Wednesday, 31 July 2019
“Đàn chim tung cánh xa khuất mờ"
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 18 thường niên năm C 04/8/2019
“Đàn chim tung cánh xa khuất mờ"
Chiều thu lưu luyến màu thương nhớ.”
(Lâm
Tuyền – Hình Ảnh Một Buổi chiều)
(Thư
Rôma 1: 20-23)
Hình
ảnh này, lâu nay vẫn chỉ là những hình và những ảnh còn lại trong lý ức của
tôi, của bạn và của mọi người như “Màu
thương nhớ”, rất nhớ thương. Nhớ và thương, như vẫn thương và nhớ lời đấng
thánh hiền từng bảo ban lan man vào độ trước:
“Quả
vậy,
những
gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa,
tức
là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người,
thì
từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ,
trí
khôn con người có thể nhìn thấy được
qua
những công trình của Người.
Do
đó, họ không thể tự bào chữa được,
vì
tuy biết Thiên Chúa,
họ
đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo.
Trái
lại, đầu óc họ suy luận viển vông
và
tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội.
Họ
khoe mình khôn ngoan,
nhưng
đã trở nên điên rồ.
Thay
vì Thiên Chúa vinh quang bất tử,
họ
đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết,
hay
hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết.”
(Rôma 1: 20-23)
Nhớ và thương, lại là tình-tự
còn vấn vương như câu ca còn sót lại, những hát rằng:
“Nhớ
mái đầu ai nhuộm nắng vàng.
Buồn
biết bao giờ cho hết nguôi.
Lòng
ta ai oán man mác sầu.
Nhìn
xa xôi nhớ thầm mong ước.
Như
sóng trùng dương theo cánh buồm.
Là
lúc quên đời không tiếc thương.
Bao
năm qua ta sống giang hồ xa quê nhà.
Nơi
xa xôi muôn ý phiêu lưu dâng cho đời.
Dù
bao nhiêu cay đắng.
Đến
làm nát lòng ta.
Tan
nát rồi không đoái hoài.
Dù
bao nhiêu sóng gió.
Quyết
đem chí tung hoành.
Sống
quên hết bao hận bên lòng.
Hồn
ta luôn vương vấn.
Bóng
người khuất ngàn mây
Ai
biết lòng ta những khi chiều tàn.
Nhìn
ta say đắm man mác sầu.
Lòng
ta tha thiết tình thương nhớ.
E
ấp ngàn câu trong mắt buồn.
Người
biết ta sầu muôn ý nao.
Miền
xa mây núi xanh ngát màu.
Hồn
bơ vơ lúc hoàng hôn xuống.
Khi
nắng vàng phai trên núi đồi.
Là
lúc ta buồn bao kiếp nguôi.”
(Lâm Tuyền – bđd)
Nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng” lại cũng là ảnh hình của người ấy, vào
độ nọ, vẫn còn ghi-tạc trong ký-ức rộn-ràng những thương và nhớ. Nhớ và thương, còn là và sẽ là hình ảnh
của người mang nặng nét “buồn bao kiếp
nguôi”, mà thôi.
Thế
đó, là ký ức của bạn, của tôi hoặc của ai đó, vẫn cứ rải rác ở đâu đó, chốn miên
trường. Ký ức đầy mến thương, như lời độc-giả nọ ở nhà Đạo từng gửi đến ‘đấng bậc’
trên tờ Tuần báo Công giáo Sydney là báo chí có mục hỏi/đáp thân thương hôm
nào. Hỏi và đáp, cũng khá chuẩn như “nỗi
buồn man mác” của người hỏi được ghi lại ở bên dưới.
Nhưng
trước khi để mắt xem đấng bậc nhà mình ghi gì chép làm sao khi có đấng bậc dám đổi
lời kinh Chúa dạy. Vận nên, nay mời bạn/mời tôi, ta nghe câu truyện kể nói lên
sự khác biệt giữa lời nói và sự thể cũng rất thật ở ngoài đời, rằng:
“Truyện, là câu truyện từng
kể rằng:
“John
Carter là diễn-viên đi bộ trên dây thép giỏi nhất thế giới. Có lần, anh tham
gia cuộc thi biểu diễn đi trên dây thép giữa 2 ngọn núi đá cheo leo. Người thi,
phải đi từ bên ngọn núi này sang ngọn núi kia mà không có bất kỳ phương-tiện bảo-hiểm
nào hết Nhìn xuống khe núi, ai cũng bất chợt giật mình, và hãi sợ. Đây, quả là
thử thách nguy hiểm nhất từ trước đến nay!
Đứng
trên vách đá cheo leo ở đỉnh núi bên này, John Carter phải đi sang bên đỉnh núi
bên kia rồi trở về nơi chốn cũ. Anh chăm chú nhìn về phía trước, hai tay giang
thật rộng, nín thở từng bước một. Khi anh hoàn thành bài thi, mọi người vỗ tay
reo hò, thán phục.
Anh nói:
-Tôi
sẽ biểu diễn lần nữa nhưng lần này buộc 2 tay vào người. Mọi người có tin là tôi
có thể đi qua và về an toàn không?
Ai
cũng biết đi dây thép trên không dựa vào sự thăng bằng từ 2 tay là chính, nay nếu
trói, sao đi đươc? Nhưng ai cũng tò mò muốn biết kết quả nên đồng thanh hô:
-Chúng tôi tin anh, vì
anh là người giỏi nhất
Sau
khi trói 2 tay, John Carter lại đi về phía trước từng bước chậm rãi, sang quả
núi bên kia rồi đi về an toàn trong sự thán phục tất cả mọi người. Anh lại đề
nghị:
-Lần này tôi sẽ vừa buộc
tay vừa bịt mắt. Mọi người có tin là tôi làm được việc ấy
không?
