Wednesday, 29 August 2018

“Đừng! đừng nhìn anh bằng đôi mắt buồn vời vợi”.


Chuyện Phiếm đọc trong tuần 22 Thường niên năm B 02-9-2018

“Đừng! đừng nhìn anh bằng đôi mắt buồn vời vợi”.
Thà em nói thà em trách là anh dối gian thật buồn.
Bây giờ còn hai ta giây phút cuối bên nhau.
Em nói đi em nói đi dù chỉ một lần làm tan nát lòng nhau.
(Nguyễn Vũ – Lời Cuối Cho Em)

(2 Sam 8: 16-17) 

Chẳng cần biết, đó có là “lời cuối cho em” không, nhưng ca-từ năn nỉ/ỉ ôi như thể bảo: “Đừng nhìn anh bằng đôi mắt buồn vời vợi”, vẫn là lời nhắn nhủ, gửi đến em/đến anh, đến tất cả mọi người trên đời; chí ít là người đi Đạo, những câu nói da diết như sau:

“Nếu ngày mai nếu chúng mình xa nhau
anh xin hứa lời cùng em lần cuối.
Nếu ngày mai lỡ chúng mình xa nhau.
Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi.”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Chính đó là vấn đề, của tôi/của bạn, của mọi người ngày hôm nay. Hôm nay, cũng giống như mai ngày và hết mọi ngày, chắc hẳn mọi người trong đời sẽ nhắn nhủ mọi người, những chuyện tựa hồ như thế.

Thế đó, là lời hát. Còn đây, là vấn đề của những người đang lập hành-trình đi vào đời vẫn rất Đạo. Đạo làm người. Đạo làm dân con Đức Chúa, luôn có vấn-đề đặt ra cho Giáo hội. Cho người thường ở đời, như chuyện Đạo/đời được ghi lại qua mục hỏi/đáp sau đây:

“Hỏi:
“Thưa Cha, đọc sách Tân Ước, con thấy nhiều chương/đoạn đề-cập đến các vị “ký-lục” khi xưa nối-kết với nhóm Biệt-Phái/Pharisêu rất trổi bật. Vậy, xin cha giải thích cho con biết họ là ai? Họ từng làm điều gì trong xã-hội Do-thái-giáo?” (Câu hỏi từ một giáo-dân không biết nhiều về giáo-lý).

“Đáp:
“Vâng. Do không chuyên và cũng không hiểu nhiều điều về Giáo-lý/Sách phần, nên hôm nay người thưa chuyện mới đưa ra những thắc mắc khó tả nhờ “cha” giải-thích. Bởi, khi đã “chuyên” rồi thì người hỏi cần gì phải đưa ra những thắc mắc/hỏi han cho thêm bận!

Đúng vậy. Bấy lâu nay, dù bận hay không, cha/cố hoặc đấng bậc vị vọng vẫn có nhiều thì giờ và tư-tưởng để nghiên-cứu/học hỏi, rồi trả lời như sau:

“Tự-vựng “Ký-lục” bên tiếng Anh, chỉ-định người nào đó từng viết lách, dạy dỗ rất nhiều “sự”. Và, đây là công-tác hàng đầu của vị gọi là “Ký-lục”. Cụm-từ “sopherim” bên tiếng Aram/Do-thái được dịch ra nguyên-ngữ thành “ký lục” có nghĩa khác nhau khi viết hoặc theo dõi thứ tự sự việc liên quan đến cân/đong đo/đếm.

Trên thực tế, người mang danh “ký lục” đều làm các công việc tương-tự như thế. Đặc biệt hơn, khi làm bất cứ việc gì, họ đều quan-tâm đến lề-luật do Chúa tỏ bày qua tổ-phụ Môsê. Thành ra, các ký-lục sẽ viết xuống các điều ấy thành luật-lệ rồi sao chép luật và sắp xếp theo thứ tự hợp lẽ có khi còn đến số chữ trong các bản văn nữa, cũng không chừng.

Các nhà ký-lục thường phục-vụ vua/chúa cũng như các vị cầm quyền mà ngày nay ta có thói quen gọi họ là thư-ký hoặc lục-sự, tức những người có bổn-phận soạn-thảo thư-từ giao-dịch, lập quyết-định và cả đến việc quản-trị tài-chánh của giới cầm-quyền. Chẳng hạn như, vào thời vua Đavít trị vì đất nước Do-thái, có ông Jôsaphát chuyên hoàn-thành nhiệm-vụ duy-trì sổ sách và Sêraja thực-thi công việccủa người thư-ký như có ghi ở sách Samuel như sau:

“Ông Giôáp, con bà Xơrugia, làm cai binh.
Ông Giôsaphát, con của Akhilút, làm ngự-sử.
Ông Xađốc, con ông Akhitúp,
và ông Akhimeléc con ông Épgiaha, làm tư tế.
Ông Xơragia làm ký lục.”
(Sách Samuel quyển 2 đoạn 8, câu 16-17)  

