Tuesday 28 January 2014

“Đêm nay khi em đi rồi,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa thường niên Năm A 02-02-2014

Đêm nay khi em đi rồi,”
Đường khuya riêng một mình tôi.
Đêm nay khi em đi rồi
Tôi về đếm bước lẻ loi
.”
(Nguyễn Ánh 9 – Ai Đưa Em Về)

(Lc 2: 1-2)                  
Nếu câu hát trên đây, là một khẳng định nào đó gửi đến đấng bậc chủ quản ở trên cao, hẳn rằng câu trả lời cũng rất khó. Khó, không vì sự kiện người Em ấy hoặc người Anh đây nay đi rồi, mà vì sự thể cho thấy bọn tôi ở lại cũng đơn côi, sầu buồn, khó sống? Buồn, vì những lo rằng: tương lai mai ngày chẳng biết sẽ ra sao? Xấu/tốt thế nào? Bền đỗ không, vv...?
Dẫn nhập dài dòng như trên, có lẽ là câu nhập và dẫn cũng rất mạnh, cốt bảo rằng: vào tháng ngày hôm trước, khi dân con Đạo Chúa nhận được tin tức rất dị-thường cho biết: Đức Bê-nê-đích-tô 16 đã quyết-định từ-nhiệm chức-vụ tối-cao ở nhà Đạo, thì: ngay khi ấy, đã có bạn đạo của bầy tôi đây, lại nhớ đến tình-huống hôm nào của riêng mình, rồi áp dụng chuyện chung vào lời hát ở câu tiếp, rất da diết như sau:

“Người yêu ơi trong tình muộn!
Người yêu ơi trong tình buồn!
Trọn tình yêu ta đã cho nhau.
Hãy quên niềm đau.
Thời gian ơi xin dừng lại!
Thời gian ơi xin dừng lại!
Cho đôi tình nhân.
Yêu trong muộn màng.
Đừng khóc ly tan.”
(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Thật ra, có ới gọi tình nhân hay tình bạn thân đến như thế, thì: lời ca trên so với tình hình nhà Đạo mình, khi ấy, cũng chẳng có gì phải hát thế. Nhưng hôm nay, sau “9 tháng 10 ngày” ngồi nghĩ lại mà suy về sự thể xảy ra trong Đạo, hẳn bạn đạo và bầy tôi đây, ta thấy cũng khác nhiều.
Nhiều đấng bậc nhà Đạo, lâu nay tuy tài giỏi và thánh-thiện, nhưng khi đã rũ áo ra đi, chắc chắn sẽ có vị khác đến nối tiếp con đường do Hội thánh đặt ra, có khi còn tốt đẹp hơn trước cũng rất nhiều. Thế nên, bọn tôi đây công nhận rằng: với Hội thánh, Thần Khí Chúa vẫn không ngừng hoạt động hầu đỡ-nâng thánh Hội mình, vào mọi lúc.
Thế đó, là tình hình của Hội thánh rất Công giáo, ở đây/bây giờ. Chí ít, là khi Đức Giáo Tông tân-cử lại là đấng bậc tươi mát, cởi mở và sung sức. Tươi và sung, về nhiều thứ. Mới và cởi, về nhiều sự. Chí ít, là những thứ và những sự được báo đài/truyền thông đã và đang bình luận cũng khá nhiều. Có vị lại đã hứng chí hát thêm đôi câu ghi bên trên, như thể bạn mình đã tìm ra lời giải-đáp cho tình hình cụ-thể, mà rằng:
    
“Đêm nay tôi đưa em về.
Đường khuya sao trời lấp lánh.
Đêm nay tôi đưa em về.
Mắt em sao chiếu long lanh.
Đêm mai ai đưa em về.
Mình em trên hè phố vắng.
Đêm mai ai đưa em về.
Mắt em lệ ướt long lanh.”
(Nguyễn Ánh 9 – bđd

Hoặc:
  
“Đêm mai không ai đưa về.
Người ơi xin đừng hờn dỗi.
Đêm mai cô đơn đi về.
Xin người hãy nhớ tình tôi.”
(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Quả thật, hôm nay, một bạn đạo khác của bần đạo lại dõng dạc tuyên bố những điều rất “quá sức mình”, rằng: giả như ai đó cho phép bạn so sánh và bình “loạn” về tình-hình rất riêng của đấng bậc “chóp bu” của Đạo, thì bạn ấy sẽ có giòng-chảy tả cảnh/tả tình, tả cả thế-thái nhân-tình thời hôm nay, luôn cho tiện.      
Vâng. Có thể là như thế, với người đời. Có thể sẽ như vậy, với chốn tịch-liêu sầu buồn của nhà Đạo hôm trước, nay có khác. Khác ở chỗ: nay lại thấy xuất hiện Đấng bậc Chủ quản thật siêu-đẳng khiến dân con mọi người còn nhớ: ngài vốn dĩ một thân một mình, dám đưa lưng ra mà gánh chịu cả một giáo hội trong tình trạng khá rối rắm cả trong lẫn ngoài, khiến người người rồi sẽ tung hô ngài bằng danh xưng hiền-từ, lành thánh rất “Phanxicô”.
Chẳng thế mà, vừa qua, nhiều vị ở đâu đó lại cũng tưng-bừng “bốc” lên nhiều lời tụng-ca/xưng hô coi ngài là bậc vĩ-nhân hiền-từ ít thấy vào thời cách mạng truyền thông/vi tính, như tin tức từng đăng tải như sau: 
 
“Tạp chí Time vừa công bố Đức Giáo-Hoàng Phan-xicô là “Nhân Vật Trong Năm 2013” và ca ngợi ngài là tiếng nói lương-tâm mới cho toàn-thể thế-giới...

