Saturday, 26 July 2014
“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 18 mùa Thường niên năm A 03-8-2014
“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”
Có đôi khi em hay giận hờn,
Để cho anh quên đi ngày dài
Với bao đêm suy-tư miệt mài.”
(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Chưa Yêu
Lần Đầu)
(1 Cor 5: 7-8)
Vâng. Đúng thế. Tình
yêu vào buổi đầu, tuy có ra sao, cũng vẫn là thứ tình dạt dào nhiều âu yếm,
giống chiêm bao. Yêu lần đầu, là thứ tình cứ bảo nhau “đừng buồn”, dù “có đôi
khi em hay giận hờn”, “anh quên ngày dài”, hoặc cả hai từng “suy-tư miệt mài”,
đến quên chết.
Vâng. Có lẽ đúng như vậy. Bởi, một
khi đã yêu thương nhau, thì người kia hay bên nọ vẫn cứ hát các ý/lời đầy thơ,
những là:
“Mắt môi đây xin anh đừng chờ
Chiếc hôn kia mong anh từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ
Dắt em đi về trong đợi chờ.
Biết bao ngày đã qua, Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng, Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta, Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha, Mộng xưa cũng vơi theo tháng
ngày.
(Lê Hựu Hà – bđd)
Vâng.
Thi-ca và âm-nhạc ngoài đời vẫn có ý-tứ và lời-lẽ ra như thế, suốt một đời.
Nhưng còn, thực-tế cuộc đời nay lại có vấn-đề nổi cộm được báo chí ở Úc từng
cảnh-giác, rất như sau:
“Mới đây, tác giả của bài báo trên tờ The Telegraph có viết rằng: có vị trước đây là luật gia
tên là Chris Sevier vừa đệ đơn xin một giấy chứng hôn-thú để ông có thể lầm
thân với vi-tính có tên là Mac – book. Trong cố gắng biện-hộ cho vụ án của
chính mình, ông Sevier giải-thích rằng ông đã thành người ghiền dâm-thư qua máy
vi-tính của chính mình. Và, rất nhiều khi, ông đã thấy mình bắt đầu thích những
màn làm tình trên vi-tính hơn ăn nằm với phụ nữ thực-thụ.
Nhật báo The Telegraph tường trình rằng: luật sư Sevier
tìm cách lập nên vụ-việc để chống việc hợp-thức-hoá “hôn nhân giữa người
đồng-tính luyến-ái”. Ông Sevier có nói trước toà rằng: “Nếu đúng là, ngày
nay ta thực-sự có nguy-cơ đặt ra cho hôn-nhân theo truyền-thống nam nữ và con
cái, thì các cặp phối ngẫu giữa nam-nam hoặc nữ-nữ và giữa con người và máy móc
cũng đề ra một sự thể hệt như thế”. Và ông
luật-sư này cứ thế biện-luận rằng: nếu ta quyết bảo vệ quyền-lợi cho đồng-đều,
thì ắt hẳn sẽ không thiếu lý-do để hỗ-trợ cho đường-lối/chính-sách ngăn-ngừa
hôn-nhân giữa các cặp phối-ngẫu giữa con người và máy móc đâu thua kém hôn-nhân
đồng phái-tính...
Thêm vào trường hợp luật-sư Chris Sevier đưa ra về
hôn-nhân giữa người và máy, các nhà khảo-sát/nghiên-cứu còn cho biết rằng các
dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng có thể gây nên quan-hệ yêu-đương với người
khác làm cho chính con người ít hài lòng thoải mái, hơn trước đó. Ngoài chuyện
thường xuyên xem dâm-thư và phim ảnh kích-dục có thể khiến cho tâm-não con
người bị có vấn đề. Mọi người nay cũng không lấy làm lạ là mấy khi biết rằng: những
người mê man xem dâm-thư và/hoặc phim ảnh kích-dâm như luật sư Chris Sevier lại
cứ thích để máy móc kích-thích mình về chuyện dục-tình hơn đàn bà phụ nữ, cũng
rất nhiều.
Nói gì thì nói, các khảo sát nghiên-cứu mới đây còn cho
biết: mê dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng giống như mê ma-túy hoặc chích
choác, thôi. Tất cả những thứ này đều huỷ-diệt hôn nhân cùng một kiểu như
ma-túy hoặc các thứ thuốc bất-hợp-pháp, vậy. Đó là một trong các khám-phá mới
đây của hai nhà phẫu-thuật-gia thuộc Trung Tâm Khoa-học Y-tế trường Đại học
Texas, Hoa Kỳ”. (x.
Nicole M. King, Porn addiction is as
serious as drug addiction, MercatorNet 25/6/2014)
Người
đời nói thì nói thế, còn nhà Đạo đôi lúc lại vẫn bảo ban nhiều điều theo cách-thế
tinh-tế, nhè nhẹ rất như sau :
“Đức Thánh Cha Phanxicô lên tiếng tố-giác những tư tế hư
hỏng, thay vì trao bánh sự sống cho dân thánh của Chúa, thì lại cho những lương
thực có thuốc độc!
Đức Thánh Cha đưa ra nhận định trên đây trong bài giảng
thánh lễ lúc 7 giờ ngày 16-1-2014 tại nguyện đường nhà trọ thánh Matta ở
Vatican: “Đoạn Kinh thánh này (1 Sam 4: 11) làm cho chúng ta suy nghĩ xem quan-hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với
Lời Chúa như thế nào: phải chăng đó chỉ là một quan-hệ hình-thức, hời hợt, một
quan-hệ xa lạ? Lời Chúa có đi vào, có thay đổi tâm-hồn chúng ta hay không? Nhưng,
tâm hồn lại khép kín đối với Lời Chúa. Điều này làm chúng ta nghĩ đến bao nhiêu
thất bại trong Giáo hội, bao nhiêu chiến-bại chỉ vì họ không cảm thấy Chúa,
không tìm thấy Chúa, không để cho Chúa tìm họ! Và rồi sau khi thảm-trạng xảy
ra, người ta cầu nguyện: Lạy Chúa, làm sao điều ấy xảy ra được? Chúa đã làm cho
chúng con bị các lân bang coi rẻ...Chúa biến chúng con thành sự nhạo cười của
những dân quanh chúng con”.