“Trong số các viên chức cao cấp của vua Salômôn, ta thấy có Êlihoreph và Ahijah là hai người đóng vai thư ký, còn Giêhôsa phát lại là người ghi chú hồ sơ, như có viết ở Cựu Ước:

“Êlikhôrép và Akhigia,
hai người con của Sisa làm ký lục.
Giơhôsaphát, con của Akhilút,
làm ngự sử.”
(1 Vua 4: 3)

“Và, các ký-lục thời vua chúa lại rất có thẩm-quyền cùng uy-tín đối với dân chúng. Bên dưới những vị này, lại cũng có giai cấp thấp kém chỉ lo mỗi việc ghi chép, đó là các thày trợ tế Lêvít, như sách Giêrêmia từng chép lại, những câu sau đây:

“Ông Giêrêmia gọi ông Barúc,
con ông Nêrigia lại;
và theo lời ông đọc,
ông Barúc đã viết lại
tất cả những lời Đức Chúa đã phán với ông
vào một cuộn sách.”
(Giêrêmia 36: 4)

“Thời Đức Giêsu, các ký lục lại có quyền soạn-thảo các tài liệu về luật pháp như hợp đồng hôn-ước và/hoặc ly-dị, vay nợ, thừa-kế, thế-chấp, bán đất, vv… Thế nhưng, công-tác quan-trọng nhất của những vị này là nghiên-cứu về luật pháp, diễn-giải và giảng dạy các thứ ấy cho mọi người hiểu. Thành thử, nhiều lúc họ cũng được gọi là luật-sĩ hoặc thày thuốc, tức: các bậc thày dạy pháp-luật.

“Thông thường thì, các vị này phần lớn là những người học-thức trong xã hội qua đó các vị ấy vẫn vui hưởng quyền lợi to tát, gây nhiều ảnh-hưởng trong dân chúng. Các vị này đều có tiêu-chuẩn được bình bầu vào hội đồng tối-cao của Do-thái-giáo, còn gọi là Đại Công Nghị.

“Một ví dụ khác cho thấy ý-nghĩa tương-tự giữa danh xưng ký-lục và luật sĩ như đoạn Tin Mừng Mát-thêu trong đó có ông Pharisêu nọ hỏi Đức Giêsu về tầm quan trọng của luật sĩ, như sau:

“Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng,
thì những người Pharisêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm
hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng:
"Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
(Mt 22: 34-36)

Và ở một đoạn khác, tác giả Tin Mừng Mátthêu cũng phân biệt:

“Bấy giờ, Đức Giêsu nói với dân chúng
và các môn đệ Ngài rằng:
"Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy.
Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ,
còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo,
vì họ nói mà không làm…
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn,
mang những tua áo thật dài.
Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc,
chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,
ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng
và được thiên hạ gọi là "Rabbi".
(Mt 23: 1-7)

“Xem thế, rõ ràng là: có hiểu/biết vai trò của các kinh-sư cùng ký-lục, người đọc Kinh thánh mới hiểu được Sách này.” (X. Lm John Flader, Solving the fallacies about the Pharisee, The Catholic Weekly 15/7/2018, tr. 21)

Hiểu được vai-trò của mỗi người và mỗi vị như thế rồi, ta sẽ nhận ra bài sai gửi con dân đi Đạo, không chỉ gửi đến các đấng bậc Biệt-Phái, Kinh-sư hoặc “ký-lục” mà thôi. Nhưng, bài sai là “bài-bản-để-sai-đi” gửi đến với mọi người ở trần-thế, như đấng bậc nọ đã nhận chân ý-nghĩa thực-thụ những điều được viết trong Kinh thánh bằng lời dẫn-giải sau đây:

“Dân con đạo Chúa đi nhà thờ hàng tuần những tưởng Tiệc Thánh Thể rày chấm dứt khi vị chủ tế giơ tay ban phép lành kèm theo lời nhắn nhủ: “Anh chị em hãy ra đi bình an.” Kỳ thực, lời nhắn hay chúc mừng “ra đi bình an”, đều thôi thúc dân con dự Tiệc hãy về với thế trần mang theo sứ vụ Chúa trao cho mọi người. Nhưng, sứ vụ đây là bài sai thúc giục người dự Tiệc phải làm những gì ngay sau đó? Làm theo cách-thế nào đây? Và, kết quả rồi sẽ ra sao?
Ở đây, dân con dự Tiệc còn khám phá ra một thúc giục khác xuất từ Tiệc Thánh. Đó là, sự hiện diện mặt-đối-mặt với các sự vật như vật thể. Dự Tiệc, không là hiện diện bằng thân xác mà dân con/cộng đoàn từng trải nghiệm một cách chủ quan, giới hạn. Nhưng hiện diện, là qui cách hiện hữu chỉ mình Chúa mới có. Đó là sự Hiện Diện theo nghĩa tặng ban/cho đi. Cho nhưng-không, chẳng màng lợi danh, đổi chác theo nghĩa “có đi có lại mới toại lòng nhau”.
Đức Chúa không tặng ban cho ta chỉ mỗi hiện hữu có lợi, Ngài cũng chẳng trông chờ ta cảm kích biết ơn rồi tạo ràng buộc khiến ta mất đi sự tự do, thoải mái. Ngài không muốn lấy đi giây phút hiện tại ta đang sống trong nhà Chúa như sự thể chính đáng. Và, Ngài cũng không đánh giá quá thấp tháng ngày dài thời quá khứ hoặc tương lai đang đến.
Ta tưởng, đó như một hiện tại kéo dài để rồi đưa ra những mẩu chuyện nhỏ cho một tổng thể lớn. Tổng thể, tức: đường lối hoàn toàn khác hẳn vốn dĩ cho thấy người đời thường đặt nặng mọi thứ chứ không màng gì hiện tại. Nhất thứ là một hiện tại xảy ra vào cuối buổi Tiệc, lúc ta được bảo: hãy “ra đi” trở thành kẻ tản bộ tàn tàn đi trong ước mơ chậm lụt nhưng chắc chắn ở thế trần. Ra đi, vì bài sai Chúa gửi cho trần thế không do ta chọn hoặc lập ra, mà chỉ tuân thủ và thực thi.
Và, Hội thánh hôm nay cho thấy thái độ “đóng kín” chẳng am tường gì bản chất của chính mình, nên đã không phản ánh cái đẹp của trần thế bằng việc thể hiện động thái của mình. Và, cũng vì không am tường bản chất của mình nên không tạo ảnh hưởng nào lên trần thế.
Thành thử, khi nhận bài sai ra đi về với thế-trần làm chứng-nhân rao truyền Lời Chúa, sống cho Chúa, dân con đi Đạo thường cảm thấy khó mà sống thực niềm tin giữa lòng dân tộc, thời hiện đại. Bởi thế nên, nền văn-hoá thời-đại chẳng còn đón nhận sứ điệp từ Đạo Chúa. Thế trần thời hôm nay, là chốn miền khiến ta khó mà sống niềm tin đích thực. Ngày nay, người người vẫn dễ dàng sống theo lề thói vật chất, vui hưởng lợi lộc do chủ thuyết tiêu thụ dọn sẵn theo hướng chệch choạc.
Đây cũng thế, ta không dễ gì định hướng được tính khí của nhân loại để mọi người ra đi mở rộng Nước Chúa, sống cho Chúa. Bởi, cơ chế xây dựng Hội thánh hôm nay càng ít trở nên gương mẫu cho người đời Thế nên, Hội thánh càng xa rời đời sống của chúng dân. Ở thế trần hôm nay, ngày càng thấy ít đi các buổ Tiệc hiến tế hoặc Tiệc Lòng mến thân thương nhiều người dự. Số lượng linh mục phục vụ Tiệc ngày càng ít dần, kéo theo một thực thể là sứ vụ rao truyền Lời ngày càng chất chồng lên đôi vai trần của một vài vị còn ở lại với thánh hội.
Từ đó, có vị mục tử cùng lúc phải trông nom nhiều giáo xứ. Có vị phải bỏ nhiều giờ ra để đi tới vùng sâu/vùng xa mà “rao truyền Lời”. Thế nên, hôm nay, nhu cầu đòi hỏi dân con dự Tiệc nhận bài sai “ra đi rao truyền Lời” trở thành chuyện “sống thực” ở đời. Sống thực, là sống đúng nghĩa Tiệc Lòng Mến biến cải thế giới thành chốn đặc biệt để sống và lao động. Hôm nay, dân con nhận bài sai rao truyền Lời, cho thấy: đó là quan điểm cách mạng chứng tỏ vai trò giáo dân đã đến hồi nở rộ, đẹp đẽ, tốt lành.
Vấn đề của giáo dân, nay không nhằm khuếch trương Hội thánh theo số lượng bao gồm sự việc và phong trào do Hội thánh chủ trương. Cũng không nhằm làm những gì hoặc làm thế nào để số người “đi nhà thờ” ngày một đông, hoặc có thêm người đọc kinh, hát xướng; mà là: sống thực cuộc sống hiệp thông ta học được từ Tiệc Thánh xảy đến trong trần thế rất khí thế.
Trở thành giáo dân đúng nghĩa, là ơn gọi nhận bài sai ra đi rao giảng Lời, chứ không phải nhận lãnh danh xưng/chức tước để thi-hành. Ơn gọi giáo dân, là ân-lộc gọi mời mọi người trở nên dân con Chúa bằng cách sống hiệp thông, thương yêu. Gọi mời mọi người trở thành dân con sống thực Lời Chúa trong thế giới vật chất. Sống thực Lời, là sống hiệp thông thương yêu trong khuôn khổ của trần thế.
Sống thực đây, không là kinh nghiệm hiệp thông có từ Tiệc Thánh rồi phổ biến cho thế giới làm giống thế. Làm thế, khác nào biến thế giới bên ngoài thành chi nhánh của Hội thánh. Làm thế, tức: dân con đi Đạo không còn tôn trọng các đặc-thù của thế giới bên ngoài và chỉ muốn canh cải mặt ngoài của thế trần, mà thôi.
Sống thực Lời, là cởi mở với tính đặc-thù của trần thế nơi cuộc sống đời thường vẫn như thế. Và rồi, từ đó khám phá ra cuộc sống hiệp thông, thương yêu có từ Tiệc Thánh đang thăng tiến với thế trần.
Mãi đến hôm nay, Hội thánh vẫn chưa thành đạt chuyện này. Hội thánh, nay vẫn hãi sợ “thế gian” phàm tục. Thế gian, là cụm-từ mà Hội thánh ít muốn để tai nghe. Thế gian, là từ-vựng về hệ thống giá trị mang tính phàm tục nghịch lại hệ-cấp giá trị của thánh hội. Và Hội thánh vẫn sợ cả đến giáo dân bên trong thánh hội mình; sợ rằng: ngày nào đó, họ sẽ qua mặt hệ-cấp rất thánh.
            Cuối cùng thì, với bài sai vừa nhận, đạt sẽ ra đi mà không hãi sợ trần thế rất “thế-gian” mà có lần cha/cố nhà Đạo vẫn ví-von “ba thù” hoặc “kẻ thù thứ ba” rất đáng gờm. Ra đi, hầu nhận-lãnh sứ vụ gửi đến mỗi người và mọi người có kèm theo lời chúc phúc rất hiên ngang. Cứ hiên ngang ra đi, vì Đức Chúa vẫn ở với mình và với người là thế-giới gian-trần Ngài mến thương. Ra đi, vì đó là ý-nghĩa và là mục-tiêu của thánh hội được Đức Chúa ủy-thác cho mình bài sai đặc-thù, rất như thế.” (X. Lm Kevin O’Shea, Lời Chúa Sẻ San, nxb Hồng Đức 2014, tr. 190-194)        
Xem thế thì, vai trò của các vị “ký-lục”, Biệt-Phái hoặc Pharisêu, đều là “nghĩa vụ” gửi đến mỗi người trong ta. Ta và người, đều được sai đi rao truyền Lời trong cương-vị của mỗi giáo dân ở huyện nhà, còn gọi là “con dân đi Đạo”, ở trong đời.

