tóc rối vần (à ờ) câu thơ
sầu rụng mái cũ
                                    Em ngồi (ỳ ỳ) quay tơ
                                    Em ngồi (ỳ ỳ) quay tơ
Quay đều! Quay đều! Quay đều!”
(Phạm Duy – bđd)

            Vì câu thơ vẫn sầu và vẫn rụng, nên diễn giả lại vẫn thêm lời bàn để người đọc và nghe sẽ hiểu rõ hơn tâm trạng của giới trẻ, rất như sau:

Một số bạn trẻ trong nhóm vừa đi Madrid tham dự Đại Hội Giới Trẻ thế Giới 2011 về đã có dịp sẻ san kinh nghiệm mình vừa trải qua với chúng bạn. Nhiều bạn trong đám có nói điều làm em phấn kích hơn cả, là: các buổi Tiệc Thánh nho nhỏ trong đó em được cử hành chung với vị tuyên uý. Ngược lại, các em còn bảo: điều làm các em thất vọng hơn cả, chính là thánh lễ với Đức Giáo Hoàng. Đặc biệt nhất, là các em hơi bị lạc lõng và không được san sẻ hiệp thông rước bánh thánh.

Điều này làm tôi nhớ lại cùng một phản ứng như thế từ một số bạn trẻ đã tỏ bày vào dịp Đại Hội ở Sydney. Giới trẻ nói: hôm ấy họ có cảm giác như đến với Đại Hội chỉ như khán giả thưởng lãm sự hiện diện của vị Giáo tông thôi. Có em còn nói: lúc hát kinh Vinh Danh em đừng dậy hát trong khí thế vui say hào hùng thì lại bị một trong các người điều hành trật tự yêu cầu ngồi xuống kẻo làm khuất mắt người ngồi sau.

Buổi chiều hôm ấy, tôi ra về mà lòng thấy vui và hy vọng. Theo tôi nghĩ, thay vì mình cứ than phiền giới trẻ Công giáo vắng mặt trong các thánh lễ ngày của Chúa, ta nên mừng vui khi thấy họ có mặt cùng dự lễ Giáng Sinh và Phục Sinh với gia đình họ, và cũng tham dự một đôi buổi phụng vụ.    

Quan sát kỹ, tôi thấy chừng như nguyên nhân dẫn đến quan ngại này, lại là chuyện ta cứ giữ mãi một lối cử hành phụng vụ như hồi nào. Vào các lễ do Đức Giáo Hoàng cử hành, thường thì giáo dân tham dự vẫn rước Mình Chúa đã truyền phép trước đó; nhưng kỳ vừa rồi ở Madrid có trục trặc là các bánh thánh bị trận mưa lớn làm tan biến, chính vì thế mà một số người tham dự không được rước Mình Chúa như đã định.

Cũng có vị đề nghị là Đại Hội ở Madrid nên tạo dịp để ta có thể trở về với lối hành Đạo khi trước là rước Mình Máu Chúa một cách thiêng liêng, tinh thần. Đây là lối sùng kính trở về từ hồi xa xưa trong thánh sử, khi giáo dân tham dự không thể nào cử hành trọn vẹn cả buổi lễ, sống động được.

Về với sinh hoạt địa phương, cử hành Thánh lễ nay trở thành mối bận tâm không nhỏ, cho nhiều giáo xứ. Đồng thời, việc dịch lại văn bản thánh lễ Rôma sang tiếng Anh, như cơ hội để ta đổi mới một vài nghi thức phụng vụ, thế nhưng phần đông người đi lễ ngày Chúa Nhật lại không cố gắng đến dự buổi thảo luận hoặc học hỏi về phụng vụ, là bao nhiêu.

Đàng khác, có lần quan sát cung cách mà thừa tác viên thánh thể trong thánh lễ, tôi chỉ có thể kết luận rằng các thừa tác viên này chuẩn bị thánh lễ không kỹ càng cho lắm và cũng không lợi dụng cơ hội tốt đẹp này để đổi mới các động tác mình thực hiện. Mẫu số chung xem ra vẫn cứ là câu nói rất nghe quan từ nhiều vị: “Nội mỗi chuyện yêu cầu các vị ấy làm công việc thừa tác trong thánh lễ đã khó rồi, nói gì chuyện yêu cầu họ dự hội thảo với học hỏi.”

Một số giáo xứ lại còn sử dụng những bài vịnh hoặc thánh ca xưa cũ, rất cổ lỗ, chẳng có gì thay đổi từ trước thập niên ’70 đến nay. Một chuyện tương đối khá lấn cấn là: nhiều vị linh mục đã và đang quá tải với đủ mọi thứ công việc trong giáo xứ rồi, nếu ta yêu cầu các ngài cố gắng hơn, thì e rằng các ngài sẽ không tìm đâu ra thì giờ để học hỏi hoặc áp dụng bản dịch mới của thánh lễ. Có phụ huynh học sinh lại thích tham dự thánh lễ tổ chức tại trường lớp hoặc khoá học đặc biệt hơn, vì các lễ ấy được thày cô chuẩn bị chu đáo hơn lễ ở nhà thờ, vào mỗi tuần.

Có điều khá thích thú để nói rằng ấn bản in lần thứ ba cho bản dịch lễ Rôma tạo cho ta nhiều cơ hội để đổi mới. Có lẽ thay vì cứ bàn cãi nhiều xem bản dịch thánh lễ nào đúng hơn bản nào, ta cũng nên tìm hiểu nhiều hơn phần dẫn nhập ở đầu buổi lễ, tìm hiểu về những gì Hội thánh dạy để đảm bảo rằng các nguyên tắc đổi mới phụng vụ được Công Đồng Vatican II đưa ra, không bị đảo ngược. Càng ngày tôi càng nhận chân hơn rằng việc tìm hiểu, nghiên cứu học hỏi hoặc giáo huấn về ý nghĩa và cung cách thực hành Tiệc Thánh Thể vào ngày của Chúa, một lần nữa, cần được chú ý nhiều hơn nữa, trong cuộc sống của Giáo hôị, ngày hôm nay.

Càng cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm hiểu và đào sâu giảng dạy về Phụng vụ thánh lễ, rồi ra cộng đoàn ta sẽ thấy rằng: tham dự Tiệc Thánh là việc phụng thờ đáng để ta tung hô cảm tạ Chúa. Có thế, những người còn trẻ như Sophie và bạn bè của cô mới thấy hăng hái đến với cộng đoàn thường xuyên hơn. Đến, để thực sự góp phần vào việc phụng thờ chung với nhau, qua Tiệc Thánh.” (x. Carmel Pilcher, viết cho blog riêng của nhà Dòng 04/10/2011)       
       
            Nếu sau này Hội thánh cho phép, có lẽ ta cũng nên tìm ca từ nào khả dĩ nói lên cung cách gặp gỡ và cùng liên hoan với người yêu mình muốn gặp; để nói và hát những lời rất như sau:

“Nhẹ tay nhè nhẹ đôi tay
hương thơm lối xóm bay đầy thinh không
bay đầy thinh không
Quay đều! Quay đều! Quay đều!”
(Phạm Duy – bđd)

“Nhẹ tay” đây, không phải để quay đều một vòng tơ. Mà là, nhè nhẹ quay đều vòng quay cuộc sống có sinh hoạt phụng vụ của Tiệc Lòng Mến, rất vui say. Tiệc Lòng Mến, nay nên có tiếng hát rất “quay đều” nhiều ý tưởng về Đức Chúa đang hiện diện trong lòng người tham dự. Dự Tiệc Lòng Mến, mà như không dự gì hết cả. Vẫn chỉ là đến để “xem” lễ. Và, cũng để nghe hát và ca những ý/lời cùng giòng nhạc cứ quay đều đều như vòng quay lụa là, mà đầu óc vẫn cứ ta bà ở đâu đó. Hoặc có ca, có hát nhưng không để lòng mình cùng ca, cùng dự với cộng đoàn, đang hát ca. Nhiều lúc có hát ca, cũng chỉ là:

“Hằng năm tiếng lụa đưa theo
đêm đêm gió rét đưa vèo trong cây
đưa vèo trong cây
Quay đều! Quay đều! Quay đều!
(Phạm Duy – bđd)

            Hát gì thì hát. Họp bàn điều gì thì cứ bàn. Đôi khi cũng nên tưởng nhớ những truyện kể rất trữ tình, tức lưu trữ nhiều mối tình cũng khá đẹp, lại có kết hậu, rất như sau:

Sáu giờ kém sáu phút. Cái đồng hồ lớn hình tròn trên quầy tin tức ở nhà ga Grand Central Station cho biết như thế. Người sĩ quan trẻ tuổi cấp bậc trung úy vừa mới bước xuống từ đường rày xe lửa, ngẩng cao khuôn mặt rám nắng và nheo mắt để nhìn cho rõ giờ ghi trên đồng hồ. Tim anh đập mạnh. Chỉ sáu phút nữa thôi, anh sẽ được gặp người thiếu nữ đã tràn ngập một phần đời của anh từ mười ba tháng nay, người thiếu nữ anh chưa một lần gặp mặt, tuy nhiên những lời cô viết cứ bám miết anh không rời. Anh đứng thật sát quầy thông tin, để tránh đám người chen lấn. Hồi tưởng lại một đêm khi giao chiến ác liệt xảy ra, máy bay anh lọt vào giữa vòng vây của chiến đấu cơ địch, trung úy Blandford còn nhìn thấy rõ nét cười nham nhở trên khuôn mặt một phi công thù nghịch. 

Trong một bức thư trước đó, anh đã thú nhận với cô ấy là anh thường xuyên cảm thấy sợ hãi, và chỉ một vài ngày trước cuộc không chiến nói trên, anh nhận được trả lời của cô. “Tất nhiên là anh thấy sợ… mọi người can đảm đều thấy như vậy. Bộ Vua David trong Thánh Kinh không biết sợ sao? Đó là lý do Ngài viết Thi Thiên thứ 23. Lần sau nếu anh không cảm thấy bình an thì anh hãy nghe giọng em đọc cho anh nghe những câu thơ trong bài nhã ca này: “A ha, cho dẫu con đi qua thung lũng của cái chết thì con cũng không hề sợ hãi bởi có người bên con.” Và anh nhớ lại có lúc anh đã nghe tiếng nói của cô và anh lấy lại được sự bằng an trong tâm hồn. 

Giờ đây anh đang đi tìm gặp giọng nói đích thực của cô. Chỉ còn bốn phút nữa là tới sáu giờ. Vẻ mặt anh trở nên căng thẳng. Dưới vòm mái mênh mông, mọi người đang đi lại hối hả, giống những sợi chỉ màu đan xen trong cái mạng nhện. Một thiếu nữ đi qua cạnh anh khiến anh giật mình. Trên ve áo cô cài một bông hoa đỏ nhưng đó là bông của cây đậu chứ không phải một bông hoa hồng như họ từng hẹn trước với nhau. Vả lại, người thiếu nữ còn quá trẻ, trạc 18 tuổi, trong khi Hollis Maynell nói rõ ràng với anh là cô đã ba mươi. “Sao, như vậy đã sao?” Anh hỏi lại, và cho biết: ”Tôi cũng đã 32”. Thật ra, anh mới 29 tuổi. 

Trí óc anh trở lại với cuốn sách - cuốn sách mà Ơn Trên đã đặt vào tay anh trong hàng trăm cuốn sách Thư Viện Quân Đội đã gởi đến trại huấn luyện Florida. Đó là cuốn Of Human Bondage (Hệ Lụy Nhân Sinh) với những nét chữ ẻo lả ghi chú chằng chịt bên lề mỗi trang. Anh vốn ghét những ghi chú như vậy nhưng đây thì lại hoàn toàn khác. Anh không bao giờ nghĩ rằng một phụ nữ lại có thể nhìn thấu tâm hồn người đàn ông một cách dịu dàng, thông cảm đến thế. Tên của cô ghi trên tấm thẻ thư tịch: Hollis Meynell. Và anh đã tìm thấy địa chỉ của cô trên cuốn điện thoại niên giám của thành phố Nữu Ước. Anh viết thư và cô trả lời thư. Ngày hôm sau thì anh được tàu chở tới căn cứ, nhưng hai người đã giữ được đường dây thư tín. 

Trong mười ba tháng liền, cô tiếp tục hồi âm thư anh. Và còn hơn thế nữa, cả khi thư anh không đến, cô vẫn viết cho anh, và bây giờ thì anh tin rằng anh đã yêu cô và cô cũng yêu anh. Tuy nhiên cho dù anh xin cô nhiều lần, cô nhất định không gởi hình cho anh. Anh cảm thấy hơi phật ý. Nhưng cô giải thích: “Nếu như tình cảm của anh đối với em có chút gì chân thật thì dung nhan em như thế nào đâu có gì quan hệ. Giả sử như em đẹp đi. Em sẽ luôn luôn bị ám ảnh bởi cái cảm giác là anh muốn lợi dụng điều đó. Và một tình yêu như thế làm cho em chán ngán. Giả sử như em tầm thường (mà điều này thì có thể lắm). Và rồi em sẽ luôn luôn lo sợ rằng anh tiếp tục viết cho em chỉ vì anh cô đơn, không có người nào khác. Không, đừng đòi em gởi hình cho anh. Khi anh đến New York, anh sẽ gặp em và rồi anh sẽ tự quyết định lấy. Nên nhớ rằng cả hai chúng ta đều hoàn toàn tự do quyết định ngưng lại hay tiếp tục - muốn cách nào cũng được.” 

Chỉ còn một phút nữa là tới sáu giờ. Anh rít mạnh một hơi thuốc, cảm thấy trái tim mình vọt lên cao, còn hơn chiếc máy bay anh thường lái. Một phụ nữ trẻ đang đi tới. Khuôn mặt cô hình trái soan thanh tú, mái tóc màu vàng của cô buông thành búp sau vai. Mắt cô màu xanh của biển, môi và cằm cô xinh đẹp. Trong bộ đồ xanh ngọc thạch, cô là hình ảnh của mùa xuân tươi sắc. Anh bắt đầu bước về phía cô, quên để ý là cô không cài bông hoa hồng, và khi anh tới gần thì nụ cười gợi cảm thoáng hiện trên môi cô. 

“Anh chàng quân nhân đang đến với tôi đó hả?” Cô gái thì thầm. Không tự chủ được, anh tới gần hơn. Và rồi anh chợt trông thấy Hollis Meynell. Bà đứng ngay sau cô thiếu nữ, trạc ngoài bốn mươi, mái tóc màu xám nằm gọn dưới chiếc mũ cũ. Bà có hơi đẫy đà, chân đi đôi giày gót thấp. Nhưng bà cài một bông hồng trên ve áo bạc màu. Trong khi đó cô gái mặc bộ đồ xanh ngọc thạch vội vã bỏ đi.

Blandford có cảm tưởng như mình bị tách làm đôi: anh vừa tha thiết muốn bước theo người thiếu nữ, lại vừa cảm thấy phải đến với người thiếu phụ đã hòa hợp và nâng đỡ tâm hồn anh. Bà đang đứng kia, khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương và đầy thông cảm. Mắt thiếu phụ bừng lên một tia ấm áp. 

Trung úy Blanford không còn cảm thấy do dự nữa. Tay anh cầm cuốn sách bìa da mang theo - cuốn Of Human Bondage để thiếu phụ có thể nhận diện ra anh.. Đây không phải là tình yêu, nhưng là cái gì đó còn quý hơn nữa - một tình bạn mà anh hằng ấp ủ và mãi mãi biết ơn. Anh cúi chào người thiếu phụ, đưa cuốn sách về phía bà, cho dù trong lúc mở lời anh cảm thấy có cái gì đó cay đắng trong nỗi thất vọng. 