Đề cập đến những gương mù, những xì căn đan trong Giáo
Hội, Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Chúng ta có xấu hổ không? Có bao nhiêu gương
mù mà tôi không muốn nêu riêng rẽ ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều biết và chúng
ta biết chúng ở đâu. Nhưng xì căng đan mà một số người đã bắt phải trả bao
nhiêu tiền... Thật là một ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những xì căng
đan, những chiến-bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những
xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một
địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng Lời Chúa thì
họ không có. Họ biện minh: ‘Nhưng tôi có huy chương mà! Tôi có mang thánh giá
mà!.. Đúng vậy, cũng như những người Israel xưa kia mang hòm bia Giao ước vậy!
Nhưng, họ không có quan hệ sinh động với Thiên Chúa và Lời Chúa’.
Đức Thánh Cha nói: “Tôi nghĩ đến Lời Chúa Giêsu nói về những
kẻ gây gương mù gương xấu... và nơi đây xì căng đan đã xảy ra: tất cả sự sa đoạ
của dân Chúa, cho đến sự yếu nhược, sự hư hỏng của các tư tế”, (x. G. Trần Đức Anh O.P, Đức Thánh Cha tố giác những tư tế hư hỏng, www.Vietcatholic.com 17/01/2014)
Vâng.
Nói như đấng bậc tối cao nhà Đạo, là nói lời khuyên bảo dân con mình hãy về với
Lời Chúa từng nhủ khuyên, ban bảo để rồi vẫn mang nặng thứ tình yêu thương
trong trắng, không xì căng đan, hoặc tì vết.
Vâng.
Nói lời yêu đương như nghệ sĩ ngoài đời, là còn nói bằng câu ca rất như là:
“Hãy cho em môi hôn nồng nàn,
Lỡ mai sau duyên ta muộn màng,
Sẽ không ai cho ta vội vàng.
Mới yêu đây nay nhưng sao phũ phàng,
Hãy yêu như chưa yêu lần nào,
Hãy cho nhau môi hôn ngọt ngào.
Hãy đưa em về nơi cuối trời,
Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Vâng.
Vấn-đề là: đã có tình-yêu trong trắng tức “Hãy
yêu như chưa yêu lần nào” , và rồi: “Hãy
đưa em về nơi cuối trời!”, để rồi ở nơi đó, anh và em sẽ có “Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời” cứ yêu
nhau, cách trong trắng. Ở nơi đó, sẽ chẳng có “xì căng đan” nào khiến anh và em
đến phải “xấu hổ” với Lời Chúa, với mọi người.
Vâng. Cũng một chiều-hướng đó, đấng thánh hiền nhà Đạo cũng từng dặn dò
bảo ban những người anh người chị trong thánh Hội Nước Trời vào thời đó, rất
như sau:
“Anh em hãy loại bỏ men
cũ
để trở thành bột mới,
vì anh em là bánh không
men.
Quả vậy,
Đức Kitô đã chịu hiến tế
làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta.
Vì thế, chúng ta đừng lấy
men cũ,
là lòng gian tà và độc
ác,
nhưng hãy lấy bánh không
men,
là lòng tinh tuyền và
chân thật,
mà ăn mừng đại lễ.”
(1
Cor 5: 7-8)
Lòng
tinh tuyền, không chỉ là “men” trong bột cũng rất mới, mà thôi, nhưng còn là
ý-nghĩa cuộc sống của hết mọi người, chí ít là dân con của Đức Chúa.
Lòng
tinh tuyền, lại cũng là lòng chân-thành của dân con nhà Đạo trong ứng-xử với mỗi
người và mọi người. Ứng-xử ấy, vẫn là lòng-thành chân-chất Chúa từng tỏ-bày với
con người từ thuở tạo-dựng cho đến hôm nay và mãi mãi suốt mọi thời.
Ứng-xử
tử-tế với người trong Đạo hay “ngoài luồng” vẫn là lối ứng và xử của các đấng bậc
trong Đạo diễn-giải thêm như sau:
“Thực
tế đời người, ta thấy Chúa “ứng xử” tử tế với mọi sự, mọi người. Ngài ứng xử tử
tế cả với đất đá, bông hoa, thú vật cùng loài người. Mỗi động tác, đều thể hiện
trạng huống xuất từ một nguồn duy nhất. Ứng xử tử tế, là quan hệ với Bản Thể
Chúa theo cung cách thi đua/khác biệt, có khi còn đối kháng. Nhưng mỗi loài và
mọi loài, đều đáp ứng thích-hợp với quà-tặng Chúa ban, hầu trở thành “vũ trụ” hợp
nhất mang ý nghĩa rất chung tình.
Ứng
xử gây kinh ngạc ở trời mới/đất mới, là ứng xử tử tế giữa hai bản thể tuy riêng
rẽ/khác biệt, nhưng lại vẫn chọn sống chung và sống cùng cả triệu năm. Chọn
cách sống, nếu không sống chung sống cùng, sẽ không thể sống tốt đẹp. Chọn cách
sống ứng xử,hỗ tương khá lạ kỳ, là công việc Chúa vẫn làm với dân gian người
phàm, mãi đến hôm nay...
...Các
lý lẽ khiến có sự gãy đổ, thoái thác và thu hồi sự hỗ tương nam nữ trong hôn nhân
không được chấp nhận ở Kinh Sách. Đó là vi phạm kết hợp hài hoà rất nền tảng.