Mọi người đồng thanh hô
to:
-Chúng tôi tin vì anh là
người giỏi nhất
Anh
lại lấy 1 miếng vải đen buộc kín hai mắt, 2 tay trói chặt, từ từ bước lên sợi
dây trong sự hồi hộp của mọi người. Tất cả nín thở và dõi theo từng động-tác của
anh. Có người còn toát mồ hôi ướt cả áo vì lo cho anh. Không làm mọi người thất
vong, anh lại biểu diễn xuất sắc một lần nữa.
Vẫn chưa chịu dừng lại ở
đó, anh tiếp-tục hỏi:
-Giả
như tay tôi bị trói chặt, mắt tôi bịt kín và đây là con tôi. Tôi sẽ để nó lên
vai, rồi hai cha con tôi cùng đi trên dây thép. Mọi người có tin là tôi làm được
thế không?
Mọi người lại trả lời:
- Chúng tôi tin anh là
người giỏi nhất
- Mọi người có tin thật
không?
-Tin!
-Mọi người có thật sự
tin là tôi đi được không?
-Chúng tôi tin 100%
Lúc này, anh lại chậm
rãi nói:
-Quí
vị đều thật lòng tin tôi. Vậy bây giờ, tôi sẽ đặt con tôi xuống và lấy con của
các bạn thay vào đó, có ai tự nguyện làm việc này không?
Tiếng
nói của John Carter làm quả núi im phăng phắc, không ai dám nói là mình tin như
thế nữa…” (Truyện kể
có thể trích và dịch từ nhiều nguồn gốc).
Và, người kể lại có lời bàn về bài học
ở đời như sau:
“Các
bạn ạ! Giữa lời nói và sự thật có một khoảng cách, có nhiều sự việc qua đó mọi
người thấy khoảng cách ấy thật xa, thậm chí còn trái ngược sự thật. Muốn biết lời
nói có phù hợp với sự thật hay không, thì chỉ một cách duy nhất ta có thể nhận
ra được, đó là: THỬ THÁCH. Nhà khoa học yêu nướcMỹ Benjamin Franklin có một câu
nói rất chí lý khi ông bảo: "Nếu bạn muốn biết giá trị của đồng tiền như thế
nào, hãy cứ thử đi vay mượn một ít đi, hẳn rồi sẽ tỏ". (Truyện kể lại cũng rút từ mạng vi-tính
do bạn bè người thân rất gần gửi đến).
Và, nay là chuyện hỏi/đáp ở nhà Đạo
Sydney, vẫn có giòng chảy xuyên suốt những ý-kiến sau đây:
“Thưa Cha,
Là
bậc mẹ cha trong gia đình, chúng tôi thấy quan ngại về động-thái xảy ra ở một số
trường/lớp của ta, cả trường Công giáo cũng như công-lập trên toàn nước Úc. Và,
con em chúng ta nay tỏ ra không mấy chắc-chắn về ‘giới tính’ của chúng có thật
như thế mãi không? Và, Đức Giáo Hoàng đã nói gì về vấn đề này? Xin cho chúng tôi
vài giòng để có lập-trường vững-chắc khi bạn bè bàn cãi bọn tôi còn biết đường mà
xử-trí. Cảm ơn cha rất nhiều.”
Có cảm
ơn cha nhiều hay ít, thì đấng bậc đạo mình vẫn không màng đưa ra lời minh-xác rất
chính-chuyên, tức: vẫn lấy giấy bút ra viết cho tỏ tường, kẻo thiên-hạ coi thường
Đạo. Trắng đen tỏ tường bàn ở đây, đại để như sau:
“Đức
Phanxicô có nói và viết về vấn đề này, rất nhiều lần. Nay, cũng là dịp thuận tiện
để ta nắm rõ những gì ngài từng phát-biểu.
Nói
cách khác, tháng Hai năm nay 2019 vừa rồi, Thánh Bộ Giáo Dục của Tòa Thánh có
đưa ra một tài-liệu quan trọng về vấn đề đem lại lợi-ích cho trường Công giáo cũng
như các thể chế giáo dục này/khác. Tôi sẽ viết rõ hơn chuyện này vào lần tới.
Một
trong nội dung bài phát biểu của Đức Phanxicô được rút từ Tông thư Amoris
Laetitia (Niềm vui Yêu Thương) ban hành vào năm 2016, qua đó ngài có bàn về giới-tính
con người. Thêm vào đó, Ngài “chối từ là có sự khác biệt và nhân nhượng nơi bản
chất nam-nhân cũng như nữ-giới để định ra một xã hội không có khác biệt về giới
tính. Thành thử, từ đó xóa bỏ nền tảng nhân-chủng-học của gia đình.
Đây
là hệ tư-tưởng vốn dẫn đến chương trình giảng-dạy và ban-hành luật pháp nhằm
thăng tiến tính nhân-bản cũng như sự mật-thiết tách-biệt khỏi mọi khác biệt về
sinh lý nam-nữ. Vì thế nên, nhân-cách con người trở-thành một chọn-lựa mỗi
cá-thể là thứ lại cũng có thể đổi thay, với thời-gian.” (Đoạn 56)
Ở
đoạn khác, trong cùng bản-văn nói trên, Đức Phanxicô có viết là: “Người trẻ cần
được giúp đỡ để họ chấp-nhận chính cơ-thể mình như được tạo-dựng do họ nghĩ rằng
mọi người chúng ta vui hưởng uy-quyền tuyệt-đối trên các chuyển-biến tinh-tế nơi
cơ-thể con người... Giáo dục tình-dục phải giúp người trẻ chấp-nhận cơ thể của
mình tránh mọi kỳ vọng là sẽ biến mọi khác biệt về giới tính bởi lẽ con người
không còn biết cách đối-đầu với nó”. (đoạn
285)
Trong
một buổi họp kín với các giám mục Ba Lan nhân có chuyến viếng thăm nước này hồi
2016, Đức Phanxicô có nói: “Ngày nay, tại trường lớp ở nhiều nơi trên thế giới,
người ta đang giảng-dạy điều này cho con trẻ, và các trẻ bé ở đây được dạy rằng:
mọi người, ai cũng có quyền lựa chọn giới-tính cho riêng mình.” Đức Giáo Hoàng lại
đã trách-cứ điều mà ngài gọi là “thực-dân-hoá-ý-thức-hệ” được nhiều nước có ảnh-hưởng
lớn hỗ-trợ, và ngài thấy không tiện nêu tên nước ấy, nhưng thêm vào đó nhận-đinh
bảo rằng: “Đây quả là chuyện quái-gở”.