“Tôi là trung úy John Blandford, và bà… có phải là Hollis Meynell. Tôi vui mừng được gặp bà. Tôi mời bà đi dùng cơm tối nay nhé.” Khuôn mặt người thiếu phụ bừng lên ánh hân hoan cởi mở với nụ cười trên môi. “Ta không hiểu toàn bộ câu chuyện này ra sao cả, con trai ạ.” Bà nói. “Cô thiếu nữ bận bộ đồ màu ngọc thạch kia - người vừa mới bước đi đó - yêu cầu ta cài bông hồng này lên áo. Và cô ấy bảo nếu con mời ta đi ăn thì ta sẽ cho con biết là cô ấy đang chờ con ở cái tiệm ăn lớn bên kia đường. Cô ấy bảo đây chỉ là một phép thử thôi. Ta cũng có hai con trai trong quân đội nên ta coi con cũng như con mình vậy.” (trích truyện kể do Như Sao dịch từ bài viết của Sulamith Ish-Kishor với tựa đề «Hẹn Gặp Trên Sân Ga»).

Hẹn đâu thì hẹn, ở sân ga hay là Tiệc Lòng Mến mà có giới trẻ đến thì, cũng cứ được. Quay ở nơi nào thì cứ quay, dù quay không đều hay không nhiều, hãy cứ làm thế. Hết hẹn rồi quay/hết quay rồi hẹn, ngay khi phiếm. Cũng là ý kiến hay. Duy có điều : ý kiến phiếm loạn hôm nay cũng chẳng được nhiều, từ người viết. Bởi thế nên, bần đạo nay đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta hãy nghe bạn bè từng phiếm loạn và phiếm luận từ nhiều nơi, về nhiều chuyện. Cả, chuyện «hạnh phúc vô hình» rất nên phiếm, như sau : 

«Phiếm rằng: Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.
Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.
Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ quá, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.
Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất quay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:“Tốt quá rồi!”. Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?” - “Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!”.
Lúc này, vị Đại sư cười và nói: “Tôi đây cũng không có phương pháp gì đặc biệt cả, mà chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, nên cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó cũng chỉ là một, và bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?”.

            Thật ra thì, hạnh phúc của người trong truyện nằm sẵn ở tiền tài, của cải.  Còn phúc hạnh người nhà Đạo nay ở đâu? Trả lời câu hỏi rất nghe quan này, tuởng cũng nên về với Lời Vàng Kinh Sách, rất thân thương, có những câu/đoạn rất thế này, để còn nhớ:

“Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em
mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt,
vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện.”  
(2Cr 9: 8)

            Việc ta thường làm ở buổi lễ, vào khi còn trẻ hay đã cao niên, vẫn là việc thực hiện Lời Chúa khuyên dạy bằng hành động. Thực hiện, hoặc làm cách nào thì làm, vẫn cứ nên làm theo cách vui tươi, hiền hoà, hấp dẫn. Để rồi, ta lại râm ran nguyện cầu qua câu thơ rất đời, nhưng vẫn hát:

“Vầng trăng từ độ lên ngôi,
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ,
Em ngồi quay tơ.
Quay đều! Quay đều! Quay đều!”
(Phạm Duy – bđd)

            Quay đều! Và tham dự cho đều đặn! Đó mới là ý hướng cần có, rất hôm. Ở huyện này. Chốn cũ.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn muốn quay đều không như chong chóng.
Chỉ muốn mọi người cùng quay
trong cuộc sống đầy tình người.
Ở huyện, rất nhà Đạo.  

Saturday, 22 October 2011

Đêm cuối cùng


“Đêm nay, đêm cuối cùng”
“lệ buồn rưng rưng, lời hát thương đau.”
(Phạm Đình Chương – Đêm Cuối Cùng)

(Cô 1: 3)

            Đêm cuối cùng! Chao ôi đêm nào mà chả thế. Đêm nào, cũng buồn rưng rưng, lệ sầu. Thương đau. Thương và đau, cả khi hai người đều đã biết chuyện xảy đến với mình, nên đành hát:

                        “Nhịp bước bâng khuâng, ngoài phố lạnh,
                        giọt sầu rơi rớt hồn phiêu linh.
                        Nắm tay không rời.
                        Cố hé run run môi cười.
Lúc chia tay, bên trời. Tiếc thương.”
                        (Phạm Đình Chương – bđd)

            Chính vì lạnh lòng, nên vẫn “hé run môi cười”. Chính vì tiếc thương, nên cứ phải “chia tay bên trời”. Thế mới chết!. Buồn chết một điều, là: em và tôi, hai đứa xưa nay yêu nhau tha thiết là thế. Nay thì, tất cả chỉ còn mỗi kỷ niệm, rất nhớ nhung. Sầu buồn. Đáng tiếc. 

            Vì đã chia tay, nay nào thương tiếc! Vì có giọt sầu, nên hồn phách vẫn cứ “phiêu linh”. Và, người em yêu lại hát lên nỗi niềm rất nhung nhớ, như ca từ ở bài hát:

                        “Hãy tin một niềm,
                        Nỗi nhớ nhung xưa, vẹn tuyền.
                        Sẽ cho ngày về thắm duyên.
                        Em ơi, đêm cuối cùng gần nhau.
                        Sợ rằng một ngày mai, giấc mộng không thành.”
                        (Phạm Đình Chương – bđd)

            À thì ra. Vì nhớ nhung, thương tiếc rất hận sầu, nên người người mới bảo nhau: hãy “tin một niềm”. Và, niềm tin ấy. Nhớ nhung này, “sẽ cho ngày về thắm duyên”. Kẻo, ngày mai “giấc mộng không thành” cũng đành ly tan.

            Thế mới biết, thi ca/văn học vẫn có những giòng chảy nói lên tình tự nhung nhớ. Nhớ, “đêm cuối cùng” không bao giờ chấm dứt. Vẫn lẩn quẩn trong tâm tưởng của nhiều người. Chí ít, là những người đã và đang yêu. Hoặc, những người sẽ còn yêu mãi. Rất “thương hoài ngàn năm”.

            “Đêm cuối cùng” đầy tràn mối “thương hoài ngàn năm”, vẫn là chuyện dài ở huyện. Huyện dân gian. Huyện nhà Đạo. Vẫn cứ thương hoài ngàn năm, khi duyên tình của hai người đã vỡ đổ. “Đêm cuối cùng” cũng thương hoài ngàn năm, là cảnh tình của người anh/người chị ở trong Đạo, vẫn cứ tiếc cái “đêm cuối cùng” ngồi đó, ngó nhau. Để rồi, sẽ hẹn hò thương hoài ngàn năm, rất suốt đời.  

            Thương hoài ngàn năm, vì vỡ đổ, lại đã kéo theo nhiều khổ đau, xáo trộn. Xáo trộn, không chỉ mỗi tình tự thân thương giữa hai người thôi, mà cả vật chất tính theo trị giá tiền bạc nữa. 

Theo Washington Times trích dẫn số thống kê chính thức của chính phủ Hoa Kỳ cho biết nội trong năm 2008 đã có trên một triệu trường hợp ly dị đổ vỡ xảy ra ở nước này. Đổ vỡ do ly dị, lại đã kéo theo nhiều thiệt hại đáng kể, tính thành tiền. Trên thực tế, các phí tổn mà chính phủ Hoa kỳ đã phải xuất chi trong năm 2008 đã gia tăng từ $20,000 đến $30,000/một năm cho một gia đình của người mẹ đơn chiếc ở Mỹ. Kéo theo đó, là tổn phí tạo cho ngân sách quốc gia đang từ 33 tỷ đô lên đến 112 tỷ đô đánh vào các dịch vụ bao cấp phúc lợi (x. Carolyn Moynihan, MercatorNet 23/8/2011).