Bà Nancy Gibbs, chủ-bút báo Time, công bố về sự bình-chọn như sau: “Dựa vào sự việc ngài đã đưa chức-vụ giáo-hoàng ra khỏi chốn cung-điện mà đi vào các đường phố, đã quyết-tâm đưa một Giáo hội lớn nhất thế-giới đối-diện với những nhu-cầu sâu-xa nhất của nhân-loại và đã cân bằng giữa sự phán xét với lòng thương xót, Đức Thánh Cha Phanxicô là “Nhân vật Trong Năm 2013 của báo Time.” (xem Trần Mạnh Trác, Phản ứng trước việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô là Nhân Vật Trong Năm của báo Time, Vietcatholic 12/1/2014)

Xem thế thì, thế giới ta đang sống, nay có thêm nhận-định rằng: chỉ trong vòng có hơn 9 tháng trời vỏn vẹn, thế giới nay thấy xuất-hiện một nhân-vật lỗi-lạc nhất năm 2013. Nói thế có nghĩa: đức “thánh-là-cha” của Đạo, đã có tất cả và là tất cả, tự bao giờ.
Góp giọng cùng với báo đài/truyền thông khắp nơi, riêng tại Úc đã thấy đấng bậc vị vọng cấp cao ở Sydney, cũng cùng cương vị Tổng Giám Mục mang tên “George” lại đã tham-gia ý-kiến tỏ-bày về sự lỗi lạc của “đức-thánh-là-cha-Phanxicô” bằng giọng nhẹ nhàng, rằng:

“2013 là năm tuyệt vời đối với người Công giáo ở khắp nơi. Tháng hai năm này, lần đầu tiên kể từ 1294 đến giờ, ta lại thấy một Đức Giáo Hoàng ở tuổi 85 nhất-quyết từ-nhiệm chức-vụ tối-cao trong Giáo hội.

Vào dạo đó, Đức Bê-nê-đích-tô 16 có nói rằng: sức khoẻ của ngài không còn thích-hợp để dẫn-dắt một Giáo-Hội tầm cỡ hơn 1 tỷ hai trăm triệu thành-viên nữa. Ít ngày sau, Mật-hội Hồng-y đã bầu Đức “Tổng” George Bergoglio của Argentina, một sĩ-tử Dòng Tên tròm trèm 76 tuổi đời chọn danh-tánh thánh Phanxicô Assisi chứ không chọn thánh Phanxicô Xaviê của bổn Dòng làm danh-xưng chính-thức cho tên gọi Giáo Hoàng của ngài. Nói tóm lại, ngài là tu-sĩ Dòng Tên đầu tiên và cũng là vị giáo chủ đầu đời của Đạo muốn mọi người gọi mình bằng tên tục nhẹ nhàng của vị thánh hiền-lành, khiêm hạ nhất trong hàng ngũ các thánh nam nữ, là thế.

Là linh-mục Dòng Tên từng tuyên-hứa sống đời nghèo-khó, ngài đã nghiêm chỉnh giữ lời thề kể từ ngày thụ-phong linh-mục và suốt thời gian làm Tổng Quản thành Buenos Aires, nước Argentina. Ngài không thích sống trong lâu-đài quyền quí, và chẳng muốn ở lại mãi trong phòng-ốc cao sang dành cho các Giáo-hoàng đương-nhiệm; nhưng, lại ưa dùng nơi đó làm chốn tiếp-tân các vị thượng-khách từ xa đến viếng toà thánh La Mã. Và, ngài chọn sống trung-thực với quyết tâm của ngài trong căn hộ nhỏ ở Vatican và chỉ chấp-nhận di-chuyển bằng chiếc xe gọn/nhỏ của do lễ-tân cung cấp, mà thôi.

Ngài chủ-trương sống chân phương, bình-dị, có lòng thương xót dân con tầm-thường như những người trẻ ở Assisi bị chứng tâm thần ngặt-nghèo mà ngài từng hạ giá ghé thăm...” (x. ĐHY George Pell, Francis defies the conventional, The Catholic Weekly 12/01/2014, tr. 2)

Chân phương/bình dị, không se-sua nổi-trội như dân làng hèn kém ở Assisi, đó mới là đặc-trưng/đặc-thù của Đức-thánh-(là)-cha ở Rôma quyết sống khó nghèo, trầm lặng theo kiểu cách Phanxicô Assisi. Đàng khác, đường đường là Giáo Chủ/Giáo Tông của Đạo Chúa rất “Rôma” ai cũng biết, thế mà ngài lại cứ sống khác thường/khác kiểu với các vị tiền-nhiệm, thế mới khó. Khó hơn nữa, là: làm sao thuyết-phục được cả một thánh Hội rộng lớn sống sao cho đúng tôn-chỉ của Đức Giêsu khó nghèo, hèn mọn xuất từ thôn làng vừa nghèo/vừa khó, rất túng thiếu như thôn làng Nazarét trầm lặng.
Thôi thì, hôm nay, bần đạo đây đề-nghị bạn/đề nghị tôi, ta thử ngang qua một vài chi-tiết có tình-tiết gói gọn trong các bản tin/bài viết này khác cho rõ lý lịch của đấng bậc rất “thánh cha”, mới được. Quyết thế rồi, nay bần đạo mời bà con tham gia tản mạn vào “miệt vườn” truyền thông có những điều được nói rõ bằng giòng chữ nhỏ, để thấy được tình hình thực tế khá khó và nghèo buộc Hội thánh phải sống cũng rất nghèo và rất khó, như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa hứa tặng $5 triệu Mỹ Kim giúp đỡ Tổng Giáo Phận Rio De Janeiro thanh-trả món nợ “nhỏ” theo sau Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, ở đây. Toán thanh-tra tài-chánh có tên là ERNST & YOUNG vừa xem xét các chi tiêu của Đại Hội ngày 31/8/2013, thấy là: Ban Tổ chức Đại Hội đã thua lỗ đến $43 triệu Mỹ kim, cả thảy. Sau tính-toán thương thảo với các công-ty chức năng và sau khi đã bán đi một số tài-sản do Giáo-hội sở-đắc, Toà Tổng Rio de Janeiro đã giảm-thiểu món nợ đầm đìa hơn $18 triệu Mỹ kim. Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 ở Rio de Janeiro, là chuyến công-du đầu của Đức Phanxicô, sau khi ngài được bầu làm Giáo Hoàng. Thực tế, thì Đại Hội nói trên đã thu hút đến gần 3 triệu khách hành-hương khắp nơi đến Bãi biển Copacabana, Ba Tây kể từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013, vừa rồi.” (xem Bản Tin Ngắn đăng ở cột 4 trên tuần báo The Catholic Weekly ngày 12/1/2014, tr. 4)