Vai-trò và ý-nghĩa của các vị “ký-lục” không chỉ duy-nhất có một việc, là: sao chép, diễn-giải Lời Chúa phán bảo. Mà, còn là và vẫn là ý-nghĩa của “bài sai” đối với người dân trong Đạo khi lĩnh-nhận thanh-tẩy ngay từ nhỏ.  Bài sai ấy, lời truyền đây, đều sẽ là và vẫn là lời khuyến-khích thúc giục ta và mọi người hãy làm thế cho mình và cho người, suốt mọi thời.

Để minh họa cho kết cuộc bài Phiếm không chuyên hôm nay, tưởng cũng nên kể cho nhau nghe đôi giòng truyện cũng khá nhẹ nhưng rất thấm về danh xưng/vai-trò của một vài người trong đời, như ông bố và anh con trai trẻ tuổi, sau đây:

“Truyện rằng:

“Bao giờ cũng vậy, cứ bốn giờ sáng là ông Rôbớt lại thức giấc. Bốn giờ sáng, đúng cái giờ trước đây bố vẫn thường gọi ông dậy cùng đi vắt sữa. Thật lạ là cái thói quen đã hình thành cách đây 50 năm, từ lúc ông còn nhỏ, vẫn còn theo ông tới tận bây giờ. Bố ông mất cũng đã được 20 năm, nhưng ông vẫn luôn thức dậy vào lúc bốn giờ sáng mỗi ngày, rồi sau đó mới ngủ tiếp trở lại được. Nhưng hôm nay là Giáng sinh; ông không ngủ lại nữa.

“Rôbớt lần hồi nhớ lại cái ngày ông mới 15 tuổi, ngày ông còn đang ở nông trang, và câu chuyện về tình yêu vô tận dành cho bố. Thực ra, ông cũng chỉ nhận ra tình yêu đó vài ngày trước lễ Giáng sinh năm ấy, năm ông 15 tuổi, khi nghe lỏm được câu chuyện của bố mẹ.

“Bố bảo: “Mary này, anh không muốn gọi Rôbớt dậy sớm như vậy chút nào. Thằng bé đang tuổi ăn tuổi ngủ. Nhìn cái cách nó ngủ mỗi sáng trước khi phải gọi nó dậy mà xem. Anh cứ ước sao mình có thể tự làm việc đó một mình”.

“Mẹ nói:
-Ồ, anh biết là mình anh thì không thể ngày nào cũng làm việc đó được mà. Thằng bé cũng đã lớn rồi. Đã đến lúc cho nó tập làm việc đó.

“Bố chậm rãi trả lời:
-Thì đúng thế. Nhưng anh vẫn chẳng thích phải gọi thằng bé dậy sớm chút nào.