Xáo trộn có từ những đổ vỡ do ly dị, còn kéo theo nhiều đổi thay trong đời sống thực tế của gia đình. Thực tế cho thấy: chính con trẻ mới là kẻ gánh chịu hậu quả nghiêm trọng của ly dị, cả về chuyện kinh tế lẫn tài chánh.

W. Bradford Wilcox, một chuyên gia nghiên cứu có nhắc đến công cuộc khảo sát do Cơ quan từ thiện Pew Charitable Trust thực hiện vào năm 2010 cho biết tình trạng sống của con em gia đình vỡ đổ do ly dị, rằng: “Con em gia đình gặp cảnh ly dị đổ vỡ thường hay yếu kém về mặt kinh tế nên khó có thể mon men vào các chức vụ có mức lương cao hơn. Giả như Hoa kỳ muốn thấy sự ổn định của các gia đình chịu cùng một cảnh ngộ như hồi thập niên ’60, thì sẽ thấy mỗi năm có chừng 750,000 em ở lại lớp ít hơn trước, và có ít nhất 1 triệu 2 trăm ngàn em thôi học và khoảng 500,000 vụ phá phách do trẻ vị thành niên phạm pháp gây ra. Đồng thời cũng có ít là 600,000 em được trị liệu và 70,000 em tìm cách chấm dứt cuộc sống (x. Carolyn Moynihan, bđd)

Xáo trộn vốn có từ các vỡ đổ do ly dị tạo ra, còn kéo theo hậu quả về tuổi thọ của con em các gia đình có đổ vỡ như thế nữa. Một khảo sát do Howard Friedman và Leslie Martin thực hiện cho biết: “Con em các gia đình nào có đổ vỡ do ly dị tạo ra, sẽ không sống thọ  --trung bình là 5 năm ít hơn—so với con em các cha mẹ thuộc các gia đình vẹn toàn không ly dị hoặc chẳng đổ vỡ.” 

Ông Gersten, một viên chức Bộ Y Tế và Nhân Dụng thuộc chính phủ George W. Bush, Hoa Kỳ cũng có nói: “Các dữ kiện về tuổi thọ vừa được đưa ra, là “một trong những bản phân tách tồi tệ nhất xưa nay chưa từng thấy về tầm mức tệ hại mà việc ly dị của cha mẹ đã gây ra cho con cái. Con em các gia đình chịu cảnh này, khó có thể vượt qua được các khó khăn, trở ngại ấy.”

Và cô Carolyn Moynihan, một tay viết thường xuyên của báo điện MercatorNet cũng đi đến luận ngắn gọn, nhưng chắc nịch khi cố bảo: “Ly dị đổ vỡ không là vẫn đề riêng tư của ai hết. Nó ảnh hưởng lên hết mọi người. Chí ít, là nó từng tác hại lên sự tin tưởng của quần chúng nơi ảnh hình về hôn nhân.” (x. Carolyn Moynihan, bđd)       
  
Nói gì thì nói. “thương hoài ngàn năm” với những ly dị đổ vỡ, còn là thương cho cảnh tượng đau thương/sầu buồn chợt xảy ra ở đâu đó, ngay cả chốn nát đổ thương tâm nhưng rất đáng phục. Thương, là thương cho tình mẫu tử vẫn còn đó ngàn năm, như ở Nhật. Nơi vừa có phát hiện về “thương hoài ngàn năm” tình mẫu tử, ở bên dưới:  

                        “Phát hiện rằng:
Trong trận động đất ở Nhật vừa qua, các nhân viên cứu hộ tìm đến tàn tích ở nơi nhà một phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thi thể của cô qua khe gạch nát vụn. Nhìn thi thể của cô có cái gì đó rất lạ, tựa như người đang quỳ gối nguyện cầu, cơ thể cô nghiêng về phía trước. Và, hai tay của cô như đang ôm ghì vật gì đó. Ngôi nhà đã đổ ập lên lưng và đầu cô, nhưng vẫn không xoá nhoà hình ảnh lạ kỳ đó.

Người đội trưởng đội cứu hộ đã phải khó khăn lắm mới luồn tay qua khoảng cách chật hẹp bên bờ tường để sờ chạm được cơ thể của người nữ phụ xấu số mà tìm xem có vật gì đang được cô ôm ghì đến như thế.  Anh hy vọng nữ phụ trẻ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, thi thể của cô đã lạnh cứng như muốn nói với anh rằng chắc chắn cô đã qua đời.

Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tiếp tục xục xạo các toà nhà đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng như bị một lực hút nào đó kéo anh trở lại căn nhà sụp đổ có người nữ phụ đã chết cứng ở bên kia. Một lần nữa, anh quỳ xuống, lần mò sờ chạm len qua các khe nứt chật hẹp bên dưới thi thể của người đã chết. Đột nhiên, anh hét lên một tiếng kêu nhiều phấn chấn: "Một em bé!! Em bé còn sống!"

Cả đội cứu hộ cùng nhau cẩn thận rỡ từng cái cọc trong đống gạch vữa nát quanh thân xác người nữ phụ vừa chết. Một bé trai trạc 3 tháng tuổi được bọc cẩn thận trong tấm chăn hoa ngay dưới xác mẹ mình. Rõ ràng, nữ phụ này cố thực hiện động tác hy sinh cuối cùng để cứu con mình. Khi căn nhà của cô đổ sụp, cô dùng cơ thể yếu mềm của mình làm tấm chắn bảo vệ đứa con. Cậu bé vẫn ngủ mê yên bình khi anh đội trưởng đội cứu hộ nhấc em lên.

Bác sĩ nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ của cậu bé. Khi mở tấm chăn hoa bọc quấn bé, ông thấy chiếc điện thoại di động còn nằm bên trong hiện rõ một lời nhắn, nói rằng: "Nếu con còn sống, con hãy nhớ rằng: mẹ rất yêu con" ...

Chiếc điện thoại di động đuợc chuyển từ bàn tay này đến bàn tay khác, cho nhiều người đọc. Tất cả mọi người đều khóc khi người đọc giòng nhắn: "Nếu con còn sống sót, con hãy nhớ rằng: mẹ rất yêu con”.. (trích truyện kể từ điện thư hôm 26/9/2011)

            Lời nhắn trên điện thoại di động, làm người đọc nhớ về một nhắn nhủ khác, cũng dễ thương:

                                    “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa,
là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
khi cầu nguyện cho anh em.
Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói
về lòng tin của anh em vào Đức Kitô Giêsu,
và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh;
lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên   
trời,
niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo
khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.”
(Cô 1: 3-6)

            Xem thế thì, vào hoàn cảnh tồi tệ như thiên tai động đất hoặc vỡ đổ do ly dị, người người vẫn còn gặp khắp nơi và đây đó những lời khuyên và nhủ được gửi đến dân con mọi người. Nhà Đạo mình, cũng có những lời nhắn rất nhủ khuyên mà nhiều người ít quan tâm hoặc ít biết, như đã hỏi:

“Xin cha giải đáp cho thắc mắc của một người bạn từng hỏi: giả như ai đó từng ly dị với một người và nay lại tái giá sống với người khác, hoặc: một người từ lâu vẫn chung sống cảnh hôn nhân chòng chéo, nay muốn quay về với niềm tin đi Đạo. Trường hợp như thế, có được Hội thánh chuẩn thuận mà đón nhận cho họ về với Đạo mình không?” (Một nữ giáo dân hỏi để mọi người biết mà sống đạo cho phải phép).

            Mục đích của nữ giáo dân ở trên muốn đưa ra câu hỏi, là để “mọi người biết mà sống đạo cho phải phép”. Cứ như, nếu không hỏi và không nhận được câu trả lời, chắc chị và nhiều người hẳn sẽ không còn sống đạo cho đúng phép, hay sao? 