Đức
Phanxicô nói với các giám-mục hôm ấy rằng: ngài có bàn về vấn-đề này với Đức Giáo
Hoàng Biển Đức 16 và Đức Bênêđích 16 bảo: “Đây là thời con người phạm tội cả với
Thiên Chúa Đấng dựng nên đất trời và con người.”
Và,
Đức Phanxicô đã bình-luận về câu đó, bảo rằng: “Ngài thông minh đấy! Thiên Chúa
tạo nên người nam và người nữ, theo cách này, kiểu này và kiểu cách này, còn
chúng ta lại cứ làm chuyện ngược ngạo với Chúa.”
Trong
lần phỏng vấn kéo dài giờ với ký giả người Pháp là Domique Wolton dưới tựa đề:
Chính trị và Xã-hội: Chuyện trò với Dominique Wolton, Đức Giáo Hoàng có bảo:
“Quả thật đằng sau tất cả những chuyện này ta nhận ra hệ tư-tưởng về giới-tính.
Trong sách vở, con trẻ lại được dạy rằng: con người có thể thay-đổi giới-tính của
con người, Thế thì, có phải là chuyện giới tính, tức: trở-thành nam-nhân hay nữ-phụ,
là một chọn-lựa chứ không là sự-việc của thiên-nhiên, đất trời? Đây là điều dẫn
đến sai lầm là thế!”
Trong
Tông-thư Laudato Si (ban hành năm 2015) ngài có đề-cập đến “hệ sinh-thái con
người” là thứ “tôn-kính” nhân-cách con người như hữu-thể người” và mối
tương-quan thiết-yếu giữa cuộc sống của ta với “luật luân thường đạo lý là những
thứ được ghi trong bản-chất của chúng ta.” (sđd đoạn 154-155)
Trong
buổi thảo-luận chuyên-đề hồi tháng Mười Một năm 2014 bàn về sự Bổ sung giữa
Nam-nhân và Nữ-giới do Thánh bộ Tín-lý và Giáo-điều tổ-chức, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô có nói đến tầm quan-trọng của gia đình thiết-lập giữa một nam một nữ cốt
để sinh con đẻ cháu khuếch trương lên.
“Con
trẻ, chúng có quyền được lớn lên trong gia-đình có mẹ có cha là những vị có khả-năng
kiến-tạo một môi-trường thích-hợp cho con trẻ sinh sôi nảy nở hầu phát-triển cả
về mặt cảm-xúc. Đó là lý do tại sao trong Tông Thư cổ vũ mang tên “Ebangelii
Gaudium, tôi có nhấn mạnh đến sự cần thiết đóng góp của hôn nhân đối với xã-hội,
là sự đóng góp vốn ‘thăng-tiến cảm-giác cũng như nhu-cầu thoáng chốc của đôi vợ
chồng.” sđd đoạn 66)
Tháng
Bảy năm 2010, khi còn làm Tổng Giám mục thành Buenos Aires, khi ấy quốc hội
Argentina cũng đã tranh-luận nhằm đề ra dự-luật hợp-pháp-hóa “hôn-hân đồng
tính”, ngài có viết một bức thư gửi 4 Dòng nữ chuyên về Chiêm niệm ở trong nước
yêu cầu các nữ tu này cầu nguyện cho dự luật này bị đánh bại.
Trong
thư ấy, Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: “Nay thì tính-chất và sự tồn tại của
gia-đình gồm một cha, một mẹ và các con cái đang có nguy-cơ biến-dạng. Cũng thế,
lại cũng có nguy cơ như thế xảy ra với sự sống của nhiều con trẻ bị kỳ-thị sớm khiến
gia đình không còn phát-triển gồm người cha, người mẹ như ý-muốn của Thiên Chúa
nữa. Nguy cơ còn thấy nơi việc phá bỏ luật của Chúa từng khắc sâu trong tâm-khảm
chúng ta.
“Ta
cũng đừng ngây thơ ỡm ờ nữa. Đây, đơn giản chỉ là cuộc tranh-đấu biện-luận về
chính-trị mà thôi, nhưng lại những muốn phá-hủy kế-hoạch của Chúa. Đây không chỉ
là dự-luật (tức: chỉ là công-cụ) nhưng là “nước cờ chuyển động” của người cha lếu
láo đang tìm cách khiến cho con cái Chúa bị hoang mang và thất vọng thôi”. (X. Lm John Flader, The lie of gender ideology, The Catholic
weekly 28/7/2019 tr. 19)
Cha
đạo nhà có mình nói gì thì nói, chúng dân ngoài đời vẫn cứ khư-khư bảo vệ ý-tưởng
sai lạc của họ một cách rất kiên trì. Cụ đạo mình, lâu nay dù có muốn “sống chết
mặc bay” bỏ ngoài tai mọi ý-kiến của dân thường ở huyện quyết bảo-vệ giòng tư-tưởng
mà cụ cho là chính-đáng như mọi lúc, ngang qua lý lẽ mà người kể truyện đặt tên
cho là “Đắc ngộ” cũng rất ‘ngộ’ như sau:
“Nghe
thiên hạ đồn rằng ở đất nước Bhutan chùa thật không phải chùa giả, sư thật
không phải sư quốc doanh, tu thật không phải tu lưu manh, nên vợ mình dắt mình
sang gửi tu học kết hợp cai rượu. Sau khi nghe vợ mình trình bày tiểu sử rượu
bia của mình, nhà sư bèn hỏi:
-Ngươi uống rượu có
thích không?