Bằng vào nhận xét của người đứng ngoài khi nghe tin trên, nhiều vị lại đã nhận ra rằng: bên cạnh các sự-kiện xôn xao/nổi cộm thường vẫn có những mặt tiêu cực/yếu kém ở trong và ở bên dưới. Yếu kém và tiêu cực, đôi lúc còn kéo theo nhiều đề-nghị bà con hãy đề-cao cảnh-giác cách trực-tiếp hoặc gián-tiếp, tức đề-nghị của một số người đứng ở ngoài hoặc thiết thân mới có thể giải-quyết được vấn đề những khó và nghèo.
Xét thế rồi, lại có vị cũng nhân cơ-hội có sự-kiện đình đám/nổi trội ở vài nơi, lại đã đưa ra một số câu hỏi khá “tréo cẳng ngỗng” gửi đến đấng bậc vị vọng, theo hình thức hỏi/đáp như sau:

“Thưa Cha,
Con đây vừa nghe một vị thức-giả nọ giải-thích chuyện các thần-sứ thánh-thiêng khi xưa được tạo-dựng để gần gũi Chúa, nhưng lại đã sa-ngã vấp-phạm nên trở thành một thứ ác-thần/quỉ dữ. Câu hỏi của con, vỏn vẹn chỉ thế này: sao lại thế được? Sao các thần-sứ ấy không có cơ-hội để tự sửa-đổi và được cứu-vớt như đám người phàm thấp bé là chúng ta? (Người hỏi không đề tên trên thư, nên chẳng rõ là nam hay nữ).

Nhận được câu hỏi nào cũng thế, đấng bậc có trọng trách giải đáp, cứ việc lấy giấy bút ra mà đáp-giải, chẳng cần biết người hỏi là ai, gái trai, già trẻ, lớn bé, ở đâu đến. Và, câu trả lời như sau:

“Muốn có câu trả lời cho thích-hợp, tôi thiết nghĩ: ta cũng nên đưa chuyện này vào đúng bối-cảnh của nó để nhớ rằng: thủy tổ loài người chúng ta khi xưa bị mê-hoặc, dụ-dỗ đến mê-hồn về sự cao sang/hào nhoáng theo hình thù con rắn/rít (x. Stk 3: 1-7).

Mọi người đều biết: quỉ dữ/ác thần lúc đầu được tạo-dựng theo hình thù sao đó có đủ  quan-năng/phúc-hạnh tựa hồ thần-sứ rất thánh, nhưng vì lý do nào đó, họ bị Thiên Chúa khước từ, hủy bỏ mọi ân-lộc và giáng họ xuống thánh một thứ “người không ra người, ngợm chẳng thành ngợm” xa rời Chúa mãi mãi để rối rớt xuống vực sâu, chốn hoả hào.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có nói về loài rắn/rít ác thần này như sau:
“Kinh Sách và Thánh Truyền của Giáo Hội thường coi chúng như “thiên thần gẫy cánh” với tên gọi “Satan” hay ác thần/quỉ dữ. Giáo Hội dạy rằng: Satan thuở đầu là thần-sứ tốt lành/hạnh đạo do Chúa dựng và sách này còn thêm: “Ác thần quỷ dữ lúc đầu là tạo-thành được Chúa thiết-lập giống như mọi loài nào khác, nhưng đã ngã-quỵ vì hành-vi khuất tất của họ.” (xem Công Đồng Latêranô IV năm 1215, DS 800; sách GLHTCG đoạn # 391).

Như anh/chị đề cập trong thư, có bảo rằng: đám ác quỷ hoặc lúc đầu là thần-sứ ấy xưa đã được phép gần-cận Chúa nơi Thiên Tòa. Nhiều vị trong/ngoài Đạo cũng suy luận như thế, nhưng rõ ràng là: các thần-sứ thánh-thiêng được Chúa chúc phúc cho ở gần, đã không còn ở trên Thiên Quốc. Bởi, linh hồn nào được ở trên Thiên Quốc gần-cận Chúa, lúc nào cũng được cuốn-hút gần Chúa đến độ không thể chống lại được để rồi được vào với tình hương-yêu hiền-dịu của Chúa; và không thể chối bỏ Ngài dù một phút. Thật khó tưởng tượng rằng: linh hồn nào đã ở với Chúa trên Thiên Quốc rồi mà lại có thể lỗi phạm hoặc vấp ngã được.

Từ đầu, Chúa phú ban cho mọi thần-sứ thánh-thiêng nhiều ơn lành trợ giúp. Trong cảnh sống thiên-nhiên tự-tại, các ngài là thần-sứ tinh-tuyền lúc nào cũng tự do, như mọi thần thánh khác.

Bằng vào bản chất thánh thiêng do Chúa tạo dựng, thần sứ nào trên Thiên Quốc cũng đều ở trên bất cứ mọi thọ-tạo nào khác, kể cả con người. Ở chốn cao-siêu nhiệm-mầu ấy, thần-sứ thánh-thiêng cũng giống như Ađam Evà, được Chúa ban cho ân-huệ tự-tại, tức được san sẻ đời sống lành thánh có bản-chất rất thánh. Quả là, các ngài rất cận-kề Thiên-Chúa cả vào lúc các ngài không hiện-diện cách thực-tế nơi Thiên-toà nữa, cũng thế. Các ngài nhận biết Thiên-Chúa và có khả-năng yêu-kính Thiên-Chúa bằng nhận-thức và tình thương tuyệt-vời hơn chúng ta. Và, đương-nhiên là các ngài được kêu gọi đi vào cuộc sống vĩnh-hằng gần cận Thiên Chúa.