Là, phá vỡ giao-ước có từ thuở đầu. Cũng thế, giả như ta phá bỏ/huỷ hoại bí mật
và thực trạng phối kết nam nữ do Chúa lập như luật Torah nói “cho phép ly dị”,
và họ có làm thế cũng chỉ như một trong các thể-lệ được Chúa cho phép, chứ chẳng
vì họ muốn làm. Dĩ nhiên, việc này tạo nỗi buồn sâu sắc trong lòng Chúa. Và, việc
này có xảy đến cũng do con tim của nam-nhân và nữ-phụ đã chai đá, cứng cỏi. Sự
cứng cỏi, do tâm can/tự sự vẫn muốn thoải mái hơn là chấp nhận quà của Chúa, tức
mãi mãi sống chung cùng nhau, vui bên nhau.
Những
lý do khiến truyền thống Giáo Hội qui trách nhiệm lên những người không có khả
năng tiếp tục cuộc sống lý tưởng. Truyền thống Giáo Hội không ngần ngại gọi
tình cảnh rẽ chia là “tội” hoặc “lỗi” mang tính khách quan. Bởi, tội lỗi vẫn là
cách ly. Ân lộc mới nối kết. Chính vì lý do này, mà truyền thống Giáo Hội nói
hôn nhân là ân lộc. Là, bí tích thánh thiêng, huyền nhiệm, vinh hiển.
Quan-hệ
nam-nữ trong hôn-nhân đã chứng tỏ Thiên-Chúa đích-thực là sự kết hợp hài-hoà.
Đó là mạc khải về sự kết-hợp nơi Chúa Ba Ngôi. Chính sự kết-hợp thánh-thiêng
này nói lên điều Chúa muốn nói, là: Thiên-Chúa thực-tình phối-kết với nhân loại
mà không muốn cách chia, phân rẽ. Hôn nhân đích thực là dấu hiệu của bí nhiệm
này. Chính nhờ vào ánh sáng của phối kết, con người hiểu được thể nào là “nhập
thể” và thế nào là “biến hình”. Nhờ đó, cũng hiểu được chính mình.
Sẽ
không quá đáng nếu nghĩ rằng: chính sự tháp-nhập vào với nhau để nên một, xứng-hợp
với ý-tưởng “thành trẻ bé”. Điều đó nói lên rằng: có thấy bất-xứng mới không
hãi-sợ chuyện gần-gũi người kia/người khác và khám phá ra rằng sự sống đích thực
nằm ở sự việc này.
Thánh
Phaolô yểm-trợ cho ý-tưởng này và ngài còn tiến xa hơn thần-học Do-thái về vấn
đề đó. Thánh-nhân thấy rõ sự kết-hợp hỗ-tương nơi hôn-nhân là gia-nhập/hiệp
thông với đối-tác cả vào sự thể mà ta thường gọi là sự mỏng dòn/dễ vỡ nhưng lại
mang tính Phục-sinh nơi người phối ngẫu phiá bên kia. Nam-nhân và nữ-phụ, cả
hai đều sợ chết, nhưng mỗi người nam-nữ phiá bên kia mới bảo đảm mình không sợ
chết, mà chỉ bắt đầu trỗi dậy, nên yên-tâm. Thánh Phaolô thấy nơi người phiá
bên kia không như người khác, mà như là thành-phần của Thân mình Chúa sống lại.
Thật
phức-tạp khi nhận ra rằng: thái-độ của thánh Phaolô về thân xác, dục tình, thịt
da nơi người nam và nữ “phía bên kia” không tiếp-tục đi sâu và trọn-vẹn vào sự
Đạo đang diễn-tiến. Họ bao gộp sự tự-do và cảm-thông hỗ-tương mà ngày nay ít
người phổ-biến. Riêng các sử-gia lại nghĩ: từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 5, Hội
thánh đã từ từ lấy lại từ người La Mã và văn-hoá ngoại-giáo thái-độ “phải lẽ” với
thân xác, gia-đình, hôn-nhân, cùng trinh-tiết và cả việc tiết-giảm dục-tình nữa.
Điều này, khác với động-cơ thúc đẩy và cung-cách thực-hiện vẫn có do trường-phái
kiểu thánh Phaolô mang tới.
Có
lẽ, Kitô-hữu thời tiên-khởi không giống cộng-đoàn Phaolô, tức không có tự-do đủ
để vui-hưởng cuộc sống như thánh-nhân dạy. Có lẽ đây là lý-do khiến họ tiến tới
khuynh-hướng khắc-kỷ, tức nghiêng về đạo-giáo Đông phương; và từ đó, kéo theo
chuyện các Kitô-hữu nay thành người ghét bỏ xác thịt, dục tính và tình dục; và
coi thường người khác phái “phía bên kia”. Nhà thần học luân lý nào đặt nặng
tính lịch sử vào đạo-giáo sẽ làm rõ nghĩa vấn đề này hơn.
Thánh
Phaolô chú-tâm nhiều về việc hai người nam-nữ san-sẻ sự mỏng-dòn trước sự chết
và sống lại, nên đã lạc-lõng cách nào đó. Lạc-lõng, cả trong thần-học Đạo Chúa,
mãi sau này. Thần-học ấy, quyết nhấn mạnh rằng: cá-nhân con người vẫn làm được
điều tốt đẹp cho mình nếu biết tự mình giúp mình. Qua nhận-thức sự mỏng-dòn, họ
thường tự cho mình là người chín-chắn, trưởng-thành, chẳng cần lo. Nhưng lại
không hiểu rằng chính mình cũng mỏng-dòn với người khác và mọi người”. (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm B, nxb Hồng Đức 2014
tr.217-218)
Quả
là, trong quan-hệ giữa hai người và nhiều người, luôn có sự mỏng-dòn rất đáng sợ.