-Thưa thầy thích, rất
thích.
-Ngươi uống rượu có ngon
không?
-Thưa thầy ngon, rất
ngon.
-Rượu chỉ mang đến cảm
xúc vậy thôi sao?
-Thưa
còn nữa, mỗi lần uống rượu con thấy vui tươi, hoan lạc, yêu đời, yêu người, yêu
thương, độ lượng, tha thứ, hào hiệp. Có chai rượu ngon con gọi bạn bè đến, có
món ăn ngon con mời bạn bè đến. Uống rượu, đọc thơ và nói những lời tử tế.
-Thôi ngươi hãy về đi, đừng
đến đây gặp ta làm gì nữa.
-Thầy không nhận những
thằng uống rượu làm đệ tử phải không thầy?
-Không,
ta tu tập 50 năm để được sống thích thú, vui tươi, hoan lạc, yêu đời, yêu người,
độ lượng, tha thứ, hào hiệp nhưng vẫn chưa đạt đến cảnh giới đó. Còn ngươi chỉ
uống rượu lại đạt đến cảnh giới cao nhất của đạo.
-Nhưng thưa thầy con muốn
học đạo.
-Đến
với đạo có nhiều đường. Ta ăn chay, tụng kinh, niệm Phật. Ngươi uống rượu, đọc
thơ, nói lời tử tế. AI THÀNH TÂM THÌ THIỆN NGỘ!
Nói
xong nhà sư quay lưng đi, để lại mình bơ vơ trong sân tu viện. Vợ mình "dắt"
mình về, nói từ nay sẽ cho thêm tiền mua bia.” (Tửu đồ khuyết danh)
Truyện
đến đây cũng khá dài, thiết tưởng bạn và tôi, ta nên đi vào vùng trời văn
chương có những nhận-định này/khác về đời người với những đoạn viết vui vui như
sau:
“Một
người Pháp, một người Mỹ và một người Việt chính-tông tranh-luận xem Ađam và
Evà vẽ trên hình là người nước nào.
Ông người Pháp tuyên bố
trước:
-Trụy lạc trước cả Thượng
Đế như thế chỉ có thể là dân Pháp, thôi.
Người Mỹ lại tỏ bày:
-Tự
do đến mức có thể sống phúc hạnh, chỉ cần đừng sờ đến trái táo, thế mà họ cũng
không chịu nổi sự cấm đoán đó chỉ có thể là dân Mỹ… cồ!
Trong khi đó, người Việt nọ lại góp ý:
-Quần
áo chẳng có mà mặc, nhà cửa không nơi
nương náu, thậm chí ăn mỗi quả táo cũng bị cấm, thế mà vẫn bảo là mình sống
trên thiên đường vạn vật, phải chăng người ấy là Đại Cồ…Việt?” (Truyện kể rất thoáng do dân mạng
vi-tính chế biến, chứ không thật)
Kể lể
hoặc chế biến thế nào cố để có đôi giòng kết luận gọn trong đầu mà thôi. Nay mời
bạn mời tôi, ta về lại với ca-từ được nghệ sĩ trên từng cất tiếng hát rằng:
“Đàn chim tung cánh xa khuất mờ
Chiều thu lưu luyến màu thương nhớ.
Nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng.
Buồn biết bao giờ cho hết nguôi.
Lòng ta ai oán man mác sầu.
Nhìn xa xôi nhớ thầm mong ước.
Như sóng trùng dương theo cánh buồm.
Là lúc quên đời không tiếc thương…”
(Lâm
Tuyền – bđd)
“Sóng trùng dương theo cánh buồm, là
lúc quên đời không tiếc thương”, cả
những gì tốt xấu cũng như thế. Tức: không tiếc xót những điều mình ước và mong,
tự thuở nào. Và ở đâu chăng nữa, cũng thế thôi.
Trần Ngọc Mười Hai
Rồi ra, cũng chẳng tiếc chẳng thương
Những gì không cần thiết
đến mai sau.
Monday, 22 July 2019
“Đêm đông lạnh bên đường vắng”
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thường niên năm C 28/7/2019
“Đêm đông lạnh bên đường vắng”
Công viên buồn ánh đèn trắng
Bầy chim đã rũ trên cành
Trời mưa xuống, ai xa dần ...”
Công viên buồn ánh đèn trắng
Bầy chim đã rũ trên cành
Trời mưa xuống, ai xa dần ...”
(Phạm
Anh Dũng – Đêm Đông Lạnh Trời Mưa Xuống)
(1Timôthê 6: 17-19)
Có lẽ
cũng nên bắt đầu giòng phiếm lai rai, hơi dài hôm nay bằng câu ca trải dài trên
nhạc-bản của nghệ sĩ Phạm Anh Dũng, được cất lên trong đêm nhạc “Hát Cho Nhau
Nghe” qua chủ đề “Tình Tự Mùa Đông” ở Sydney hôm 07/7/2019! Nói chữ, có lẽ cũng
nên bảo rằng: ngang qua giòng chảy đầy chữ nghĩa của người nghệ sĩ mang tên “Phạm
Anh Dũng” của thời này bằng những ca-từ còn nối tiếp như sau:
“Đêm
đông lạnh mây lạc bến.
Ghế đá buồn không người đến.
Người phiêu lãng đã xa vời.
Trời mưa xuống lá rụng rơi ...
Đêm đông lạnh ai đàn trong gió.
Âm điệu buồn xóa nhòa vần thơ.
Và về đâu bao cánh sao mờ?
Và tìm đâu bao nghìn ước mơ?
Đêm đông lạnh, con thuyền không bến
Trong sương mờ tiếng hát lênh đênh:
Cuộc tình xưa tiếc mấy cho vừa,
Ngàn lời gió đưa mộng vào mưa ...