Thế nhưng, làm sao có được sự thể là một số thần-sứ lại chối bỏ Thiên Chúa được? Câu trả lời chỉ có thể là: do lòng tự cao dự đại. Nhiều thánh Tổ-phụ trong Giáo-hội từng áp-dụng lời Chúa nói với dân Do-thái cho các ác thần/quỷ dữ, như:

“Phải, từ lâu rồi, ách đè lên ngươi, ngươi bẻ gẫy,
Xiềng xích trói buộc ngươi, ngươi giật phăng;
Ngươi còn dám nói: “chẳng làm tôi đòi ai cả.” (Giê 2: 20)

Cả khi có được bản-chất “hơn hẳn” như thế, một số thầnsứ nhà Trời không còn muốn phục-vụ ai hết, ngay cả Thiên Chúa là Đấng dựng ra mình và chúc phúc mình rất nhiều, cũng không. Tác-giả John Milton, trong cuốn “Thiên Đàng luột mất” đã đưa vào miệng ác-thần/quỷ dữ những câu như: Thà được thống trị chốn hoả-hào còn hơn cứ phải phục-vụ trên Thiên-Quốc.” (x. Sách đã dẫn chương I trang 263)

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo lại cũng dạy: “Sa-ngã của các thần-sứ là chọn lựa tự do, bởi các vị ấy đã chối bỏ Thiên-Chúa và quyền-năng Người một cách triệt-để không thể thu hồi lại được. Suy về hành động nghịch-chống Thiên-Chúa, ta thấy rõ nơi lời khuyến-dụ của Tên Cám Dỗ bậc thủy-tổ loài người như câu: Các người sẽ giống như Thiên Chúa biết được điều thiện điều ác.” (x. Sáng Thế Ký 3: 5, GLHTCG đoạn #392)

Xem thế thì, cả loài quỷ dữ/ác thần nữa cũng muốn như Thiên-Chúa nên đã bị tống vào chốn hoả-hào đầy than khóc. Thánh Phêrô có lần nói:

“Thật vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thần-sứ có tội, nhưng đã đưa họ vào chốn ngục-thất tối tăm, chờ ngày phán xét.” (x. 2Phêrô 2: 4)

Riêng thánh Mát-thêu lại cũng ghi chép Lời của Chúa nói về những người bị kết tội vào ngày phán xét buổi thế tận, có những câu như:

“Hỡi quan bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào nhốn lửa đốt đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ-thần của nó.” (Mt 25: 41)

Ai không tin vào hoả ngục, cũng nên ghi nhớ những lời đanh thép của Phúc Âm. Chắc chắn, Ác-thần/Quỷ Dữ vẫn hiện-hữu và chúng đang ở chốn hoả hào/ngục thất; thế nên, ít nhất phải có hoả-ngục hoặc địa-ngục cho đám này. Hỏi rằng: tại sao các Ác-thần dữ tợn này không được ban thêm ân-huệ nào hoặc huệ-lộc như chúng ta? Thì, câu trả lời nằm trong đầu óc rất biết điều của các thần-sứ cao sang nhiều hiểu biết. Các ngài hiểu rõ ràng ngay từ đầu về hậu-quả của sự việc mình chọn lựa, khi các ngài dám chối-bỏ Thiên-Chúa.

Các ngài biết rõ rằng: chỉ có một cơ-hội độc nhất mà thôi, và chọn lựa của các ngài không thu hồi được. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã trích lời thánh Gioan Đamascene từng nói: “Chính vì đặc tính không thu hồi chọn lựa của mình được, nhất thứ trong việc đào-thoát chối-bỏ tình thương-yêu vô bờ bến của Thiên-Chúa đã khiến cho tội lỗi của các thần-sứ trên cao không thể tha thứ được.” Và sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo lại cũng thêm: “Không có chuyện sám-hối đối với các thần-sứ trên trời sau khi sa ngã như con người, vì không thể có hối cải sau khi chết rồi.” (xem cuốn De Fide Chương 2, câu 4; và GLHTCG đoạn #393)

Để kết luận, tưởng cũng nên phấn đấu sao cho mình biết sống khiêm hạ và hạnh-phúc khi phục-vụ Thiên-Chúa là Đấng đến để phục vụ con người chứ không phải để con người phục vụ Ngài.” (Mt 20: 28) (Xem Lm John Flader, Fall of the Angels, Question Time, The Catholic Weekly 12/1/2014 tr. 10)

            Giải đáp và nhủ khuyên theo đường lối chính-mạch như đấng bậc vị vọng ở trên từng làm, là “nghề của chàng”. Thiện/Ác hai bên, dứt khoát không thể trộn lẫn/nhào quyện được. Đó là thần-học nghe rất quen. Tức, thứ thần-học chết chóc chuyên nhắm vào chuyện doạ dẫm với hình-phạt. Thần-học “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” chẳng bao giờ trừng phạt ai thì sao? Tình-Yêu chân chính của Chúa đâu bao giờ doạ dẫm hay trả thù! Đó là chưa kể, chuyện thần-sứ sa-ngã thành quỷ sứ có là sự thật lịch sử, khách quan hay chỉ là nghĩa bóng nào đó, mà các thánh-sử muốn diễn-tả?
Thật ra thì, hỏi hay nói như thế vẫn là những vấn-nạn thần-học khó minh định. Hay nhất là, mời bạn và mời tôi, ta đi vào những gì tích-cực và vui đẹp của nền thần-học Kinh-thánh, tựa hồ đề-nghị của Đức-thánh-đương-nhiên-là-cha Phanxicô hôm nọ có nói, làm đoạn kết cho mục phiếm hôm nay, rằng:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói: Hội thánh nên để ý đến “tâm-thức của kẻ tin” (sensus fidelium) khi thi hành thẩm-quyền dạy-dỗ của mình. Nhưng, đừng bao giờ lẫn lộn tâm-thức ấy với chánh-kiến phổ-cập của nhiều người về vấn-đề đức tin.