Thôi thì, chị có đưa ra câu hỏi vì mục đích gì đi nữa, cũng đâu có sao. Miễn, có người để hỏi, thì chắc chắn sẽ có chức sắc trong Đạo rồi cũng đưa ra câu trả lời theo khuôn phép rất đúng lẽ Đạo. Như lời đáp từ đức thày linh mục John Flader ở Úc, rất như sau:

“Cũng may là, cách mà cô diễn tả ở câu hỏi là thắc mắc thông thường của nhiều người. Nhất là, vào thời buổi ta thấy quá nhiều trường hợp ly dị vẫn xảy ra ở xã hội hiện thời.

Trước nhất, tôi xin nói ngay điều này, là: Hội thánh vẫn công nhận hôn nhân giữa người không Công giáo lấy người không Công giáo đều thành sự, miễn là hôn nhân này không chống lại luật lệ Giáo hội và hôn nhân ấy được cử hành theo cung cách dân sự, trước mặt thừa tác viên trong Đạo hoặc trước mặt người chứng hôn nhân bên dân sự.

Theo lẽ đạo, nếu đám cưới đầu gãy đổ mà một trong hai người lại tính chuyện tái giá, Giáo hội vẫn coi là họ đã cưới người phối ngẫu trước đó mà thôi. Bởi Hội thánh không công nhận ly dị lại có thể gây ảnh hưởng lên bí tích hôn phối.              

Xem như thế, giả như một người đã ly dị rồi, nay tái giá với người không Công giáo mà lại muốn về với Hội thánh Công giáo, thì cũng chẳng có khó khăn gì. Muốn gia nhập cộng đoàn Hội thánh thì nhất thiết phải được công nhận hiệp thông trọn vẹn, đủ tư cách để nhận lãnh mọi bí tích, kể cả bí tích Mình Máu Chúa. Tuy nhiên, những ai đang sống đời hôn nhân với người nào đó mà hôn nhân của họ không được Giáo hội Công giáo công nhận là thành sự, thì vẫn bị coi như đang ở trong tìng trạng rối tội, vì thế sẽ không được phép rước Chúa vào lòng. Vì lý do đó, cũng không là chuyện phải lẽ để đón nhận họ vào với cộng đoàn Hội thánh.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói rõ về vấn đề này, như sau: “Nhằm mục đích trung thành với Lời của Chúa Giêsu –‘những ai từng rẫy bỏ vợ hay chồng mình và đi lấy người khác, như thế là phạm lỗi ngoại tình; và nếu người vợ cũng ly dị chồng và đi lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình hệt như vậy.” (Mc 10: 11-12) – và Hội thánh chủ trương rằng sự kết hiệp mới không được coi là thành sự, chỉ hôn nhân đầu mới thành sự mà thôi. Giả như người nào từng ly dị vợ hoặc chồng nay làm đám cưới theo tính cách dân sự, thì những người ấy phải biết là mình đang ở vào tình trạng đối nghịch lại luật của Thiên Chúa. Cụ thể là, họ sẽ không được rước Mình Máu Chúa vào lòng bao lâu mà tình trạng này cứ tiếp diễn.” (GLHTCG #1650)

Dù điều luật về chuyện này là dành cho hôn nhân và ly dị giữ người Công giáo với nhau, nhưng cùng một tiêu chuẩn tương tự cũng được áp dụng cho người không Công giáo nay muốn vào Đạo. Thành thử, bao lâu tình trạng ấy còn kéo dài, thì những người như thế không thể được chấp nhận gia nhập Đạo.

Tuy nhiên, cũng có nhiều giải pháp khả thi. Trường hợp đầu, những người như thế yêu cầu đưa vụ việc về hôn nhân đầu tiên của họ theo đúng qui cách người Công giáo ra toà án giáo luật để xem trên thực tế, hôn nhân đầu tiên ấy có thể được huỷ bỏ ngay từ đầu hay không. Toà án Công giáo sẽ xem xét giá trị hiệu lực của hôn nhân giữa các người không Công giáo giống như thế. Nếu Toà án có khuynh hướng huỷ bỏ giá trị hôn nhân đầu, thì hai người nam nữ trong kết hợp hôn nhân lần thứ nhì có thể được miễn chuẩn mà tiến hành hôn phối có giá trị hiệu lực theo nhãn giới của Hội thánh.

Một khả thi thứ hai nữa, là: giả như hai người nam nữ đều già đi, mà họ chỉ muốn sống với nhau không có quan hệ vợ chồng, tức chỉ như “người anh người chị”, thì trong trường hợp này, người ấy vẫn có thể được phép gia nhập cộng đoàn Hội thánh Chúa.

Và dĩ nhiên, giả như người phối ngẫu của hôn nhân đầu nay quá vãng, và người kia muốn lấy người khác thì, người này vẫn được phép gia nhập Hội thánh Chúa.

Tuy nhiên mọi giải pháp khả thi nói ở trên có thể sẽ phải trải qua một thời gian chờ Hội thánh giải quyết. Trong khi chờ đợi, người muốn hồi hướng về với Hội thánh cũng đừng nên quay mặt mà bỏ đi. Vẫn nên khuyến khích những người như thế đến dự Tiệc Thánh, tham gia các buổi giảng dạy về niềm tin, vv.. và đặc biệt cũng nên cầu nguyện để có được giải pháp cho tình trạng mình đang sống, miễn là trong khi đó, họ làm mọi cách cho hợp lẽ ngõ hầu giải quyết vấn đề này.” (x. Lm John Flader, Question Time, Connorcourt 2008, tr. 190-191)

            Nói như đấng bậc vị vọng có thẩm quyền trong Đạo, là nói như thế. Không có gì đổi thay. Nhưng hỏi rằng, ngày nay được bao nhiêu người chịu quay về với guồng máy Đạo rất ư là ”Vũ Như Cẫn” (tức: vẫn như cũ) của Hội thánh chưa từng đổi thay là mấy,cũng vẫn vậy.

            Hỏi ở đây, không có nghĩa là thắc mắc/vấn nạn về guồng máy có khuôn vàng thước ngọc rất chặt chẽ, vững chắc. Khó làm siêu lòng được mọi người. Hỏi ở đây, còn có ý để bảo: với giới chức bên ngoài nhà Đạo --hoặc Công giáo, hoặc Thệ Phản-- lâu nay rày ra sao?             
    
            Đã hỏi một cách nghiêm chỉnh, thì cũng nên tìm câu trả lời cũng rất chỉnh và rất nghiêm, để còn an nhàn mà vui sống. Cuối cùng, thì những câu hỏi và/hoặc nhủ khuyên như thế, cũng chỉ nên để chức sắc/đấng bậc có trọng trách cứ khư khư mà giữ lấy mà sống cho hết cuộc đời quý vị, hoặc cho những vị chẳng màng đến thực tế.  Hôm nay, bản thân bần đạo chẳng thể tìm ra giới chức nào khả dĩ đáp trả những câu hỏi nghiêm, chỉnh và chính mạch, đến như thế.

            Thôi thúc cho lắm, thì bần đạo như mọi lần cũng chỉ dám thưa với bạn đạo cùng bạn đọc bằng một truyện kể rất nhẹ, để bạn và tôi, ta được thư giãn sau những giây phút “rất căng”, mà rằng:

“Người mẹ nọ thấy anh con trai của mình cứ rắp ranh hỏi ý mẹ xem có nên ly dị người vợ đang sống với mình tuy đẹp nhưng không sang, tuy làng nhàng nhưng không hạp, bèn nhận được lời dạy vững chắc của mẹ như sau:
-Con ạ. Đến giờ này, mà con vẫn không nhận ra bí kíp cuộc sống vợ chồng gồm 10 điểm như thế này ư:

1. Kẻ thù lớn nhất của con, là: vợ con;
2. Ngu dốt lớn nhất đời con, là: không hiểu được nó;
3. Thất bại lớn nhất của đời con, là: không bỏ được nó;
4. Bi ai lớn nhất của đời con, là: phải sống với nó;
5. Sai lầm lớn nhất đời con, là: đã quyết định lấy nó làm vợ;
6. Tội lớn nhất trong đời con, là: nghe lời của nó;
7. Nỗi niềm đáng thương nhất đời con, là: bị nó sai khiến;
8. Điều đáng khâm phục nhất ở nơi con, là: con vẫn chịu đựng được nó;
9. Tài sản lớn nhất trong đời của con, là: những thứ nó đang giữ; và
10. Khiếm khuyết lớn nhất trong đời đi Đạo của con, là: không được phép lấy 2 vợ.