Đêm đông lạnh em ngồi đó
rũ tóc buồn bên trời gió
Ngàn cây lá rớt bên thềm
Trời mưa xuống trên vai mềm
Đêm đông lạnh ôi lạnh giá!
Tiếng guốc buồn xa vội vã
Giòng sông cũ nước cuốn trôi.
Trời mưa xuống ... Thấm ... bờ ... môi ...”
Ghế đá buồn không người đến.
Người phiêu lãng đã xa vời.
Trời mưa xuống lá rụng rơi ...
Đêm đông lạnh ai đàn trong gió.
Âm điệu buồn xóa nhòa vần thơ.
Và về đâu bao cánh sao mờ?
Và tìm đâu bao nghìn ước mơ?
Đêm đông lạnh, con thuyền không bến
Trong sương mờ tiếng hát lênh đênh:
Cuộc tình xưa tiếc mấy cho vừa,
Ngàn lời gió đưa mộng vào mưa ...
Đêm đông lạnh em ngồi đó
rũ tóc buồn bên trời gió
Ngàn cây lá rớt bên thềm
Trời mưa xuống trên vai mềm
Đêm đông lạnh ôi lạnh giá!
Tiếng guốc buồn xa vội vã
Giòng sông cũ nước cuốn trôi.
Trời mưa xuống ... Thấm ... bờ ... môi ...”
(Phạm
Anh Dũng – bđd)
Thế đó, là giòng chảy đầy
những chữ ở ngoài đời, nơi hành lang nghệ thuật những viết và lách. Lách rồi viết,
ở nhà Đạo còn thấy rõ đôi giòng chảy đầy tư tưởng về vai trò người phụ nữ ở nhà
Đạo, như sao:
“Trên
thực tế, ta đều thấy: phụ-nữ dấn thân vào cuộc sống Giáo-hội nhiều hơn nam-giới.
Thế nhưng, các bà các cô lại không có được quyền-uy, pháp-chế nào hết. Đó quả
là chuyện kỳ-thị khiến đảo lộn. Đức Kitô khi xưa từng chọn các nữ-phụ, tức các
tông-đồ thực-thụ dám dấn bước trên đường con đường mà các vị ấy chọn lựa. Ngay
đến chứng-nhân đầu tiên nhận-biết được việc Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết lại
là một người nữ.
“Loại-trừ
phụ-nữ ra khỏi công-cuộc thừa-tác-vụ, việc đó đơn-giản chỉ là vấn-đề văn-hoá
đơn-thuần, mà thôi. Nay, thì chuyện ấy không còn mang ý-nghĩa gì nữa. Vậy thì,
tại sao nữ phụ lại không thể chủ-trì Tiệc Thánh Thể được thế? Phải chăng, vì họ
không được tấn-phong ư? Không có luận-cứ hay ho nào lại chống-đối việc phong-chức
linh-mục cho phụ-nữ, cả.
“Ở
xã-hội bên ngoài hôm nay, phụ-nữ có thể đảm-trách bất cứ vai-trò nào cũng có thể
được, các bà/các cô đều có thể ở bất cứ vị-trí công-tác nào cũng được hết. Thế
thì, tại sao ta lại không cho phép các sự việc ấy được xảy ra trong Giáo-hội
Công-giáo của ta? Dĩ nhiên là, ta cần chuẩn-bị dư-luận mọi người. Một khi họ đã
không được chuẩn-bị kỹ-lưỡng rất có thể lại sẽ xảy ra chia rẽ trầm-trọng, tức:
những sự việc ta không thể lẩn tránh được.
“Bản
thân tôi, trong các bài viết khi trước, tôi vẫn quyết tâm cho mọi người biết trọn
vẹn về các vấn-đề này. Thế thì, tại sao ta lại không đề-cập chuyện ấy trong các
bài chia-sẻ/giảng phòng với tất cả lòng tôn-trọng, tử-tế và thanh-thản, sẵn có
chứ?
“Dạo
trước, tôi vẫn có thói quen mở đài nghe các đấng tranh-luận tại Thượng Hội Đồng
Giám mục Anh hôm 11 tháng Mười Một năm 1992. Tranh-luận này, thuộc cấp cao lại
sâu sắc, dám đề-cập đến vấn-đề mục-vụ cho những ai thuộc phe đối-lập, làm như
thế là để duy-trì sự hiệp-nhất trong Giáo-hội.
“Theo
nghĩa này, tôi rất vui lòng khi thấy có quyết định đề-cập cả chuyện phong-chức
linh-mục cho phụ nữ nữa. Và với tôi, đây là bước tiến rất lớn chứ không là trở-ngại
cho việc đại kết các Giáo-hội, bởi vì nhiều người Công giáo khác lại cũng đang
đi về hướng này.”(X.
Lm Edward Schillebeeckx – Thần Học Gia Toại
Nguyện, Người Ấy Chính Là Tôi, nxb Tôn Giáo 2017, tr. 138-139)
Ở
Tin Mừng theo thánh Luca đoạn 10 trở đi, ta thấy thánh sử cũng bàn nhiều về
sinh hoạt của các nữ phụ trong xã hội Do-thái-giáo thới xưa cũ. Xã-hội đây, lại
vẫn duy-trì một cách khá cứng ngắc các tập tục của người xưa cả ngoài đời lẫn
trong Đạo.
Nói
cho rõ, xã-hội này vẫn chỉ tôn-trọng và đề cao vai-trò của nam-nhân mặc dù nhiều
đấng phu quân hành-xử “chẳng ra gì”. Chính vì thế, mới có nhận định thật xác
đáng, như sau:
“Trình
thuật thánh Luca kể về động-thái khác biệt giữa hai chị em Maria và Martha
trong sự việc sống Lời Chúa. Sống năng-động Lời Chúa, không có nghĩa là: kéo
dài những ngày cuối tuần để chứng tỏ Chúa yêu ta biết chừng nào. Sống năng động
Lời Chúa, là chuyện cần thiết, cũng giúp ích như việc nguyện cầu sớm tối như
thánh Tôma Akinô từng nói: yêu Chúa, không cần đạt mức thương yêu “dữ dội”.