Nếu không cẩn-trọng, hẳn mọi đối-tác trong quan-hệ này, sẽ rơi vào tình-huống
khó-khăn, rất khó tránh. Tình-huống tương-tự nơi đấng-bậc phạm-pháp được dẫn ở
trên, mà không có sự chỉnh-sửa, sẽ còn gây tai-hại đến nhiều người, nhiều thời ở
nhà Đạo nữa.
Sự
thể ở nhà Đạo lúc này đây, bây giờ, vẫn là tình-huống cần được chỉnh-sửa. Chỉnh-sửa
không chỉ bằng việc trang-trải hoặc thanh-toán bằng tiền bạc là xong; nhưng chắc
chắn phải nhờ vào quyết-tâm của người trong cuộc cũng như thành-phần dân Chúa,
muốn hỗ-trợ.
Thành
thử ra, vấn-đề đặt ra cho ta, không thể như thái độ của quan-chức chỉ mỗi “cưỡi
ngựa xem hoa”, xong rồi rồi thôi. Nhưng còn là nhận-thức trước đã, sau đến sẽ
tra tay hành-động cho đúng cách, mới thành-công.
Nhận
định thế rồi, tưởng cũng nên đi vào với thế-giới văn-chương truyện kể để tìm ra
cho mình và cho người một bài học để đời, rất vui tươi:
“Truyện rằng:
Một
hôm, Tô Đông Pha đến chơi chùa, cùng ngồi thiền với nhà sư, trong khi ngối thiền
thấy an-lạc xuất-hiện. Xả thiền xong, Tô Đông Pha rất vui vẻ hỏi nhà sư:
-Ngài
thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì?
-Trông
ngài giống như Đức Phật...
Tô
Đông Pha nghe thế vui lắm. Thiền sư hỏi lại:
-Thế
ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì?
Tô
Đông Pha đáp:
-Trông
ngài ngồi thiền giống một đống phân bò.
Thiền-sư
nghe thế cũng hứng-chí lắm. Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về, nghĩ bụng hôm
nay ta đã thắng lão hoà-thượng đó một phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà
không bẻ lại được câu nào cả. Tô Đông Pha về khoe với em gái là Tô tiểu muội:
-Hôm
nay anh đã qua mặt được lão sư già đó rồi.
Tô
tiểu muội hỏi chuyện gì, thì Tô Đông Pha hào-hứng kể lại. Tô tiểu-muội cười ồ
lên, Tô Đông Pha càng hào-hứng. Hỏi mãi, Tô tiểu-muội mới nói:
-Muội
cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hoà-thượng ấy rồi.
Tô
Đông Pha ngạc-nhiên hỏi thế nào, thì Tô tiểu-muội đáp:
-Tâm
của lão hoà-thượng là tâm Phật, nên thấy huynh cũng giống như Phật. Còn tâm của
huynh thì toàn phân-bò, nên huynh thấy hoà-thương như đống phân bò thôi. Tâm của
huynh như thế làm sao mà bằng được tâm của lão hoà-thượng được cơ chứ!”
Đọc
truyện kể ở trên, chắc hẳn bạn cũng như tôi, ta đâu thấy có gì nối kết với vấn-đề
mình đang bàn. Rất đúng. Thế nhưng, ở đây, người kể lại cứ muốn diễn-giải thêm
đôi chút để câu truyện có lý-chứng nói về tình-huống rất không phải ở nhà Đạo
hoặc ngoài đời. Tình-huống con người xử-sự có đúng và phải Đạo hay không cũng
tuỳ tâm tùy tánh của mỗi người.
Quả
là, có tâm Phật hoặc tâm-can con của Chúa, mới ứng-xử tốt với tha-nhân mọi người
ở đời. Chí ít là người đối-tác ở đời phía bên kia, rất phái-tính.
Giả
như bạn và tôi, ta vẫn thấy không mấy thuyết-phục với lý-chứng do người kể vừa
đưa ra, thì đây xin mời bạn và mời tôi, ta lại xem thêm một truyện “tưởng-như-đùa”
hoặc “chuyện phiếm” khác, rất như sau:
“Nhân-viên
nọ, tới sở làm trong tình-huống hai tai bị băng bó. Ông Trưởng sở của anh ấy thấy
vậy, bèn dò hỏi xem chuyện gì vừa xảy ra, hôm qua. Anh trả lời:
-Chả
là: hôm qua, đang lúc tôi ủi chiếc ao sơ mi trắng nõn, thì chuông điện-thoạt bất
chợt reo lên. Tôi vội chụp lấy bàn ủi điện ấy lên thay vì ống nói điện-thoại rồi
áp vào tai mà trả lời.
Ông
trưởng-sở bèn có ý-kiến phản-hồi rằng:
-Rồi
xong! Điều này giải-thích được về một bên tai bị phỏng. Thế, còn tai bên kia,
thì tại sao?
-Đó
là do bởi cái thằng ngu bên kia lại gọi một lần nữa, thế mới chết!”
Thật
ra thì cũng chẳng chết thằng Tây nào hết ráo trọi. Bởi lẽ, cả nhân-viên ở sở
làm cũng như ngài Tô Đông Pha của ta, đâu biết rằng cuộc đời mình vẫn có những
thứ và những sự rất tréo cẳng ngỗng! Bởi không thận-trọng và khôn-khéo thì rồi
ra ai cũng có thể là nạn-nhân hoặc phạm-nhân của bất cứ sự việc nào trên đời, cả.
Nhận-định
thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết-thúc chuyện phiếm hôm nay bằng lời ca
trên do người viết nay thành người thiên-cổ, ra như vẫn còn khốn-khó với ca-từ
rằng:
“Biết bao ngày đã qua,
Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng,
Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha,
Mộng xưa cũng vơi theo tháng ngày.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Thật đúng thế. Giấc mộng lớn/giấc mộng nhỏ, của con người, nay cứ “vơi theo tháng ngày” đã qua, “dù con tim vẫn thiết tha” vào “biết bao chiều xót” , giống như người “ngồi đếm những giọt nắng, rơi rụng trước
mái hiên nhà”. Nhà, của tôi và của người vẫn còn đó trên đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Rất muốn cảm thông
với mỗi người và mọi người
ra như thế.