“Trước đây, Rôbớt chưa từng bao giờ nhận ra bố yêu mình nhiều đến thế, thậm chí chưa từng bao giờ nghĩ tới điều đó. Rôbớt chỉ coi đó là chuyện tất nhiên trong quan hệ bố con. Cả bố và mẹ đều chẳng bao giờ nói họ yêu lũ trẻ tới mức nào, bởi họ chẳng có nhiều thời gian để nói ra những điều hiển nhiên như vậy. Công việc nông trang vốn đã hết sức bận rộn và đôi lúc họ chẳng còn thời gian cho điều gì khác.

“Từ bữa đó, mỗi sáng khi bố gọi, Rôbớt không còn nấn ná ngủ thêm hay để phải gọi lần thứ hai nữa. Bao giờ cậu bé 15 tuổi cũng vùng dậy ngay lập tức, mắt nhắm mắt mở mặc thêm quần áo. Dẫu hai mí mắt còn đang dính vào nhau, Rôbớt đã loạng choạng đi thẳng về phía chuồng bò.

“Đêm trước lễ Giáng sinh năm 15 tuổi, Rôbớt không khỏi suy nghĩ về ngày lễ sắp tới. Gia đình Rôbớt còn nghèo và sự háo hức đợi chờ một lễ Giáng sinh cũng chỉ xoay quanh món gà tây tự nuôi ở nông trang và bánh kẹp thịt băm mẹ làm. Mấy chị gái Rôbớt sẽ tự làm những món quà tặng còn bố mẹ thì luôn mua một thứ gì đó mà Rôbớt rất cần, không hẳn là kiểu như một chiếc áo ấm mà có thể là một thứ gì đó hơn thế, một cuốn sách chẳng hạn. Rôbớt cũng dành dụm và mua quà tặng cho mọi người.

“Năm 15 tuổi, Rôbớt bắt đầu để tâm đi tìm một món quà nào đó có ý nghĩa dành tặng bố. Thường thì Rôbớt vẫn tới cửa hàng một giá 10-xen và mua một chiếc cà-vạt. Ý tưởng về một chiếc cà-vạt mới cho bố vẫn ổn cho đến đêm trước lễ Giáng sinh. Rôbớt nằm trên giường, nhìn ra ngoài cửa sổ căn gác xép áp mái và nghĩ về món quà cho bố; ngoài kia, muôn vàn vì sao đang nhấp nháy.

“Đột nhiên, ý tưởng về một món quà Giáng sinh đặc biệt vụt tới, như những ánh sao lung linh ngoài kia. “Tại sao không?” Rôbớt nghĩ. Cậu có thể dậy sớm, sớm hơn nhiều so với cái thời gian cố định bốn giờ sáng. Rồi Rôbớt sẽ nhẹ nhàng đi tới chuồng bò, sẽ một mình vắt sữa. Đúng! Rôbớt sẽ làm việc đó một mình: vắt sữa và dọn dẹp, để đến khi bố dậy thì mọi việc đã xong. Bố sẽ biết ai là người đã làm việc đó. Rô-bớt mỉm cười, ngắm nhìn những vì sao lấp lánh ngoài ô cửa sổ. Rôbớt sẽ làm việc đó một mình, vì thế sẽ không được phép ngủ quá say.

“Đêm đó, cậu bé Rôbớt trằn trọc, cứ thức rồi lại ngủ không dưới 20 lần. Mỗi lần thức giấc Rôbớt lại quẹt diêm soi chiếc đồng hồ cũ kỹ: nửa đêm, một rưỡi sáng, rồi hai giờ sáng. “Ba rưỡi sáng! Rôbớt bật dậy, mặc thêm quần áo, lặng lẽ rời khỏi giường đi về phía chuồng bò. Lũ bò sữa đưa đôi mắt ngái ngủ nhìn Rôbớt ngạc nhiên. Chúng cũng thấy còn quá sớm.

“Trước đây Rôbớt chưa bao giờ vắt sữa một mình, nhưng có vẻ như việc này cũng chẳng quá khó. Vừa làm Rôbớt vừa mường tượng xem bố sẽ ngạc nhiên đến thế nào. Bố sẽ tới gọi Rôbớt và như mọi lần sẽ đi chuẩn bị đồ trong khi đợi Rôbớt mặc quần áo. Rồi bố sẽ mở cửa kho lấy hai chiếc thùng để đựng sữa và phát hiện ra hai chiếc thùng đã đầy. Bố sẽ kêu lên kinh ngạc: “Chuyện gì đã xảy ra thế này?”

“Rôbớt mỉm cười tiếp tục vắt; hai dòng sữa trắng đục phun mạnh vào trong chiếc thùng, sủi lên lớp bong bóng nhỏ xíu, thơm phức. Công việc diễn ra trôi chảy hơn Rôbớt nghĩ. Lần đầu tiên trong đời cậu bé 15 tuổi Rôbớt, vắt sữa không còn là một việc vặt nhàm chán hàng ngày nữa. Nó đã trở thành một điều gì đó rất khác, một món quà đặc biệt cho một người luôn dành cho Rôbớt tất cả yêu thương.