Nghe xong, cậu con quý tử của bà mẹ hiền ở trên bèn hu hu khóc rống. Mẹ hiền lấy làm ngạc nhiên, bèn hỏi:
-Ủa! Sao con lại khóc? Khóc là động thái rất hèn, đó con!
-Sở dĩ con khóc là vì bây giờ con mới thấy tội nghiệp cho bố. Có lẽ chính vì thế mà bố của con mới mất sớm, phải không mẹ?

            Cũng là câu hỏi, tuy không “gay” như những câu được gửi đến nhà Đạo, cách chính thức như trên, vì gay như thế, thì bố ai dám trả lời. Thôi thì, ta hãy về tắm ao ta, rồi cũng biết. Hỏi hay không, thắc mắc hoặc bình chân như vại, hạ hồi sẽ rõ. Có rõ hay không, cũng đừng hỏi. Chí ít, là hỏi những câu mà nhà Đạo ít người dám trả lời/trả vốn, bởi nếu hợp tình đời thì sợ nghịch ngạo với lý lẽ của nhà Đạo, mà thôi.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn chưa mở mắt cho tròn
            để còn nhìn đời.
            Theo nhãn giới,
rộng hơn thế.

Sunday, 16 October 2011

“Đường về canh thâu”,

“Đường về canh thâu”,
“Đêm khuya ngõ sâu như không màu
qua phên vênh có bao mái đầu
hắt hiu vàng ánh điện câu.”
(Phạm Đình Chương – Xóm Đêm)

(1P 1: 15-16)

            Có quá đáng không, khi ta hát: “Hắt hiu vàng ánh điện câu”, và: “Đường về canh thâu” theo ý nghĩa con đường cụt của “đêm khuya ngõ sâu như không màu”, và: “phên vênh bao mái đầu” ở đâu đó, có những điều trông không ổn? Có ồn lắm chăng, khi một số nhà khoa học, ở nhiều nơi, tuyên bố vung vít cho rằng: não bộ thần kinh và tôn giáo, vẫn cứ ảnh hưởng lên nhau trông không đẹp. Và, có lầm tưởng chăng, khi người người dám bảo: ”Tôn giáo thường làm suy sụp đầu óc kẻ vẫn tin”? Và từ đó, có kẻ lại còn nói: “Có khùng điên/ngu ngốc mới chạy theo đuôi tôn giáo suốt ngày này, tháng nọ!”

            Các ngài khoa học gia nói gì thì cứ nói. Phán bảo điều gì thì cứ bảo và phán, chắc gì điều mình phán bảo, lại không sai. Các ngài nói đi nói lại mãi chuyện xung khắc/xung đột giữa khoa học và niềm tin, là nói mà như không nói. Bởi, việc các ngài đã nói thì cứ nói, bọn tôi chẳng bảo sao. Các ngài muốn nhân danh khoa học để bảo điều gì thì cứ bảo, đàn em chúng tôi, cũng thôi không nghe và cũng chẳng nói nữa. Duy, chỉ hát mỗi lời nghệ sĩ khia xưa từng viết thành lời ca câu hát, rất hay rằng:

                                    “Ai chia tay ai đầu xóm vắng, im lìm
                                    Ai rung lên tia mắt ngàn câu êm đềm.
                                    Mong sao cho duyên nghèo mai nắng gieo thêm,
                                    Đẹp kiếp sống thêm.”
                                    (Phạm Đình CHương – bđd)

            Các ngài khoa học gia nhà ta, đầu óc chất đầy những chữ là chữ, nay cứ viết. Viết cho hay, để đàn em đây còn lấy hứng mà hát thêm lời thơ có ý tứ/ý từ cũng “đẹp kiếp sống thêm.” Rất êm đềm. Kiếp sông thêm, bao giờ mà chẳng êm đềm. Sống êm đẹp, làm gì mà chả nên thêm. Có thêm chăng, chỉ thêm kiến thức để cãi tranh, giành giựt lời phán bảo rất chắc nịch như lời ca buồn thánh ở dưới:

                                    “Màn đêm tịch liêu,
                                    Nghe ai thoáng ru câu mến trìu.
                                    Nghe không gian tiếng yêu thương nhiều.
                                    Hứa cho đời thôi đìu hiu…”
                                    (Phạm Đình Chương – bđd)

            Vâng. Đúng thế. Các ngài khoa học gia dù đã cãi vã, ganh đua, tranh cãi ba điều bốn chuyện về cái-gọi-là “sự thật khách quan” ở đời, rồi thì cũng thấy: “màn đêm tịch liêu”. “Thoáng ru câu trìu mến”. Và, “nghe không gian tiếng yêu thương nhiều” ở đâu đó, chốn khoa học hay ở nơi học (nhiều) khoa nhiều khoá chốn bụi trần, để rồi sẽ nhủ chính mình những là:“cho đời thôi đìu hiu.”

            Vâng. Quả có thế. Đời người hay người đời một khi đã thấy “màn đêm đìu hiu”, “đời tịch liêu”, hoặc “xóm vắng im lìm” với “tia mắt ngàn câu” rồi, thì còn gì nữa đâu, ới hỡi cuộc đời! Bởi thế nên, hãy xin người và xin tôi, ta cứ quá bộ vào câu lạc bộ đầy những phiếm, mà phiếm cho xong đôi chữ “sự thật” về đời người. Cho xong chuyện.

            Nếu vậy thì ới hỡi bạn mình, nào ta phiếm.

            Phiếm về: “đẹp kiếp sống thêm” hôm ấy, ngày “N” tháng 8 năm 2011, có bạn viết vừa trình làng một ít nhận định về cái-gọi-là niềm tin tôn giáo làm suy sụp não bộ thần kinh sáng suốt, của con người!

            Để hợp lòng một ý với người viết những câu trên, có bạn đạo tìm về bài viết của Amy Owen và đồng nghiệp, từng chen chân ở giảng đường Đại học Duke bên Hoa Kỳ, để trình làng bài viết có tựa đề “Tôn giáo và sự hao mòn của con hải mã ở thời cuối”. Tác giả và “tác thiệt” bài viết này từng quả quyết: một khi đã hao mòn và teo gầy, thì cá nhân con người cũng được sản sinh lại cùng với những người không tôn giáo. Các vị còn quả quyết thêm rằng: sự đổi thay dung lượng teo gầy ở khối óc đã kết thành tình trạng muộn phiền /mất trí, để cuối cùng đạt tình trạng lú lẫn, rất Alzheimer. Ôi ghê quá.

            Lâu nay, các ngài khoa học gia từng bảo là: những ai cố tình chạy theo niềm tin tôn giáo đến miệt mài, đều có dấu hiệu của người mất trí. Đây là điều mà các ngài gọi là “tình trạng tinh giản trí tuệ đến mức tồi tệ”, tức: một cáo buộc nhằm vào tác giả Francis Collins, người bật mí cái bí mật lòng vòng mà bảo rằng: ông vẫn cho mình là tín đồ Đạo Chúa, rất nghiêm túc.