Nhưng nguyện cầu, cũng nên hạn định giờ giấc mới có lợi. Bởi, việc nguyện cầu
còn tùy người/tùy hoàn cảnh thế nên việc tu thân/tích đức cũng đã trở thành “vấn
đề” với người thời nay. Thời nay hay khi trước, ai ai cũng đều công nhận là cả
Martha lẫn Maria đều trở thành đấng thánh cũng rất lành.
“Thời
này, nhiều người lại tưởng rằng: ai sống kiểu Martha đều thấy mình không mấy lành
thánh là bởi vì mình không siêng-năng cầu nguyện cho đúng cách. Cũng hệt như thế,
có người sống giống như Maria lại cứ nghĩ rằng: mình có cảm giác lâu nay không
được đề cao cho đủ, như nhận xét ở trên.” (X. Lm Kevin O’Shea, DCCT Lời Chúa Sẻ San nxb Hồng Đức 2014, tr. 158)
Thật
ra thì, Sống Lời Chúa còn là và vẫn là sống đúng cách rất đơn giản như các nữ-phụ
thời đầu từng thực-thi trong đời thường ở huyện nhà. Sống Lời Chúa cách năng-động,
vẫn là và còn là sống tự nhiên/thoải-mái đúng với vai-trò mình lựa chọn, như lời
Đức Phanxicô từng tỏ bày trong ngày ngài bổ nhiệm các vị phụ nữ vào Thánh Bộ Đời
Sống Thánh Hiến của Giáo hội hôm ấy, mà rằng:
“Đức Phanxicô vừa bổ nhiệm 23 tân
thành-viên trong Thánh Bộ Học Viện Đời Sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Đời Sống
Tông Đồ trong số đó có 6 Bề trên Tổng quyền Dòng Nữ và một Giám-đốc Học-viện nữ.
Danh sách bổ nhiệm ngày 8 tháng 7 có cả Hồng y, Giám mục và Bề trên Tổng quyền
của Dòng Nam. Đây là sự bổ nhiệm khác với lần trước cũng chứng tỏ sự quan tâm
ngày càng gia tăng của Đức Giáo Hoàng trong việc bổ-nhiệm phụ-nữ vào các chức vụ
lãnh đạo trong Giáo Hội.
Năm 2014, Đức Phanxicô đã bổ nhiệm Nữ Tu Irma Luzia Premoli Bề trên Tổng quyền Tu Hội Comboni Missionaries làm thành viên Thánh Bộ Rao Giảng cho Muôn Dân. Đây là lần đầu ngài bổ nhiệm một Bề trên Tổng quyền Dòng Nữ vào ban lãnh đạo Thánh Bộ.
6 Bề trên Tổng quyền Dòng Nữ được bổ nhiệm hôm 8/7/2019 gồm: Nữ Tu Kathleen Appler Dòng Nữ Tử Bác Ái St. Vincent de Paul; Nữ Tu Yvonne Reungoat nữ tử Dòng Đức Bà Phù Hộ các Giáo Hữu hay còn gọi là Dòng Chị Em Salesian của Thánh Dom Bosco; Nữ Tu Françoise Massy Dòng Thừa Sai Phanxicô của Đức Mẹ; Nữ Tu Luigia Coccia Dòng Comboni Missionaries; Nữ Tu Simona Brambilla Dòng Consolata Missionaries; Nữ Tu M. Rita Calvo Sanz thuộc Tu Hội Đức Bà Là Mẹ chúng ta và chị Olga Krizova, Giám đốc Học Viện Đời Dom Bosco Secular Institute.
Hiến Chương Tông Đồ nhằm điều hoà các hoạt động trong Giáo Triều La Mã được soạn thảo vào năm 1988 cũng sẽ được thay thế trong nay mai, có ghi rõ các thành viên trong Thánh Bộ thường là Giám mục, Hồng y, mặc dầu “bản chất đặc thù của Thánh Bộ Giáo sĩ và Giáo dân có thể được bổ túc”.
Một số thành viên khác trong Thánh Bộ Đời Sống Thánh Hiến gồm có Hồng Y Angelo De Donatis, Tổng Đại diện Rôma; Kevin Farrell, bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Đời Sống; Luis Ladaria Ferrer, bộ trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin và Ricardo Blazquez Perez of Valladolid. 5 Giám mục và 7 Bề trên Tổng quyền Dòng Nam cũng được bổ nhiệm.” (Vũ Nhuận chuyển ngữ từ Nguồn catholicnewsagency)
Cuối
cùng thì, sống Lời Chúa lại là và sẽ mãi là sống xứng-hợp vai-trò và vị-trí
mình nắm giữ. Nói cách khác, Sống Lời Chúa hệt như ý-nghĩa được kể ở Tin Mừng,
còn là và sẽ là cuộc sống hơi “khang-khác” với những gì được kể ở câu truyện
minh-họa ở bên dưới, nghe cho vui mà thôi:
“Truyện
rằng,
Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng
nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi
mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
"Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy." Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười.” (Truyện kể trải dài trên mạng vi tính, rất linh tinh)
Lời
cuối hôm nay trong Luận Phiếm lai rai, đường dài lại là lời nhắn nhủ của Đức
Phanxicô khá nhẹ nhàng và ý-nhị mà rằng:
“Trước sự hiện diện của bề trên tổng quyền
các dòng nữ đến từ khắp nơi trên thế giới, Đức Phanxicô nhắc nhở khi gửi các chị
em đi làm công tác mục vụ thì phải đặt trọng tâm vào việc phục vụ Giáo Hội và
những người thiếu may mắn, thay bằng để đáp ứng nhu cầu “người tớ gái”.