Phát biểu trước các thành-viên của Ủy Ban các nhà Thần-học trên thế giới, một bộ-phận cố vấn cho Vatican vào ngày 6/12/2013, rằng: Nhờ vào ân-huệ của Chúa Thánh Thần, anh  chị em thành-viên của Hội thánh có được tâm-thức niềm tin. Đây là vấn-đề về loại-hình “quan-năng tinh-thần” vốn cho phép ta cùng với Hội-thánh suy-nghĩ và luận-giải những gì phù-hợp tính kiên-định của niềm tin  rao giảng và tinh thần của Phúc Âm. “

Đức Giáo Hoàng có nói với giới chức có thẩm quyền dạy-dỗ trong Giáo hội rằng các vị có bổn phận phải quan tâm để ý đến những gì được Chúa Thánh Thần tỏ cho Hội thánh biết ngang qua những biểu-tỏ thực-thụ nơi “tâm-thức của kẻ tin”, mới được. Nhưng ngài cũng căn dặn các vị thần-học-gia này rằng: đừng lẫn lộn tâm-thức này với thực-tại mang tính xã-hội-học của phần đông những người có lập-trường quan-điểm chung. Đó lại là chuyện khác. Chính đó là chuyện rất quan trọng và công tác của các vị là trau chuốt các chuẩn-mực vốn dĩ cho phép ta luận-giải các biểu-tỏ đích-thực về “tâm-thức của kẻ tin”, như thế.” (xem Francis Rocca, Papal message to theologians: don’t assume too much, The Catholic Weekly 15/12/2013 tr. 7)

            Suy nghĩ thế rồi ta cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang mà cất lên lời ca của nghệ sĩ ở trên để thêm niềm tin vào “Thiên-chúa-Là-Tình-Yêu” rất tích cực và vui đẹp rằng:

Đêm nay tôi đưa em về.
Đường khuya sao trời lấp lánh.
Đêm nay tôi đưa em về.
Mắt em sao chiếu long lanh...”
(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Trần Ngọc Mười Hại
Vẫn suy nghĩ rất lung
Về lời của thần-học-gia Phanxicô
và các thần-học gia chuyên hù-dọa
về chuyện tin Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu
Cũng rất nhiều. 

         
        
                           


 

                                  

Saturday 18 January 2014

“Yêu em một khối tình quê,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa thường niên Năm A 26-01-2013

Yêu em một khối tình quê,
“Yêu em từng bước tình si.
Đêm đêm mộng thấy đường đi đường về.”
(Trầm Tử Thiêng – Đêm Nhớ Về Sài Gòn)

(Lc 1: 16)
                       
“Nhớ về Sài Gòn” nhiều đêm như thế sao? Vâng. Nỗi nhớ ấy, bần đạo đây cũng cảm nghiệm được vào những ngày lưu lạc ở chốn xa xôi rất quê người. Từ chốn miền xa xôi lạnh lẽo xứ Nga Sô ấy, nỗi nhớ quê nhà của bần đạo càng thắm thiết như lời ca người nghệ sĩ nay diễn tả:

“Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi.
Những con đường thèm đôi chân vui,
đã bao lâu chờ đợi.
Đường im nghe quá khứ trong sầu,
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau.
Tình lẻ loi canh thâu.”
(Trầm Tử Thiêng – bđd)

Tuy nhớ về quê hương, nhưng bần đạo đây chẳng thấy mình là “lẻ loi”, “canh thâu” khi lan man, tàn tàn trên phố phường nổi tiếng, từng chiến thắng hai đoàn quân hùng hổ ở hai cuộc chiến thế giới, rất năm nào. Chẳng thế mà, hôm nay, bần đạo cũng có tâm tư lẫn tâm tình đại loại với người viết nhạc qua lời thơ như sau:    

“Đêm nhớ về Sài Gòn.
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa.
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa.
Ai sầu trong quán úa,
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song.
Mắt người tình một trời mênh mông.
Gợi bao nhiêu cho cùng.. ”
(Trầm Tử Thiêng – bđd)

Lang thang chốn quê người heo hắt lạnh lùng, bần đạo lại cũng thấy cuộc sống của người và của mình tương tự như câu hát tiếp:

            Ta như cậu bé mồ côi.
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn
Để đêm đêm nhớ về Sài Gòn.
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Đã gặp người một trời yêu thương
cho lòng thêm chút ấm.
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau.
Tình chia trong đêm sầu ..”
(Trầm Tử Thiêng- bđd)

            Là nghệ sĩ thi ca/âm nhạc, khi đã nhớ Saìgòn là nhớ về tình huống có những đêm “thấy ngày tháng lẻ loi”, lại vẫn muốn “trở về quê hương”, để gặp “một trời yêu thương”, “cho lòng thêm chút ấm”. Ấm áp rồi, nghệ sĩ mình lại sẽ cùng mọi người đi vào giòng đời để gặp bạn bè/người thân đang ưu tư/trăn trở về những nhu cầu cũng rất cần cho mình, cho gia đình mình. Một trong các nhu cầu cấp thiết và thực tế nhất cho mọi người là nhu cầu đào tạo kiến thức cũng như nghề nghiệp, chứ không chỉ là  bằng cấp/khoa bảng như một số “đại gia” ở đây đó từng bày tỏ:

“Rõ ràng là, ngày càng có nhiều bậc cha mẹ ở Trung Hoa đã không đồng ý với vị sáng lập công ty mạng quốc tế “Alibaba” và các vị này lại chọn cung cách hy sinh từ ba đến bốn năm thu nhập của gia đình để đầu tư cho con cái, bằng cách gửi đứa con duy nhất trong gia đình du học nước ngoài. Có vị từng tự hỏi: thật ra có đáng bỏ tiền đầu tư như thế không?

10 năm qua, số sinh viên Trung Quốc xuất-dương du-học ngoại quốc gia tăng đến gấp ba và còn gia tăng mãi không dứt. Sự việc này, đã và đang trở thành gánh nặng khó giải quyết cho các gia đình trung-lưu có mức thu-nhập thâm thấp. Theo kết quả khảo sát do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc mới cho biết, thì: tính đến năm 2009, số sinh viên Trung Quốc du-học ngoại quốc chỉ bằng 2% số sinh-viên học trong nước, thôi. Cho đến cuối năm 2010, con số này tăng lên tới 34%, kể cũng lạ. Với đại đa số gia đình có con du-học ngoại-quốc, thì tiền học-phí là vấn đề không đáng để bậc mẹ cha quan ngại. Nhưng, với gia-đình trung-lưu có thu-nhập thấp và gia đình cần cù lao động, thì vấn đề ở chỗ: họ chỉ có độc nhất mỗi đứa con để trông cậy vào tuổi già, yếu bệnh ...