Friday, 18 July 2014
“Muốn một lần tạ ơn với đời,”
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 17 mùa Thường niên năm A 27-7-2014
“Muốn một lần tạ ơn với đời,”
Chút mặn nồng cho tôi
Có những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng chỉ là mơ thôi
(Trịnh Công Sơn – Như Một Lời Chia Tay)
Chút mặn nồng cho tôi
Có những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng chỉ là mơ thôi
(Trịnh Công Sơn – Như Một Lời Chia Tay)
(Lc 6: 21)
“Nằm nghe tiếng cười” rất nhiều lần, mà nghệ sĩ mình lại bảo, đó: “chỉ là mơ thôi”, sao? Chao ôi, phải
chăng đấy là thi-ca và âm-nhạc? Hay, ngày nay người mình “có những lần nằm nghe tiếng cười”, lại cứ nghĩ: đó chỉ là mơ/là
mộng và còn phán: đó như một lời chia tay.”
Rồi cứ thế, nghệ sĩ mình, lại hát tiếp những “lời chia tay” cũng rất buồn, như
sau:
“Những
hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi.”
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Hôm nay,
bần đạo đây cũng có nằm và có nghe thấy “tiếng cười”; nhưng không là “lời chia tay” và chẳng là “hẹn hò từ nay khép lại, khép lại từng đêm
vui”, nhưng “chợt nhìn ra (những)
tôi” và tôi. Chính tôi và tôi, là những người vẫn biết cười và/hoặc chỉ
những cười là cười. Bởi, cười là “bản tính của người mình” như học giả Nguyễn
Văn Vĩnh vẫn cứ bảo: gì cũng cười!
Cười, còn
là và vẫn là: điểm son và là sự sống rất tin-yêu của nhà Đạo mình, nữa đấy bạn
ạ! Không tin ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta quay về với đấng bậc vị-vọng
trong Đạo từng quả quyết, qua suy-niệm và sẻ san Lời Chúa ngày hôm ấy, rất
“thường niên” Chúa nhật 16 năm A như sau:
“Nghe
kể về dụ-ngôn Chúa nhật hôm nay, người người được khích-lệ sống tích-cực điều
Chúa dạy. Sống tích-cực, kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi nơi Lời Chúa nói, vẫn
có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất
riêng-tây của thánh-nhân khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người
thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, rất
dễ chịu.
Về
cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười
mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:
-Cười, để học biết chấp-nhận tầm-kích ân-huệ của cuộc sống
khó có thể kiểm soát;
-Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi mọi hiểu-biết
chính con người mình;
-Cười, là ngày sống có dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối
cùng và mãi mãi với thực tại;
-Diễu cợt, là điều để ta cười vào đó, cho bõ kiếp sống
này; chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người
mình;
-Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;
-Cười là niềm cảm-thông huyền-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ
trong đời;
-Đứng trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp
để đổi thay để ăn nói;
-Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được
như thế;
-Cười, khiến cho con người trở thành người đáng yêu;
-Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về
phẩm-cách của mình;
-Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để sẽ
không mất nhau trong đời;
-Cười, đôi khi khiến ta có nguy-cơ bị người đời coi là hời-hợt,
sống ngoài mặt; nhưng
cười, ít ra cũng
làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;
-Cười trong đời sống hằng ngày là các cảnh-báo để mình sống
tốt trong thực-tế ở đời;
-Cười, giúp ta hướng về tương-lai bằng lòng chấp-nhận có
uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì
mình từng làm;
-Cười, là thành-phần của nghệ-thuật
góp mặt với mọi sự;
-Biết cười thực-sự và cười rộn-rã là lối sống khiến người
người lướt vượt được khó-khăn và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt và đem những
chuyện vui vào con người, dù đang cay đắng, nóng giận.
-Cười phản-ánh rằng con người không còn nghi ngờ những gì
mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa.” (xem Lm Karl Rahner, The
Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)
Vâng. Với nhà Đạo rất chính-tông,
chính-cống thì như thế. Với người đời, tiếng cười hay nụ cười được diễn-nghĩa
và diễn-tả tùy mỗi tác-giả, rất như sau:
-Với Sách Châm
Ngôn Đoạn 15 có câu: “Lòng mừng vui làm
hân hoan nét mặt,”
-Với Herbert
Samuel thì: “Thế-giới này như thể chiếc
gương, nhăn mặt với nó, nó sẽ
nhăn lại với
mình; cười với nó, nó sẽ cười lại với mình thôi”.
-Vô-danh:“Cười, là hào-quang chiếu sáng qua cửa sổ
tâm-hồn cho biết mình đang ở nhà.”
-Vô danh:“Cười, là hệ thống chiếu sáng diện mạo và là
hệ-thống nghe ngóng của con tim.”
-Tác-giả Les
Gibbin: “Không sử-dụng nụ cười, bạn chỉ
như người có cả triệu đô gửi ngân-hàng nhưng lại không có sổ chi-phiếu.”
-Fran A.
Clark: “Hầu hết mọi nụ cười đều do nụ cười
nào khác dấy lên.”
-Vô danh: “Khi bạn cười với ai đó, thì 90% người ấy sẽ
mỉm cười đáp-lễ bạn và ngày hôm ấy ít nhất có đến hai người đều vui-tươi, chói
sáng”.
-Vô-danh: “Thế-giới nay có cả trăm ngôn-ngữ khác nhau,
nhưng duy chỉ có mỗi nụ cười là nói đủ hết bấy nhiêu thứ tiếng”.
-Với David
Hare, thì: “Cười, là ngôn-ngữ của
yêu-đương, hài-hoà”.