Ngài nhấn mạnh “Các con không đi tu để trở thành “người tớ gái” của các linh mục” đâu. Lời tuyên bố mạnh mẽ này đã được Đức Phanxicô đưa ra trước khoảng 850 Bề trên Tổng quyền Dòng Nữ có mặt tại Rôma đang họp khoáng đại.
Tại Giảng Đường Paul VI ở Vatican, Đức Giáo Hoàng nói: nhiều hình thức phục vụ cần thiết trong lãnh vực quản trị, chăm sóc và công tác việc nhà cho những người thiếu may mắn, thế nhưng làm việc của một “người đầy tớ, thì tuyệt đối không”.
Cuộc họp khoáng đại của các Bề trên Tổng quyền Dòng Nữ (viết tắt là UISG) kéo dài từ ngày 6 đến 10 tháng 5/2019, đại diện cho hơn 450.000 nữ tu tại 100 quốc gia, nữ tu Carmen Sammut Bề trên Tổng quyền Dòng The Missionary Sisters of Our Lady of Africa là người sắp mãn nhiệm chủ tịch Hiệp hội đã đặc biệt cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc giúp Giáo Hội chống nạn lạm dụng con trẻ và những người cô thế. Về vấn nạn lạm dụng các tu sĩ, Đức Phanxicô cũng cho biết ngài ý thức vấn nạn này và coi đó là “một vấn đề nghiêm trọng”.
Nữ tu Sammut cũng cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Hiệp Hội UISG thành-lập Uỷ ban nghiên cứu việc phong chức Phó tế cho phụ nữ. Ngày 7/5/2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cho báo chí biết: Uỷ ban nói trên đã không đạt đước sự đồng thuận về vấn-đề này. Ngài nói: ‘Về chức phó tế, chúng ta cần phải xem lại điều gì đã xảy ra từ ngày đầu. Nếu có điều gì đó, thì chúng ta cứ để nó tăng trưởng, bằng không, nếu Chúa không muốn dành việc cử hành bí tích cho phụ nữ, thì không OK. Chính vì thế mà chúng ta nên nhìn lại lịch sử”.
Ngài nói tiếp: “Chúng ta cần phân định. Không có gì trắng hay đen, ngay màu xám cũng không có. Mọi sự đều biến đổi và con người cần phải thích nghi với sự biến đổi đó. Thế nhưng phải đi trên đường ngay nẻo chính của mạc khải. Chúng ta không thể đi trên bất cứ con đường nào khác. Chúng ta là người Công Giáo. Nếu có ai đó muốn thành lập một Giáo Hội khác. Thì họ cứ việc”. (Vũ Nhuận chuyển ngữ từ Nguồn Cathnews)
Để minh-họa những điều nêu ở trên, tưởng cũng
nên mời bạn/mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể hầu có tư-thế thư-giãn/bông
lỏng; nhưng trước tiên, ta cũng nên trở về với lời vàng Đấng thánh hiền khi xưa
từng khuyên nhủ:
“Người
giàu ở trần gian,
anh
hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại,
cũng
đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân,
nhưng
vào Thiên Chúa,
Đấng
cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng.
Họ
phải làm việc thiện
và
trở nên giàu có về các việc tốt lành,
phải
ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ.
Như
vậy họ tích trữ cho mình
một
vốn liếng vững chắc cho tương lai,
để
được sự sống thật.
(1Timôthê 6: 17-19)
Vi vu truyện kể ở vi-tính, lại cũng không bằng
truyện ngắn được kể lể khá dông dài ở đời người, như sau:
“Một người Pháp, một người Mỹ và một người Việt tranh
luận xem Ađam và Evà là nguời nước nào?
Nguời
Pháp thường nghĩ:
-Trụy
lạc truớc Thượng đế như thế, đó chỉ có thể là dân Pháp"
Nguời Mỹ thì khác, vẫn cho rằng:
-Tự do đến mức có thể sống hạnh phúc, chỉ cần đừng
đụng đến trái táo, vậy mà họ vẫn không chịu nổi sự cấm đoán; đó chỉ có thể là
dân Mỹ.
Duy có
người Việt lại cứ bảo:
-Quần áo chẳng có, nhà cửa cũng không, thậm chí ăn một
trái táo cũng bị cấm, thế mà vẫn bảo là sống trên thiên-đuờng thì chỉ là dân
Việt Nam khá khốn khổ!!!"
Dân Việt Nam có khốn khổ thật hay không, cũng chẳng
biết. Chỉ biết mỗi chuyện, rằng thì là: Ông Adong hay Bà Evà, vẫn là người đồng
loại thời ban sơ vui tính, nhưng không chảnh. Có chảnh chăng, thì chỉ những vị
ăn trên ngồi chốc rồi phán những điều mà ngày nay chẳng ma nào chịu nghe, làm
hoặc thuyết phục.
Thế đó, là tâm trang của người ở đời thường rất văn minh,
hiện đại thành “hại điện”, thế thôi. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta về với
ca-từ “Mùa Đông Lạnh” ở trên rồi hát tiếp những lời rằng:
“Đêm đông lạnh mây lạc bến.
Ghế đá buồn không người đến.
Người phiêu lãng đã xa vời.
Trời mưa xuống lá rụng rơi ...
Đêm đông lạnh ai đàn trong gió.
Âm điệu buồn xóa nhòa vần thơ.
Và về đâu bao cánh sao mờ?
Và tìm đâu bao nghìn ước mơ?
Đêm đông lạnh, con thuyền không bến
Trong sương mờ tiếng hát lênh đênh:
Cuộc tình xưa tiếc mấy cho vừa,
Ngàn lời gió đưa mộng vào mưa ...
Đêm đông lạnh em ngồi đó
rũ tóc buồn bên trời gió
Ngàn cây lá rớt bên thềm
Trời mưa xuống trên vai mềm
Đêm đông lạnh ôi lạnh giá!