            Có nói gì đi nữa, thì thời buổi này, lại thấy xuất hiện nhiều người chuyên biện luận bảo rằng khoa học mới là cốt cách của mọi sự, chứ không phải niềm tin tôn giáo, như ta tưởng. Ngược lại, đã hơn một lần, đấng thánh nhân hiền nhà Đạo vẫn cứ khuyên người đời từ ngàn năm trước, rằng:

“Anh em hãy sống thánh thiện
trong cách ăn nết ở,
để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em,
vì có lời Kinh Thánh chép:
Hãy sống thánh thiện,
vì Ta là Đấng Thánh rất trọn lành.”
(1P 1: 14-15)

            Sống thánh thiện trong cách ăn nết ở”, là động thái tự đặt mình để Chúa tể càn khôn đưa dẫn mình trở nên giống Đấng Thánh, mà chẳng cần đến ánh sáng của các ngài khoa học gia soi dọi. Và vừa qua, một vài tác giả từng đồng hành với người viết mang tên Amy Owen nói ở trên đã giải mã các tấm phim chụp từ trường cho khoảng 268 bệnh nhân nam/nữ thuộc lớp tuổi 58 và hơn thế, cũng đã có những phát hiện thật mới, rằng:

“Các liên kết theo chiều dọc, không được diễn giải bằng những yếu tố nền tảng về tâm linh hoặc tâm thần (như hỗ trợ về mặt xã hội hoặc các căng thẳng thần kinh, tình trạng trầm thống nơi con người) cùng với yếu tố dân gian và thời gian kéo dài để nghiên cứu, và toàn bộ dung lượng của não bộ có giới hạn. Sinh hoạt nào mang tính cách thường xuyên tôn giáo hoặc công khai hoặc kín đáo, cũng không báo trước đổi thay nào về dung lượng của não bộ nơi đàn hải mã, ngoài biển cả được hết.”

            Trong bài viết có tựa đề: “Kinh nghiệm đạo hạnh ở não bộ thần kinh: nghiên cứu nối kết với kinh nghiệm đổi thay tôn giáo như hồi sinh, qua hình ảnh loài hải mã” (Scientific American, 31/5/2011), Ts. Andrew Newberg nhận xét: “Kết cuộc thật đáng kinh ngạc khi các điều tra nghiên cứu trước cho thấy tôn giáo hưởng nhiều lợi lộc từ hoạt động của não bộ thần kinh, cả suy tư âu lo trầm thống cũng như thế.” Để minh định rõ, ông nói:

“Cuộc điều tra nghiên cứu đặc biệt nhắm vào cá thể đạo hạnh so với các cá thể không tôn giáo. Nghiên cứu đã biến mọi cá thể thành những người được sinh trở lại hoặc những người từng sống có kinh nghiệm tôn giáo từng làm mình đổi thay cả cuộc đời.”

            Ý của tác giả bài viết nói là: “người không theo đạo” cũng chịu ảnh hưởng cùng một ảnh hưởng trên thân mình, giống hệt như loài hải mã ở biển sâu. Cuối cùng thì, người giành phần thắng lợi trong nghiên cứu là những người có tôn giáo theo qui ước, cũng đạo hạnh nhưng chưa từng có kinh nghiệm sống đời thiêng liêng hoặc tái sinh.

            Lâu nay, nhiều người công nhận rằng niềm tin tôn giáo và thực thi đời đạo hạnh vẫn được nối kết với đấng bậc có cuộc sống rất an lành. Mario Beauregard và Amy Owen đã cùng viết chung cả một chương sách để bàn về “Não bộ linh thiêng” điều nghiên rất kỹ về đề tài này. Nói chung, có bằng chứng cho thấy niềm tin “tiêu cực” về tôn giáo cũng tạo ảnh hưởng khá xấu cho sức khoẻ của con người.

            Chủ đề này, hai tác giả nói trên cũng đã viết:


“Nghiên cứu khảo sát cho thấy bệnh nhân lớn tuổi vốn ọp ẹp về thể xác mà lại xung khắc chống đối lại niềm tin đi Đạo thì thường dễ chết sớm hơn những người có niềm tin vững chắc nơi Đạo mình. Các nhà nghiên cứu đã khảo sát khoảng 595 bệnh nhân trên 55 tuổi hoặc nhiều tuổi hơn tại khoa y thuộc Đại học đường Duke và Trung Tâm y tế Durham ở Virginia đã hoàn tất theo dõi bệnh tình của hơn 444 bệnh nhân, thấy có đến 176 người từng chết sớm là thế. Tóm tắt, có thể bảo rằng: bệnh nhân nào thường vấn nạn bằng những câu như: “Tôi vẫn tự hỏi sao Chúa lại bỏ rơi tôi”; “tôi có cảm giác như bị Chúa phạt vì thiếu lòng mộ đạo”; “còn tôi, tôi vẫn tự hỏi sao Giáo hội lại ruồng bỏ tôi”; “tôi thì tôi nghĩ: quỷ tha ma bắt, nên mới ra cớ sự này”; hoặc tự chất vấn quyền uy của Đức Chúa chuyện này khác, nên mới dễ chết cách tức tưởi. Theo khảo sát thì: có từ 19 đến 28% số người có vấn đề như thế thường có số tử vong lớn hơn, trong khoảng thời gian chỉ hai năm sau khi xuất viện. Về kết quả này, các nhà khảo sát bèn kết luận: Có thể là, hình thức nào đó của niềm tin tôn giáo làm gia tăng nguy cơ dẫn đến cái chết hơn chuyện khác. Xem ra, thì bậc cao niên nam nữ có kinh nghiệm phấn đấu chống lại bệnh tật mà lại có lập trường chống lại tôn giáo xem ra dễ có nguy cơ dẫn đến cái chết hơn, dù đã rà soát rất kỹ sự hạn chế của sức khoẻ, tình trạng tâm thần cũng như các yếu tố của người bình thường.” (x. Mario Beauregard Đầu óc thiêng liêng, tr. 237)”


            Xem thế, thì niềm tin nay vẫn là vẫn đề gây tranh cãi cũng rất nhiều, dù tích cực hay tiêu cực. Nhưng có người hỏi: sao những chuyện như niềm tin vững chãi nơi người ủng hộ hay chống tôn giáo, lại tệ hại như đám cá ngựa có não bộ teo gầy hơn là những người lơ là với niềm tin tôn giáo?

            Về những căng thẳng thần kinh là hậu quả của của hai thái độ cực đoan nơi người tin hay không tin vào tôn giáo, vẫn kéo theo nhiều tranh cãi, tác giả Andrew Newberg còn cho biết:


“Với các đề nghị này khác để suy nghĩ, cũng nên thêm là: người bệnh thường có kinh nghiệm về đấu tranh với niềm tin tôn giáo là do ý tưởng xung khắc với truyền thống trong Đạo hoặc gia đình. Dù mang tính tích cực, kinh nghiệm đổi thay cuộc sống cũng khó mà đưa vào với hệ tin tưởng vào đạo giáo lâu nay vẫn lấn lướt và điều này thường kéo theo nhiều căng thẳng cũng như lo âu.”

            Nói cho cùng, biện luận cho lắm rồi cũng sẽ trở về lại với kinh nghiệm như lịch sử ở trong Đạo vẫn cho thấy: ai có cuộc sống từng chạm trán Thiên Chúa vẫn nhớ rằng cuộc sống của mình không phải là ít căng thẳng cho bằng thấy đời mình có ý nghĩa hơn. Đó là điều tác giả Denyse O’Leary muốn nhấn mạnh trong bài viết có tựa đề “Tôn giáo có làm cho não bộ thần kinh con người ra suy sụp?” (x. www.MercatorNet.com/articles/view/does_religion-Shrink_your_brain/83/3/2011)

            Cuối cùng thì, có nói gì thì nói, đâu phải cứ là nhà khoa học đã nói thì thế nào cũng có người tin. Tin hay không tin, chưa hẳn là tất cả mọi người. Hãy cứ lẳng lặng nghe ý kiến phản hồi của người đọc, lác đác như sau:


“Tôi vẫn không thấy có nối kết nào như thế cả. Dù bạn chứng minh là căng thẳng thần kinh ảnh hưởng lên loài cá ngựa ở ngoài biển đến như thế nào. Ý tưởng của tác giả nói ở đây chỉ muốn cho thấy rằng: là người không tôn giáo, vô thần hoặc tái sinh thành người đạo hạnh cũng có thể bị căng thẳng như thường. Dù theo kinh nghiệm của riêng tôi, thì những người như thế thường hay tự hào và luôn sẵn sàng lướt tới về những gì họ coi như đặc tính chuyên minh định mọi chuyện như mình nghĩ. Tuy nhiên, điều ấy không cho thấy là cùng một căng thẳng như thế lại kéo theo sự teo gầy nơi thần kinh của loài cá ngựa được.” Larry B, bđd)