“Công việc đã xong. Rôbớt đậy nắp thùng, đóng cửa nhà kho cẩn thận. Về đến phòng, chỉ kịp cởi bớt quần áo, chui vào giường và kéo chăn kín đầu thì bố đã tới gọi: “Rôbớt! Dậy đi thôi. Chúng ta vẫn phải vắt sữa dù hôm nay là Giáng sinh”.

“Rôbớt trả lời, giọng vờ ngái ngủ:
-Vâng!

“Cửa phòng đóng lại. Rôbớt thầm mỉm cười trong bóng tối. Chỉ vài phút nữa thôi là bố sẽ biết. Tim cậu bé 15 tuổi đập chộn rộn như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chỉ mấy phút thôi mà tưởng chừng như thời gian dừng lại, không bao giờ dứt. Mười phút, mười lăm phút, Rôbớt cũng không nhớ rõ là bao lâu nữa. Cuối cùng tiếng bước chân bố cũng vang lên nơi bậu cửa. Cửa phòng bật mở; bố đứng đó, lặng im một lúc lâu.
-Rôbớt!
-Sao thế bố?

“Bố bật cười lớn, tiếng cười thật lạ, bởi trộn lẫn trong đó là thứ gì như tiếng thổn thức:
-Rôbớt, con nghĩ rằng sẽ gạt được bố sao?
-Bố, đó là món quà Giáng sinh của con dành cho bố!

“Ông Bố bước đến bên giường, kéo chăn xuống và ôm chặt lấy Rôbớt. Trời vẫn còn tối và chẳng ai nhìn rõ mặt ai:
-Con trai, chưa ai từng tặng bố món quà nào tuyệt vời đến vậy!
-Bố à, con chỉ muốn bố biết rằng… con chỉ muốn bố biết rằng…,

“Giọng Rôbớt nghẹt lại rồi vỡ toang, đầy thổn thức. Rôbớt không biết nói gì nữa, trái tim cậu bé 15 tuổi run rẩy với cả nỗi lòng yêu thương. Rôbớt xuống giường, mặc quần áo ấm và tới bên cây thông Giáng sinh. Ở đó, bố đang kể lại câu chuyện về món quà Giáng sinh đặc biệt cho mọi người.

“Bố bảo:
-Đó là món quà Giáng sinh tuyệt vời nhất của bố. Mỗi Giáng sinh bố sẽ lại nhớ về món quà đặc biệt này. Bố sẽ không bao giờ quên con trai ạ, cho đến tận cuối đời.

“Thời gian trôi nhanh. Cả Rôbớt và bố đều luôn nhớ về món quà đặc biệt năm đó. Rồi bố Rôbớt mất. Giờ chỉ còn mình Rôbớt là nhớ câu chuyện năm nào. Chỉ còn Rôbớt là nhớ y nguyên buổi sáng tinh mơ năm đó, nhớ lũ bò và món quà yêu thương của mình.

“Năm nay ông già Rôbớt sẽ viết thiệp Giáng sinh tặng vợ. Thực ra đã rất lâu rồi ông không nói thành lời “ba từ yêu thương” đó, dù ông yêu bà theo cách rất đặc biệt, sâu lắng hơn rất nhiều so với thời họ còn son trẻ. Bà cũng rất yêu ông. Yêu và được yêu, đó là niềm vui đích thực của cuộc sống.

“Giáng sinh này, cũng như mọi Giáng sinh, tình yêu vẫn cứ nồng nàn như những ngọn nến, bởi nó vẫn luôn ở đó, trong sâu thẳm trái tim ông già Rôbớt và của mỗi người. Đúng thế! Tình yêu tự thân nó có khả năng đánh thức tình yêu trong tất thảy mọi người. Trong buổi sáng Giáng sinh may mắn này, ông già Rôbớt sẽ viết ra những lời yêu thương cho vợ, để vợ ông có thể đọc và lưu lại mãi mãi trong tim. Ông đi đến bên bàn, ngồi xuống và bắt viết: Bà xã thân yêu…

“Sẽ là một Giáng sinh hạnh phúc, rất hạnh phúc khi món quà là tất cả yêu thương!” (Truyện ngắn do ST sưu tầm)

Giáng sinh hạnh-phúc hoặc hạnh-phúc của các “Biệt-Phái”, “ký lục” cũng na ná giống như thế. Tức có nghĩa, một thứ hạnh-phúc của những vị, những cụ thi-hành trọn vẹn danh-xưng/sứ mang của mỗi người và mọi người, dù học có là “ký lục”, Biệt phái hoặc đơn giản chỉ là người còn trẻ tuổi mang tên, rất Rôbớt.    

Trần Ngọc Mười Hai
Từng lĩnh-nhận nhiều điều
nhưng vẫn chậm hiểu
và chậm tiêu
Nên mới thế.  