Ngày nay, vấn đề thiết thực đặt ra cho các gia đình có con đi du-học ngoại-quốc vừa nảy-sinh là: các đại học nước ngoài vẫn dựa vào học phí do sinh-viên Trung-quốc đóng cốt bổ-sung cho lợi-tức của họ. Thế nhưng, thật ra có bõ để bỏ ra từ 165 ngàn đô tới 330 ngàn đô cho việc chuẩn bị và hoàn-tất văn-bằng cử-nhân ở nước ngoài, để rồi khi trở về với thị-trường mong manh quốc-nội trong đó có đến 7 triệu sinh-viên đã tốt-nghiệp từ lâu nhưng vẫn không kiếm được công ăn việc làm, cho đáng.

Theo một số trung-tâm tuyển-dụng Trung Quốc, thì: các sinh-viên du-học ngoại-quốc mà người Trung Hoa gọi họ bằng tiếng lóng là “Rùa Biển” -bởi họ là những người rất “chân trong chân ngoài”- tức một chân để trên bờ, chân kia cứ rờ rờ dưới nước thực tế vì đồng lương không trổi-bật cho lắm, chí ít là khi họ khởi sự làm việc ở trong nước.

Theo Jennier Feng, chuyên-gia nhân-lực thuộc công ty “51 cổ phần” rất nổi tiếng ở Trung Quốc, thì hiện nay tiền lương ban đầu giữa các cô/cậu “cử” học tại đại-học ngoại quốc hay trong nước, vẫn không chênh nhau là bao nhiêu. Đã xa rồi, thời vàng son dành cho sinh-viên tốt-nghiệp đại-học nước ngoài được bảo đảm là có công ăn việc làm ở mức cao nhất, nữa rồi.

Cũng theo Jennifer Feng, thì: hiện đang có sự kiện tỷ-lệ sinh-viên đi du-học nước ngoài có khả-năng ở mức trung bình hoặc dưới trung-bình bị đánh trượt ở các kỳ thi tuyển vào đại-học trong nước. Theo cô, sinh-viên du-học ngoại quốc có thể không còn trổi-trang vào bậc nhất nữa. Cô Feng còn nói thêm: “hiện có đến 80% và/hoặc 90% đại học nước ngoài trong đó có sinh-viên Trung-Quốc theo học vào lúc này, thì hầu hết người trong nước chưa từng nghe biết. Cả đến việc học Anh-ngữ ở nước ngoài cũng không còn là vấn-đề then-chốt nữa! Các nhà tuyển-mộ công-nhân cho biết: có thể họ cũng đã đạt yêu cầu sử-dụng nhân-viên nói được tiếng Anh, ngay cả đối với các sinh-viên tốt-nghiệp đại học trong nước, cũng được...

Trong khi đó, theo ý-kiến của Xia Yinqui, chức-sắc phục-vụ chính-quyền Trung Quốc qua trọng-trách lôi-cuốn sinh-viên du-học có chỗ tốt trong chính quyền, thì: với sinh viên “chân trong chân ngoài” nói ở trên, vấn-đề thiết-thực đặt ra là: chuyện quan trọng nay không chỉ là có được công ăn việc làm và lương tiền thôi, mà là sống ở nước ngoài thì toàn thể quốc-gia mình tá túc lại chính là đại học của mình rồi. Và, vấn đề còn lại là chọn lựa sao cho đích-đáng với mình, mà thôi (x. Patti Waldmeir, Foreign Degrees Lose Mark of Distinction in China, St Peterburg Post 24/12/2013 tr.5)

Vâng, đúng thế. Ở đâu cũng vậy. Vấn đề quan trọng cho mọi người và mọi nơi sẽ là và vẫn là: chọn lựa. Chọn giáo dục, chọn “nghề ngỗng”. Cũng vậy, đối với dân con đi Đạo thì: chọn niềm tin theo Chúa hay không, thôi. Và, khi đã chọn rồi, ai ai cũng đều chăm nom/vun xới chọn lựa của mình, cho thật tốt.
            Hôm nay ngồi ghi lại những giòng phiếm này, bần đạo bầy tôi đây lại nhớ đến khẳng-định của cụ hướng-dẫn-viên du-lịch người Ba Tư ở Tê-hê-ran nhắc lại mấy lần về quan-niệm của bậc thày dạy của ông, một giáo-sư đại-học người Mỹ từng nói:

Lịch sử các nước thường vẫn giống nhau rất nhiều thứ. Ban đầu, cũng có chế độ quan-liêu rất bạo chúa, rồi đến cách mạng, đảo chính hay chỉnh lý cứ thay nhau liên hồi và người mới lên lại giết chết, phá hủy công-trình của thời-đại trước, rồi cũng lại xây dựng lâu đài, tường lũy mới cho triều-đại của mình... lịch sử cứ thế lập đi lập lại mãi giống như nhau; người đi sau cũng lại dẫm phải vết chân của người thời trước. Lý do là vì: hầu hết các người làm cách-mạng hoặc đảo-chính lại chẳng bao giờ học lịch-sử của đất nước mình cả, và nếu có học đi nữa cũng chẳng biết học những gì nên mới ra nông nỗi...” Vị hướng-dẫn-viên này còn thêm là: chuyện thay-đổi thể-chế hoặc chế-độ này khác, chỉ là thay-đổi chủ-nhân-ông của giới cầm quyền hoặc cầm tiền thôi!...
            Nghe chuyện, bần đạo đây thấy có điểm nghe hơi quen quen với người mình; nên, cứ ngẫm chuyện người lại nghĩ đến ta. Cứ nghe nhiều, là sẽ học được nhiều việc/nhiều chuyện có lợi cho chính mình. Hôm nay, sau nhiều ngày ngao-du rong-ruổi ở xứ người rất Nga-sô và Ba-Tư, bần đạo ngồi nghĩ thấy họ cũng có lý. Và, nhìn về thánh Hội của mình, lại cũng nhớ quan-niệm rất “hay hay” của bậc thày dạy từng bảo hôm nào, rằng:

Nhìn và học cung-cách nói năng-này với cảnh-tình Giáo hội ngày nay, ta thấy gì? Vài thập niên nữa, Giáo hội mình đi về đâu? Phải chăng sẽ có một thời qua đó rồi cũng đổi-thay trên thế giới? Và cả Giáo-hội mình nữa ư? Vâng. Cũng có thể, sẽ có thời kỳ bất ổn về cơ-cấu xảy đến với thế giới bên ngoài và cả trong Giáo hội mình.
Giáo hội ta hy vọng, lại sẽ không rơi vào thời cũ-xưa ở trong đó có thành-tựu này khác cũng rất nhiều. Nhưng, cũng có các giai đoạn gồm những cãi tranh, giành giựt uy-thế với nhau. Cả đến xã hội phóng-khoáng hay phóng-túng thời hiện-tại, lại cũng tìm cách sống mà không cần biểu tỏ ra bên ngoài từng qui vào Giáo hội. Lâu nay, thế giới ngoại-tại vẫn có khuynh-hướng/thái-độ chống-đối Giáo-hội. Tất cả những lối/những kiểu thẳng-thừng ấy sẽ đi vào dĩ vãng.
Bởi lẽ, Giáo hội không là cơ-cấu chống lại xã hội. Giáo hội không ở trên lịch-sử của người đời, cũng không miễn-nhiễm khỏi giòng sử thế-giới. Giáo hội vẫn sống chung sống cùng rất cởi-mở và đối-thoại với thế giới bên ngoài. Giáo hội sẽ chỉ sống sót, nếu biết đối thoại với thế giới ở ngoài mình. Bởi, Giáo hội ban cho thế-giới cung-cách công-khai diễn-tả về xác-tín của mình. Giáo-hội còn công-khai cho thấy cuộc sống của người đi Đạo theo cách tập thể, thấy được sự trong sáng, rất công-nhiên.
Cần nói ra đôi điều về đạo-đức/chức-năng của hai khối. Cần nói về ý-nghĩa và giao-ước về xác-tín với cộng đồng. Về niềm tin-yêu, đoàn kết. Cần nói thẳng/nói thật về kinh-nghiệm tư-riêng trong giòng sử rất tập thể. Tất cả nên đề ra không gian “ban tặng” hầu tạo giao-ước sống cùng và sống với nhau, trong hoà-hoãn.
Vấn đề là: làm sao nói lên điều ấy, cách huỵch toẹt? Nói thẳng và nói thật theo kiểu “Parrhesia” được bao nhiêu và bao lâu? Nói, một cách công khai khôn khéo ư? Mỗi thứ mỗi kiểu nói như thế kéo dài được bao lâu? Và, nói được nhiều điều hầu đạt sự hài-hoà, đoàn kết và vui sống, đó mới là mục tiêu đặt ra trước mắt cho xã hội ngoài đời và Giáo hội trong Đạo. Đó chính là vấn đề đặt ra cho ta, hôm nay.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San, Chúa Nhật thứ 25 mừa thường niên năm C, 25-9-2013)
Xem thế thì, từ quyết-tâm học-hỏi lịch-sử các nước có đổi thay, học cả thực-tại sự việc du học nước ngoài, ta lại bàn đến cảnh-tình Hội-thánh biết nói năng và lắng nghe, vẫn là động-thái thấy “quen quen” khi bạn và tôi, ta phiếm luận và phiếm “lọan” dài dài đến hết ý. Tuy nhiên, bàn về cảnh-tình Hội-thánh đã chứng-kiến bao nhiêu là diễn-biến lịch sử Đạo/đời, làm sao lại hết ý được! Chí ít, là ý kiến cùng tư-tưởng và kiến-thức về sử Đạo, lại cũng được bậc thày bàn bạc như sau:

Lịch sử Đạo, khởi sự với thế giới, ngang qua đế-quốc La Mã cũng khá mạnh. Mạnh đến độ, những người sống ở trong đó đều tham-gia góp phần vào nghi-thức thánh-thiêng của chính họ. Ai không theo qui-luật do họ định, đều bị xử phạt đến độ phải tử vì đạo. Và từ đó, niềm tin đi Đạo lại nhanh chóng lan tràn vào với đế quốc cả ở trời Tây lẫn phương Đông, khắp chốn.
Được như thế, một phần là nhờ vào phương-tiện cầu đường do đế-quốc thiết-lập. Sau thời bách hại, dân con Đạo Chúa cũng nhờ có Constantine lập nên khung-trời mới, với nhiều thứ, nên việc rao-truyền niềm tin xuyên suốt châu Âu đã đạt nhịp điệu đáng kể. Chính vì thế, chức-sắc đi Đạo lại rơi vào vết chân của giới chức trong Đế quốc, tức: cũng thi-hành quyền-lực hệt như họ. Và từ đó, việc rao truyền Đạo Chúa với thế giới bên ngoài, đã xuất hiện tự bên trong.
Vào thời đầu, dân con/quần thần ở đế-quốc tiếp tục hành-đạo theo kiểu cũ, dù ít người, vẫn là thứ tôn-giáo không niềm tin và cũng chẳng có tầm nhìn hoặc thị kiến linh-đạo gì hết. Tôn-giáo của đế-quốc cũng nhanh chóng mai một dần. Và, đám “rợ” các nơi mới có dịp xâm-nhâp toàn cõi châu này. Dù như thế, Hội thánh vẫn đủ sức tồn tại và trở thành chiếc “cầu nối” quá khứ với tương lai. Hội thánh, vẫn giúp-đỡ dân con mọi người tạo khối đoàn-kết để sau đó, trở thành một Âu châu đầy quyền-uy rất thế-lực. Và, Hội thánh cứ thế tồn tại cả ngàn năm, khả dĩ bảo-tồn được văn-hoá của quá-khứ và trao cho chúng-dân những điều tốt đẹp nhất trong đời.
Tuy nhiên, Hội thánh cũng đã suy sụp, để sau này, phải nhường đất cho một Âu Châu đang ở vào vị-thế phát-triển mạnh-mẽ. Ngay từ thế kỷ 16, chủ-thuyết “Thệ Phản” đã nhanh chóng chiếm-lĩnh nhiều thị-trấn ở châu này. Trong khi đó, thay vì đối thoại, Công-đồng Triđentinô lại chọn thái-độ kình-chống với họ. Nên, mới xảy ra “cuộc chiến” rất tôn-giáo. Và từ đó, kéo theo một khủng hoảng đến khiếp-hãi cho Kitô-giáo cả Thệ Phản cũng như Công Giáo. Và, các nhà trí-thức lại cũng xác tín rằng: tôn-giáo là chất xúc-tác tạo chiến-tranh đến độ không sao tái-tạo được nền hoà bình công chính. Và sự việc cứ xa rời cuộc sống của chúng-dân, để rồi lấn dần địa-hạt cá-thể, rất riêng lẻ.
Đã đến lúc toàn Châu Âu nay trên đà đi xuống. Sau đó, lại xuất-hiện thời-đại tân-kỳ bằng những phát minh mới, giấc mơ mới/cách mạng mới. Mọi sự nhất nhất đều nhân danh tự do và giàu có cho mọi người. Cũng từ đó, lại thấy xuất-hiện một số quốc gia “hiện đại” khiến Hội-thánh đâm phẫn-uất, bất-ưng chối bỏ mọi sự từ thế-giới với thế-gian, khiến đem lại một kết cuộc thảm hại cho cả Hội-thánh lẫn thế-trần. Ngay khi đó, trần-thế bên ngoài đã tạo được kiến thức mới, kỹ thuật mới và cả lối sống cũng rất mới...” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San, Chúa Nhật thứ 14 mùa thường niên năm C, ngày 07-7-2013)
            Xem thế thì, chuyện gì cũng vậy, cũng cần điều nghiên/học hỏi  rất xuyên suốt.  Học từ bậc trên xuống kẻ dưới. Học cả trong nước lẫn nước ngoài. Không nề hà, ngần ngại hoặc trễ nải. Nhưng, cứ học mãi, cả lịch sử, thần học lẫn văn-minh văn-hoá mọi dân-tộc. Quả là, giáo dục rất quan trọng và cần thiết để tiếp-thu những khám-phá công trình, lịch sử của bậc đàn anh đi trước. Văn minh ta có được ngày nay, là nhờ thừa hưởng/tích lũy những kinh nghiệm hoặc thành-tựu từ thời xưa. Văn minh cổ-đại lẫn tân thời, cũng tương-tự truyện kể ở bên dưới có đầu đề là “cạm bẫy”, nay dùng làm truyện minh họa, tuy hơi lạ:

Người Eskimo đã săn chó sói như thế nào trong vùng băng giá và lạnh cóng của Bắc Cực?” là một câu hỏi đã làm nhiều người dày công suy nghĩ để tìm câu trả lời.
Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật bén đem nhúng vào máu động vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại. Họ làm như vậy nhiều lần để càng lúc lớp băng càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng bằng máu bên ngoài hoàn toàn che dấu lưỡi dao bên trong. Tối đến họ găm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi máu của thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến. Chúng bắt đầu liếm những lớp băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn với tất cả những sự thèm thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú rừng nên càng liếm hăng say hơn. Càng chảy máu thì nó càng khát, và càng khát thì nó lại càng liếm … Sáng hôm sau, những ngưởi Eskimo chỉ việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi dao đó.”
Và lời bàn của người kể cũng vẫn là: Cái bên ngoài cạm bẫy bao giờ cũng hấp dẫn và quyến rũ vẫn rất thật. (trích truyện kể về “Cạm bẫy” truyền cho nhau, trên mạng.)

Truyện kể ở trên, thật ra cũng chẳng minh-họa được là bao về những điều bạn và tôi, ta bàn ở luận. Truyện để kể, chỉ muốn bảo, rằng: trong sống Đạo ở đời, người người đều khôn-ngoan/sẵn sàng học hỏi kinh nghiệm của bậc thày/đàn anh đi trước... dù không khoa bảng, vẫn cứ để lại cho ta nhiều kinh nghiệm để học hỏi.
Thế nên, hôm nay và mai ngày,rồi ra bạn và tôi, ta cứ quyết chí đi nhiều nơi, học hỏi những chuyện đại loại như thế, nhiều hơn nữa. Bởi, chuyện nào/kinh-nghiệm nào thì cũng bổ cả, như câu nói nghe quen quen: “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc”.
Tự nhủ như thế rồi, nay bần đạo bầy tôi đây xin mời bạn bè khắp nơi, ta cùng người nghệ sĩ trên hát thêm câu ca “để đời”, rằng:

Thấy mình vừa trở lại quê hương
Đã gặp người một trời yêu thương
cho lòng thêm chút ấm.
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau.
Tình chia trong đêm sầu ..”
(Trầm Tử Thiêng- bđd)
       
            Hát thế rồi, ta lại cũng suy thêm về Lời Chúa những nhắc nhở, mà rằng:

“Ai nghe anh em là nghe Thầy;
và ai khước từ anh em là khước từ Thầy;
mà ai khước từ Thầy
là khước từ Đấng đã sai Thầy."
(Lc 10:16)                             

Và hôm nay đây, Lời Chúa sẽ đọng lại trong ta, và với mọi người để rồi sẽ quyết-tâm sống đích-thực cuộc sống rất vững mạnh, hơn bao giờ hết. 

Trần Ngọc Mười Hai
Lại cũng sẽ cùng bầu bạn khắp nơi
Cứ tự nhủ và tự kỷ ám-thị ra như thế
Cho chuỗi ngày còn lại
Cuộc đời mình.