            Và, một độc giả khác, cũng lên tiếng:


“Trong cuốn “Phaedrus” triết gia Plato có nói sự khùng điên đến từ các thần còn sự lành mạnh là do con người. Muốn trưng dẫn ví dụ, thì đó kìa, biết bao nhiêu người sùng đạo thuộc các đạo giáo khác nhau trên thế giới vẫn cứ tự cho mình “điền khùng vì Thượng đế”. Cuối cùng, cũng nên nhận rằng: việc mình có dấn thân trọn vẹn với đạo giáo hay không, ở một số trường hợp, cũng không cần đến cái mà ta vẫn gọi là “trí tuệ”, phải không cơ chứ? (Hieronymus, xe. bđd)

            Và, một độc giả rất kín tiếng, nhưng vẫn nói. Nói rằng:

“Với tôi, thay vì đặt câu hỏi vớ vẩn như trên, cũng nên thay bằng câu này: việc sử dụng đầu óc của mình có làm cho tôn giáo bị chìm xuồng hay không?” Đó mới là vấn đề.” (David Page, x. bđd)              

            Nói như độc giả rất  “kín tiếng”, chưa hẳn là nói ít mà hiểu nhiều. Hoặc, nói rất nhiều, chỉ bằng vài câu thôi, là sẽ nói như nhà thơ cùng nghệ sĩ, vừa nói vừa hát, rất như sau:


“Cho nên đêm còn dậy hương,
để dìu bước chân ai trên đường,
để nhìn xóm khuya không buồn
vì người biết mang tình thương.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

            Nói như người bình thường tuy ít nói nhưng nghe nhiều và hiểu nhiều –hiểu cả chuyện tôn giáo lẫn khoa học- là nói và nghe bằng truyện kể, để dễ nhớ.


                        “Truyện rằng:

Một bệnh nhân nọ, tuy không theo đạo nào, nhưng vẫn được đưa vào bệnh viện trên tỉnh do các nữ tu Công giáo trông nom. Ngày đầu nhập viện, ông không được nằm phòng riêng, nhưng lại chung đụng cùng nhiều bệnh nhân khác phần đông đều có đạo. Vừa vào phòng, ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến, lớp thì hỏi han bệnh tình, người lại kéo chăn mền, sờ soạng chân tay xem còn nguyên vẹn hay không…

Chẳng mấy chốc, ông bị lôi khỏi giường giữa tiếng cười rúc rích đến lạ kỳ của những người bệnh đồng sàng, nhưng quái ác.

Chịu không nổi cảnh tượng lỳ cục ấy, bệnh nhân mới vào tới bèn la hét inh ỏi để kêu cầu người phụ trách đến giải cứu. Gặp người phụ trách, ông bèn nói:
-Tại sao các ông lại đưa tôi vào nơi có những người bệnh kỳ cục đến thế này. Phải chăng, đạo của mấy ông dạy làm thế, hay họ chẳng đau ốm gì như tôi?
-Chẳng phải thế đâu. Mấy người này còn đau nặng hơn ông nữa là đàng khác. Nhưng họ vẫn vui sống vì đã khám phá ra một điều mà ít người biết, hoặc có biết cũng chẳng tin, như tin đạo. 
-Thôi thì, ông cứ mau mau nói xem bí quyết kỳ quặc ấy là bí quyết gì vậy?
-Đây. Ông thử nhìn vào cái cân này mà xem. Hai đĩa vẫn cân bằng ngang nhau, không bên nào cao bên nào thấp hết. Nếu tôi bỏ hòn sạn vào một bên thì đĩa cân bên kia sẽ nhổng lên, phải không nào?
-Điều đó có gì là lạ…
-Có chứ. Lạ ở chỗ: đĩa cân này biểu trưng của tình liên đới giữa con người. Hòn sạn biểu hiện cho nỗi đau cùng sầu buồn ông gánh chịu. Khi buồn đau và khổ não đè nặng lên ông, thì ở đầu cân bên kia được nhấc bổng, tức niềm vui lại đến với người nào đó. Thế tức là, niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai nhau. Nhưng, nỗi khổ đau cần được đón nhận và hiến dâng như tôn giáo của mấy người này vẫn dạy, chứ đừng giữ cho riêng mình. Hãy làm cho người khác vui như trẻ nhỏ, dù có bệnh, để nụ cười chớm nở trên môi người khác, dù mình đang trong cơn hấp hối. Đó là sự khác biệt của lập trường sống giữa người tin hay không tin vào Đạo giáo, đấy ông ạ.”

                        Lời trần tình, của người chăm nom săn sóc bệnh nhân được vui sống nghe cũng hay như một bài giảng, ở nhà thờ. Chẳng biết thực tế có như thế không. Tuy nhiên, như hay không như thế, vẫn chẳng là vấn đề. Vấn đề chỉ nảy ra khi ta so sánh niềm tin tôn giáo như thế với khoa học thực nghiệm, thôi. Và, thực tế lại cho thấy: so sánh, vẫn cứ là so sánh nhiều sự việc. Người người chỉ so và sánh nếu tin rằng chuyện ấy đem lại cho mình sự thật sáng tỏ. Còn lại, mọi chuyện đều nằm ở bình diện tư tưởng, thôi.

            Đi vào thực tế, riêng bần đạo cũng gặp một trường hợp đáng để kể ra đây. Số là, trong chuyến Mỹ du cuối năm 2011, bần đạo có dịp được gặp lại một người chị họ sống ở tiểu bang xa xôi gần mạn Bắc nước Hoa Kỳ. Chuyện lạ kỳ ở đây, là: bà chị này tuổi tác cũng hơn 70 mà sao chị vẫn tươi vui, hiền hoà chẳng sở khổ. Hỏi bí kíp, thì chị bảo: người già nhà mình sẽ vui sống quãng đời còn lại nếu họ đạt được 4 điều tối thiểu này: sức khoẻ tàm tạm, tài chánh đủ tiêu, vẫn có niềm tin vào Đạo giáo bất kỳ là đạo nào, và cuối cùng là đời sống xã hội lân la với bạn bè/chòm xóm.

            Bần đạo nghe kể, bèn thấy chuyện đời thực tế cũng khác nhiều mọi tranh luận ở tầng trên. Tầng của não bộ chưa gặp cảnh teo gầy như hải mã. Và, nghĩ thế rồi, bần đạo những tưởng bà con mình cũng nên về lại với lời khuyên của đấng thánh hiền nhiều kinh nghiệm về tin hay không tin vào Đạo giáo, như lời thư còn dặn dò:

                                    “Anh em sẽ được hân hoan vui mừng,
dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách.
Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em
là thứ quý hơn vàng gấp bội,
vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa.
Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện,
đức tin đã được tinh luyện đó
sẽ trở thành lời khen ngợi,
và đem lại vinh quang,
danh dự.
(1P 1: 6-7)


            Lời cuối cho tôi và cho bạn, là nhận định mà rằng: sống đời người, mà lại có được niềm tin nơi Đạo giáo sẽ khác nhiều cuộc sống của những người ngồi đó dông dài kể lể và so sánh/ so đo não bộ thần kinh rất căng thẳng với khoa học. Cuối cùng mọi sự chỉ là chọn lựa của mỗi người. Chọn và lựa, sao cho thích hợp với cuộc sống của mình và của người. Trên “đường về canh thâu”. Ở đời.


            Trần Ngọc Mười Hai
            Nhiều lúc cũng nghĩ thế.
            Nghĩ, như một người có niềm tin
            chứ không như nhà khoa học.