-Vô-danh: “Không ai cần nụ cười cho bằng những người
chẳng cho ai thứ gì”.
-Mark Twain: “Vết nhăn trên mặt là dấu hiệu nụ cười đã trụ
ở đó, rất lâu”.
-Joseph
Addison:“Hoa-trái cần ánh sáng thế nào,
thì con người cần nụ cười cũng như thế”.
-Dough Horton:“Cười, là thuốc trị-liệu hết mọi bệnh mà
không phải trả đến một xu”.
-Với Mẹ Têrêxa
Calcutta, thì: “Hãy cười nhiều với nhau
và cho nhau! Cười với vợ, với chồng và con cái mà không cần biết người đó là ai.
Nội sự việc ấy thôi cũng giúp người và giúp mình tăng-trưởng trong tình yêu lan
rộng dần”.
-Wilbur D.
Nesbit: “Thứ làm cho con người tiến xa nhất
và cho cuộc sống của mọi người đáng sống, vừa ít tốn kém lại làm lợi cho nhiều
người nhất, chính là: nụ cười. Nó đầy thần-khí nhưng lại không là thần-linh. Nó
nhào-trộn mọi sự tốt-lành của con người. Nó đáng giá cả triệu đô, nhưng lại
không mất tiền mua, nhưng vẫn đáng giá”.
-Santosh
Kalwar: “Hôm qua tôi đã cười, hôm nay tôi đang cười và ngày mai, tôi cũng sẽ
cười nhiều hơn nữa, đơn giản, chỉ vì cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ”.
-Charles Chaplin: “Bạn sẽ thấy giá trị thực của
cuộc sống, nếu cứ cười”.
-Freida
Martinez: “Nụ cười nở trên môi, sẽ không bao giờ lịm tắt. Tôi đang cùng nó đứng
đây chờ bạn đến ở bên cạnh chúng tôi đấy”.
-Bei Maejor: “Bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc
những gì làm mình mỉm cười”.
-Vô danh: “Hãy dùng nụ cười của mình để thay đổi thế
giới, chứ đừng để thế giới thay đổi nụ cười của mình”.
-Vô danh:
“Nụ cười có thể làm bừng sáng một ngày
đen tối nhất.
-Nylle: “Mỗi người trong ta đều có vết thương lòng, một số người giấu nó trong
đôi mắt, người khác lại giấu nó trong nụ cười”.
-Vô danh: “Nụ cười, là khoảng cách ngắn nhất giữa hai
tâm hồn”.
-Maya Angelou: “Nếu bạn có duy nhất chỉ một nụ cười hãy dành nụ cười đó cho người mình
yêu thương”.
Vâng. Quả nhiên là như thế. Quả thật
là như vậy. Cứ cười nhiều, bất kể nụ cười đó có là cười điệu, cười tiền, cười
trừ hoặc vô duyên cũng cứ cười, nhé anh. Nhiều danh-y trên đời từng quả-quyết:
cười là liều thuốc bổ không tốn đến một xu. Vậy thì, mời bạn và mời tôi: ta hãy
cười. Cười hoài cười mãi, rất khôn nguôi!
Vâng. Ai cũng quyết tâm làm như thế.
Nhưng, chữ “nhưng” đây thật vô lối, nhưng lại rất giá-trị, là hỏi rằng: tại sao
người nhà Đạo ít cười, không chịu cười nhiều hoặc để mất nụ cười tươi-tắn, cũng
đã lâu?
Để trả lời câu hỏi khá “hóc búa”
này, lại cũng mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn “thượng-uyển” có giòng chảy
tư-tưởng của đấng bậc, rất nhiều vị, để minh-chứng hoặc xác-minh một khẳng-định
rất hợp lẽ. Nhưng –(lại chữ “nhưng” cũng hơi kỳ)- là: trước khi tìm đến câu trả
lời thật thoả đáng, thiết tưởng ta cũng nên xem thử Kinh Sách từng nói gì về “nụ
cười” rất cần-thiết cho nhà Đạo, qua lời khuyên. Lùng tìm cho lung, chỉ thấy mỗi
đôi giòng:
“Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
vì anh em sẽ được vui cười.”
(Lc
6: 21)
Nghe thế,
chắc hẳn người nghe những tưởng rằng: nụ cười rộn rã chỉ mỗi đến sau khi nhà
Đạo mình đã khóc ròng, nhiều ngày. Sự thật thì, không phải thế. Bởi, đời người có
khổ đau nhiều như thánh Gióp ở Cựu-ước, vẫn diễn-tả:
“Nếu con nói:
con sẽ quên đi lời than
thở,
đổi nét mặt mà hớn hở
vui tươi.”
(Gióp
9: 27)
Hoặc,
đoạn khác:
“Họ chẳng dám tin,
dù tôi có mỉm cười với họ,
nét mặt tôi thay đổi thế
nào,
họ chẳng bỏ qua.”
(Gióp
29: 24)
Vâng.
Đạo mình, vẫn chỉ như thế. Như thế, tức bảo rằng: trong nỗi buồn cuộc đời dài, người
đời cũng sẽ thấy đời mình kết thúc bằng niềm vui tươi, rất muốn cười.
Vâng.
Người nhà Đạo mọi thời, vẫn cứ cầu và cứ xin rất nhiều thứ, nhưng lại chẳng bao
giờ nguyện và ngắm để mình nhớ mãi việc cần-thiết nhất với người nhà Đạo, là
“cho đi”. Cho, những gì mình đã có nhưng người khác vẫn chưa có. Cho, là không
nghĩ đến riêng mình mà nhớ nguời khác dù điều cần thiết đó có là niềm vui nho
nhỏ, trong đời mình.