Wednesday, 22 August 2018

“Quen nhau từ năm tháng rồi”

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 21 Thường niên năm B 26-8-2018

“Quen nhau từ năm tháng rồi”
Ngàn phương xa vời
Anh đến nơi này
để rồi quen nhau mãi mãi.”
(Lê Dinh – Ngày ấy quen nhau)

(1Th 4: 16-17)

Quen nhau, đã từ lâu mà sao lại bảo “anh đến nơi này để rồi quen nhau mãi mãi”? Quen nhau mãi mãi, cũng không thể như đấng bậc vị vọng nọ, nại cớ quen nhau đã từ lâu bèn làm chuyện xằng bậy như bản tường trình từ nhà Đạo, viết như sau:

Mới đây Đức Tổng Giám Mục Wilson được coi là chức sắc cao cấp nhất trong Giáo Hội Công Giáo bị kết tội che dấu lạm dụng tình dục trẻ em. Qua một thông báo. Hội Đồng Giám Mục Úc cho biết: “Việc ngài quyết định từ chức đã đến sau khi tính chuyện tương lai tiếp theo sau việc ngài bị kết tội không báo cáo những trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra trong thập niên 1970”. 

Thông báo cho biết tiếp: “Trong khi thủ tục tư pháp tiếp tục, viêc từ chức của ĐTGM Wilson được coi là một chương mới trong câu chuyện đau lòng của những ai bị (cựu linh mục) Jim Fletcher xâm phạm tình dục mà cuộc sống đã bị hoàn toàn thay đổi. Quyết định này có thể mang lại đôi chút an ủi cho họ mặc dầu tất cả những đau khổ mà họ đã phải gánh chịu”.

Thông báo còn cho biết thêm là “quyết định của ĐTGM Wilson có nghĩa là ngài không còn là TGM Adelaide nữa bởi vì có kéo dài thì cũng chỉ gây thêm đau khổ và phiền muộn cho nhiều người, đặc biệt là các nạn nhân còn sống và cũng cho tổng giáo phận Adelaide. Hồi tháng 5, Đức Tổng Giám Mục Wilson đã bị kết tội bao che lạm dụng tình dục và bị kết án 12 tháng quản thúc. 

Trong khi đó, qua một thông cáo báo chí của Tổng Gíáo Phận Adelaide, ĐTGM Wilson cho biết hy vọng và cầu nguyện rằng quyết định của ngài sẽ là một chất xúc tác hàn gắn đau khổ và phiền muộn. Ngài cho biết:

“Vào ngày 20 tháng 7, tôi đã đệ trình đơn xin từ chức Tổng Giám Mục Adelaide lên ĐTC. Mặc dầu việc từ chức không được yêu cầu, thế nhưng tôi đã quyết định bởi vì càng ngày tôi càng quan tâm đến mức độ tổn hại mà việc tôi bị kết  tội mới đây gây ra cho cộng đoàn. Tôi từng có ý gia hạn quyết định này cho đến khi thủ tục khiếu nại hoàn tất.

Thế nhưng, có quá nhiều đau khổ và phiện muộn nếu tôi tiếp tục duy trì vai trò Tổng Giám Mục Adelaide, đặc biệt đối với các nạn nhân của (cựu linh mục) Fletcher. (Vũ Nhuận chuyển ngữ từ abcnet.au)

Quen nhau trong đời, quen cả những vấn đề được kể trong đời đi Đạo, nghe rất quen. Nghe quen quen, cón có truyện kể về các thiên thần hộ thủ, được giáo dân nọ đặt câu hỏi gửi đấng bậc nhà Đạo những câu tương tự như sau:

“Thưa cha,
Vẫn biết, Giáo hội từng dạy ta rất nhiều điều về các “thiên thần hộ thủ”. Thế nhưng, loài người chúng ta có thấy các vị ấy bao giờ đâu. Nếu vậy, lấy đâu là bằng chứng để ta tin là: các thiên thần ấy có thực. Xin cha giải thích cho con biết, kẻo không còn tin vào những gì được dạy dỗ từ lúc nhỏ.” (Câu hỏi của một bổn đạo người Úc không ghi tên)   

Ấy chết! Không ghi tên/tuổi hoặc gốc gác lai lịch, thì có ma nào biết được người ấy là người Úc, cơ chứ? Chẳng lẽ người Úc mình lại hay hỏi những câu vẩn vơ/lờ mờ như thế sao? Thôi thì, có hỏi sao thì cứ hỏi, rồi ra đấng bậc nhà mình vẫn vui lòng giải thích, để chính mình được vui, như sau:

“Tôi e rằng phần lớn các giáo-hữu đều tin vào chuyện thiên-thần hộ-thủ từng giúp họ một số việc trong đời thật cũng khó thuyết phục được ai; chí ít là việc này lại dính đến chuyện các thiên thần vì đã đến cứu họ, nên không để cho tai nạn xảy đến hoặc trường hợp tìm ra đồ dùng đã mất hoặc nhớ lại vào phút chót những gì mình từng quên bẵng, và nhiều thứ khác.