Tiếng guốc buồn xa vội vã
Giòng sông cũ nước cuốn trôi.
Trời mưa xuống ... Thấm ... bờ ... môi”
Ghế đá buồn không người đến.
Người phiêu lãng đã xa vời.
Trời mưa xuống lá rụng rơi ...
Đêm đông lạnh ai đàn trong gió.
Âm điệu buồn xóa nhòa vần thơ.
Và về đâu bao cánh sao mờ?
Và tìm đâu bao nghìn ước mơ?
Đêm đông lạnh, con thuyền không bến
Trong sương mờ tiếng hát lênh đênh:
Cuộc tình xưa tiếc mấy cho vừa,
Ngàn lời gió đưa mộng vào mưa ...
Đêm đông lạnh em ngồi đó
rũ tóc buồn bên trời gió
Ngàn cây lá rớt bên thềm
Trời mưa xuống trên vai mềm
Đêm đông lạnh ôi lạnh giá!
Tiếng guốc buồn xa vội vã
Giòng sông cũ nước cuốn trôi.
Trời mưa xuống ... Thấm ... bờ ... môi”
(Phạm Anh Dũng – bđd)
“Trời
mưa xuống ... Thấm ... bờ ... môi” ôi đúng là cái lạnh của “Cơn mưa trong đêm
đông”. Nay về lại với lời
khuyên của bạn đạo qua giòng chảy được dùng làm đoạn kết cho bài phiếm lai rai suốt
đường dài, mà rằng:
“Người chết có thể đem theo thứ gì?”
Và câu trả lời khiến nhiều người thực sự giật mình! Bạn có
bao giờ tự hỏi: khi chết đi con người sẽ mang theo được gì? Có một câu chuyện rất
thâm thúy như thế này:
Người đàn ông nọ chết rồi, mới ý thức được rằng cuộc đời mình
thật ngắn ngủi. Lúc đó, anh ta nhìn thấy Bụt tay xách một cái hòm, tiến lại
phía mình. Bụt nói:
-Con trai, chúng ta đi thôi.
Người
đàn ông đáp:
-Sao
nhanh quá vậy, con còn rất nhiều việc vẫn chưa hoàn thành.
Bụt
nói:
-Ta rất
xin lỗi, nhưng thời gian của con hết mất rồi!
Người
đàn ông lại hỏi:
-Vậy
thưa Bụt, trong chiếc hòm của ngài có chứa thứ gì vậy?
-Đó là
di vật của con, Bụt trả lời.
Người đàn ông tỏ ra nghi ngờ, hỏi tiếp:
-Là di vật của con sao? Ý của người rằng đó là thứ thuộc về
con, có phải là quần áo và tiền không ạ?
Bụt đáp:
-Những
thứ đó trước giờ chưa bao giờ thuộc về con, chúng thuộc về địa cầu.
-Vậy có phải trong đó là ký ức của con không?
Người đàn ông ngẫm nghĩ một lát rồi phỏng đoán:
-Không
phải, ký ức thuộc về thời gian.
Người
đàn ông lại đoán:
-Có phải là tài năng thiên phú của con?
-Không, chúng thuộc về cảnh ngộ.
Người
đàn ông băn khoăn:
-Lẽ nào
trong đó là bạn bè và người nhà con?
-Con
trai ạ, không phải vậy đâu. Họ thuộc về hành trình mà con đã đi qua.
-Vậy có phải là vợ và các con của con trong đó không thưa Bụt?
Người đàn ông hỏi tiếp:
-Không,
họ thuộc về trái tim con.
Người
đàn ông lại phỏng đoán:
-Vậy nhất định đó là thân xác của con rồi.
Không,
thân xác của con thuộc về cát bụi.
Cuối
cùng, người đàn ông khẳng định chắc chắn:
-Vậy đó nhất định là linh hồn của con!
Lúc này, Bụt mỉm cười, đáp:
-Con trai, con hoàn toàn sai. Linh hồn của con thuộc về ta.
Mắt ngấn nước, người đàn ông nhận chiếc hòm từ tay Bụt bên
trong chiếm hòm trống rỗng. Nước mắt chảy dài trên má, trái tim vỡ vụn, người
đàn ông hỏi Bụt:
-Lẽ nào từ trước tới nay con chẳng sở hữu bất cứ thứ gì sao?
Bụt đáp:
-Đúng
thế con ạ. Thế giới này bây giờ chẳng có bất cứ thứ gì thực sự thuộc về con.
-Vậy thì cái gì mới là của con?
-Mỗi tích tắc khi con đang còn sống, chúng thuộc về con, còn
bây giờ, con chẳng còn gì cả.
Đến lúc này, người đàn ông mới như được thông suốt. Thì ra,
sinh mệnh, đời người chỉ là những cái tích tắc ngắn ngủi và điều chúng ta nên
làm nhất, là tận dụng nó sao cho thật hiệu quả, thật tốt, yêu quý nó, hưởng thụ
nó. Còn được sống, đó đã là một sự chiến thắng vẻ vang. Khỏe mạnh, hạnh phúc,
bình an mới là cái đích mỗi người cần hướng đến!” (Truyện kể, lại cũng
xuất xứ từ các trang sưu tầm ở vi-tính)
Sưu
tầm ở đâu thì ở, hãy cứ sưu tầm cho thỏa chí tang bồng miễn là bạn và tôi, ta cứ
vui sống, vẫn hiên ngang, đầu cao mắt sáng mà sống xứng-hợp ngày vui trong hiện
tại, chẳng cần ai và cũng chẳng cần gì, để được vui.
Thế
đó, là lập-trường của tôi, của bạn hoặc nhiều người ở đời. Mỗi thế thôi.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những ngày vui trong đời
Dù
hiếm hoi, dữ dội hoặc chóng vánh,
rồi cũng xong.
Subscribe to:
Posts (Atom)