Nói
theo kiểu nhà Đạo, thì: “cho đi” là bí-kíp sống giúp mọi người vui-tươi, sống tốt-lành/hạnh-đạo
trong đời người đi Đạo rất Kitô thôi. Nói theo kiểu người đời rất buồn rười rượi,
chắc cũng chỉ nói bằng lời ca/tiếng hát, rất như sau:
“Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật
gần
Tình như đá hoài nỗi chờ mong
Tình vu vơ cho ta muộn phiền
Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại
Tưởng chỉ là cơn say
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay...”
(Trịnh
Công Sơn – bđd)
Giả như
nghệ-sĩ ngoài đời cứ say sưa hát nhạc đời, rồi còn gọi đó là cơn say “đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời” những
muốn cười, suốt một đời, thì: chắc hẳn đời nghệ-sĩ sẽ rất vui, không còn tả oán/vãn
than, điều gì nữa.
Giả như
người đi Đạo lại cũng mê-say sống đời hạnh-đạo mà “cho đi” rất nhiều điều, chẳng
kiếm tìm lợi-lộc gì cho riêng mình, thì đời người và đời mình cũng sẽ khác?
Giả như người
ngoài Đạo, vẫn cứ hỏi: người Đạo Chúa cứ mê-say sống đời tìm-kiếm vui-tươi
hạnh-phúc, thì sao nhà Đạo mình lại ôm-ấp truyện buồn thập-giá, đấu-tranh, khắc-kỷ,
khổ-hạnh và tử-đạo như thế, há nào Đạo Chúa cũng buồn phiền, ít vui tươi?
Và, giả
như có người nào đó muốn tìm-hiểu chuyện đời đi Đạo với đấng bậc vị-vọng chuyên
suy-tư rao-giảng toàn những chuyện buồn-sầu, chán-ngán hoặc cấm-kỵ, thì nhà Đạo
mình nghĩ sao về mục-tiêu của Đạo? Và, trả lời làm sao, khi có người vẫn cứ vấn-nạn
về cuộc sống và lời dạy của “Đức Giêsu lịch-sử” bằng đôi giòng vắn gọn, mà thôi
không?
Bần đạo
bày tôi, thấy mình không có tư-cách trả lời cho vấn-nạn nói trên, như thế, bèn vời
đến đấng bậc thày dạy Kinh thánh/thần-học, có được câu trả lời, như sau:
“Theo
tôi, mình nên kể về: Đức Giêsu là Đấng từng sống ở đất miền bị ngoại-bang chiếm
đóng rất nhiều năm. Ngài sống chung đụng với giới nông-gia lao-động tới mức chỉ
đủ sống và Ngài cũng thuộc vào thành-phần dân lành bị ức-hiếp ngày càng tệ. Xứ
sở Ngài sống, là thế-giới có qui-chế không công-bằng và chẳng đồng đều. Với thế-giới
như thế, Ngài đề ra lối sống thực-thụ mang thị-kiến thật rất khác.
Ngài mời
mọi người hãy cùng Ngài chung sống cuộc đời như thế trong cộng-đoàn tự-do có biết chữa-lành và sẻ-san cho nhau mọi của ăn/thức
uống, ngang đồng và giống hệt nhau. Cộng-đoàn Ngài đề-xướng, có quyền-lợi ngang
bằng nhau trước mặt Thiên-Chúa cũng như mọi người. Với đám con trẻ cùng nam phụ
lão ấu, những người bị phong cùi cả những người cùng-cực, sầu-khổ vì nhiều thứ,
Ngài vẫn mời họ cùng một kiểu: hãy đến ngồi cùng bàn ăn uống với Ngài, để được cứu-chữa
và lĩnh-nhận những gì mình từng đem cho người khác. Cộng-đoàn Ngài thiết-lập,
cũng tương-tự như Vương Quốc Nước Trời của Thiên-Chúa. Và, toàn dân gian cùng
thế-giới cũng đều thế. Giả như Chúa, chứ không phải vua quan người phàm, đều
trực-tiếp chịu trách-nhiệm. Đó, chính là ý Thiên-Chúa muốn thực-hiện ở dưới đất
cũng như nơi Vương Quốc của Ngài.
Vương-quốc
của Ngài được định-hình rất đúng cách, nên thế-gian phàm-trần mới là vấn-đề.
Chính vì thế, Đức Giêsu không chỉ nói đến mỗi Vương Quốc, nhưng là thực-tại
từng-trải cho mọi người. Ngài cắm chặng thị-kiến Vương Quốc vào đất miền của
xã-hội do Ngài thiết-lập. Chính vì thế, thiên-hạ mới coi Ngài là nhân-vật lập
ra cuộc cách-mạng không theo nghĩa quân-đội nhưng là xã-hội. Và, Ngài đã chết
vì thị-kiến Vương Quốc ấy. Dù Ngài thách-thức rất mực sự sắp-xếp thông-thường
về thế giới Ngài thiết-dựng cũng đã làm Ngài bị bắt giam bất cứ khi nào. Chỉ
mỗi biểu-tượng Ngài đưa ra về việc phá-hủy đền thờ thôi, cũng đủ tạo cớ cho người
Do-thái và quan quân La Mã đã xúi-giục dân-quân mọi người chống lại Ngài. Thật
cũng khó tưởng tượng trường-hợp một nông-gia không tên tuổi như Đức Giêsu lại
bị chà đạp đến nát bẹp ở đền Giêrusalem dưới thời Caipha và Philatô trị vì.
Những
chuyện không ngờ như thế vẫn xảy ra vào cuối đời của bậc nông-dân chân-chính người
Do-thái là Đức Giêsu vẫn không là đoạn-kết của mọi sự. Những người từng có
kinh-nghiệm về quyền-uy của Thiên-Chúa qua cuộc sống với Đức Giêsu, vẫn tiếp
tục trải-nghiệm như thế cả sau khi Ngài chết đi, nữa. Nay thì, quyền-uy ấy
không bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, nhưng vẫn được áp-dụng ở bất cứ
nơi đâu với những người nhận ra Thiên Chúa sống-động nơi Đức Giêsu. Đó, là lý-do
cho thấy: tại sao sử-gia ngoài đời khôn-khéo và trung-lập như Josephus lại đã chép
sử vào cuối thế-kỷ thứ nhất, rằng: “Những
người từng đến với Ngài đã yêu thương Ngài ngay từ đầu, vẫn không từ-bỏ tâm
tình yêu thương Ngài và dân con của Ngài mãi đến hôm nay, không biến dạng”. (x.
Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, w.w.w.wjkbooks.com)
Phối hợp
đời đi Đạo vui tươi/cười nhiều với cuộc sống của Đức Giêsu lịch-sử, không là
chuyện dễ làm. Không dễ, là bởi hai vấn-đề lâu nay chưa được các đấng bậc “bật
đèn xanh“ cho phép, nên cũng khó. Khó hơn cả, là chuyện thuyết-phục mọi người
trong/ngoài nhà Đạo vẫn vui tươi sống đời đạo-hạnh cách tươi vui/hấp-dẫn, vẫn
là chuyện cần-thiết, rất nên làm.
Rất nên làm,
không có nghĩa có thể làm được và được làm ngay trong lúc này. Tất cả vẫn phải
chờ mình có quyết-tâm chọn lựa cuộc sống giống như thế, hay không. Chọn và lựa,
rồi sau đó sẽ cộng thêm vào mình sức mạnh của Thần-khí vẫn yểm-trợ mỗi người và
mọi người, trong đời. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hiên-ngang
đứng dậy mà hát lời tâm-huyết, những ca rằng:
“Cười
lên đi em ơi!
Dù nước mắt rớt trên vành môi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn tha-nhân ta buông tiếng cười.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những chê bai và ganh ghét.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những khoe khoang và thấp hèn.
Cười lên đi em ơi!
Cười để giấu những dòng lệ rơi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười.
Ta không thèm làm người.
Thà làm chim trên rừng hoang vắng.
Ta không thèm làm người.
Thà làm mây bay khắp phương trời.”
Dù nước mắt rớt trên vành môi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn tha-nhân ta buông tiếng cười.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những chê bai và ganh ghét.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những khoe khoang và thấp hèn.
Cười lên đi em ơi!
Cười để giấu những dòng lệ rơi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười.
Ta không thèm làm người.
Thà làm chim trên rừng hoang vắng.
Ta không thèm làm người.
Thà làm mây bay khắp phương trời.”
(Lê Hựu Hà – Cười
Lên Đi Em Ơi)
Vâng. Hỡi
bạn và hỡi tôi, dù ta không là người “Em” của nghệ-sĩ, hãy cứ cười. Cười, không
phải để “che giấu những giọt lệ rơi”,
dù không có. Nhưng, là tỏ cho mọi người thấy: mình “không cần cuộc đời, toàn những chê-bai và ganh ghét”, mà chỉ cần
nụ cười trong mọi buổi vui. Vui, với mọi người, dù phút chốc có nụ cười góp
giọng, trong chuyện đời nhiều lúc cũng đáng cười và rất vui. Vui, như truyện kể
ở bên dưới, như sau:
“Hai vợ
chồng Giám đốc nọ đang kể với nhau về đủ thứ chuyện trên đời, vui buồn lẫn lộn,
bỗng dưng có tiếng chuông điện-thoại reo trên bàn giấy của Giám đốc. Ông bèn
chậm rãi lấy tư-thế của một vị Giám đốc, dõng dạc hỏi:
-Ai đó,
Giám đốc nghe đây.
Đầu giây
bên kia, có tiếng rất trong lại lanh lảnh, hỏi nhỏ chỉ mỗi câu:
-Anh yêu
của em đó hả?
Giám-đốc nhà
ta thoáng chốc thấy tâm can mình rối bời, nhưng đã tự-chủ mà hỏi lại:
-Alô! Ai
đó? Danh-sách khen thưởng công-nhân-viên hả? Có rồi đây!
-Sao anh
cứ đùa với em hoài mãi thế, Anh còn thương em nữa không, em hỏi thiệt đó?
-Thứ
nhất: Nguyễn Hoài Thương, nhé!
-Em đến
với Anh ngay bây giờ được không?
-Thứ hai:
Lê Văn Kẹt.
-Hay là,
Anh qua đây với em lập tức có được hôông?
-Thứ ba,
là: Đỗ Thị Bận.
-Thế thì,
khi nào Anh mới đến được với em cứ nói đi!
-Thứ tư:
Mai Tấn Tới.
-Thế cũng
được, mấy giờ Anh tới được hả Anh?
-Cuối
cùng, là: Nguyễn Văn Mười Hai.
Tay này,
khi xưa là Giám-đốc hãng nước hoa Thanh-Hương, làm ăn lỗ lã nay về làm với hãng
mình đấy. Được cái, hắn cũng chịu khó chịu cực.
Nói đến
đó, ông Giám-Đốc quay sang người vợ hiền vừa cười vừa nói: Nhân viên văn-phòng, lúc này làm việc bê bối quá,
căn dặn đủ điều là thế mà bọn họ cứ ngồi đùa giỡn nói nói cười cười, suốt cả
ngày. Bận như thế mà còn cười được, kể cũng lạ, Anh đành chịu!”
Thế đấy!
Quan-niệm của quan-chức ở cấp cao vẫn cứ bảo như thế. Như thế, tức như thể khi
đã bận rộn, thì dù có siên năng làm việc hoặc vui chơi/ca hát, cũng cấm cười.
Thế mới
biết, trong cuộc đời bận rộn suốt quanh năm, nhiều người dù có muốn cũng chẳng dám
cười. Chí ít, là người đi Đạo và giữ Đạo ở nhà thờ.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn chủ-trương
đi Đạo phải thoải-mái, vui tươi
Vẫn cứ cười.
Thế mới vui.
Subscribe to:
Posts (Atom)