Lại có nhiều vị từng kinh-nghiệm về các sự việc khá ấn tượng. Như vừa rồi, có người đến kể cho tôi nghe câu chuyện một cụ bà nọ bị liệt đã té khỏi giường khi cụ ông ra khỏi nhà. Cụ không thể leo lên giường nằm trở lại được, bèn ngủ ngay trên sàn. Nhưng gặp lúc cụ ông đi làm về thấy vợ mình vẫn nằm yên trên giường ngủ. Cụ bà là người sùng kính hết sức mình vào các thiên thần hộ thủ gìn giữ cụ.

Nhiều lúc, các thiên-thần cũng đã hiện ra với ai đó qua hình-thù người phàm. Đó là trường-hợp được tổng lãnh thiên thần Raphael kể lại trong Cựu Ước. Sách này cho biết thần-sứ Raphael đã hiện ra với người trẻ mang tên Tôbia và cùng với người này lập hành-trình rất dài và rồi kết thúc bằng sự kiện tốt đẹp. Cuối cùng thì, thần sứ Raphael mới bộc-lộ lai-lịch đích-thực của mình mà bảo rằng: ngài là thiên-thần hộ -thủ. (X. Sách Tôbia 5: 4-5; 12: 15)

Nhiều vị thánh cũng tuyên bố là: các ngài có kinh-nghiệm được các thiên-thần hộ-thủ gìn giữ suốt nhiều tháng ngày trong đời mình. Trong số các vị này, phải kể đến thánh Josemaria Escriva, người Tây Ban Nha. Thánh nhân đã kể câu chuyện từng xảy đến với ngài như sau:

Năm ấy 1931, trong đợt sóng chống giáo sĩ ở nước này, trong lúc thánh-nhân đang đi bộ trên đường phố ở thủ đô Madrid thì có ba người trẻ tuổi sáp lại gần phía ông. Tức tốc, một trong ba gã ấy chạy ùa về phía thánh-nhân vội vàng kêu lớn tiếng:
-Để tao bắt lấy nó.

Lập tức, một đứa khác ngăn cản:
-Không được thế. Ngươi đừng có đánh ông ta.

Ngay sau đó, người trẻ ấy bèn gọi thánh Josemaria bằng những lời trêu chọc như sau:
-Này, chú lừa con rất bé nhỏ.

Đó là hình-tượng mà thánh-nhân nói về mình. Nhưng, những điều như thế, duy chỉ có mỗi ngài hoặc cha giải tội của ngài được biết mà thôi. Nên ngài biết chắc là kẻ dữ đã tìm cách đánh ngài và thiên-thần hộ-thủ đang đến cứu ngài.

Ít năm gần đây, tôi có nghe kể lại câu truyện cô bé nọ có tham-dự buổi tình-nguyện do nhóm Opus Dei tổ-chức tại vùng Manchester City, thuộc nước Anh. Đêm tĩnh-nguyện hôm ấy, có chủ-đề về lòng sùng kính các thiên-thần hộ-thủ. Cô bé sau đó đã nói rằng: hiện giờ chẳng có ai còn tin vào các thiên-thần hộ-thủ mình nữa.

Trên đường về nhà, cô bé phải lội bộ ngang qua một vùng tăm tối có cây phủ trùm, bỗng có một thanh-niên người sạch sẽ sáng láng xuất hiện dưới ánh đèn lù mù, trước mặt cô. Đang suy tinh không biết có nên nhắm mắt rồi lầm lũi đi về phía trước hoặc rẽ sang đường khác cố tránh né. Khi đến gần, cô thấy người trẻ tuổi kia nhìn vào mặt cô; đổi lại, cô cũng nhìn vào mặt anh ta. May mắn thay, người trẻ ấy lại không sáp đến gần cô làm gì hết.

Những ngày sau, cô mở báo ra đọc thấy có tin về một người con gái bị giết chết ở khu công viên vào cùng lúc đêm hôm ấy, và thủ-phạm đã bị bắt giữ. Cô đến đồn cảnh-sát hỏi thăm thì được tường-trình về những gì cô trải-nghiệm cùng buổi tối. Cô lân la và được phép hỏi chuyện thủ-phạm vụ giết người, thì được biết: thủ phạm lại chính là người trai trẻ từng đi ngang trước mặt. Đợi đến lúc hỏi rằng: tại sao lúc ấy hắn lại không tấn công cô thay vị một phụ nữ khác, thì anh ta bảo: “Lúc ấy có hai người con trai mạnh khỏe đã hộ-tống cô, nên hắn ta không làm hại cô được…

Một ví-dụ khác, được các đài phát thanh thời ấy nói nhiều về đám thủy quân lục chiến quan-tâm nhiều trong thời chiến ở Triều Tiên. Rõ ràng, câu chuyện thật được anh lính chiến tên gọi là Micae từng kể lại, là: anh được cha mẹ dạy mỗi ngày cứ sáng sáng phải đọc kinh xin cùng thánh Micae Tổng lãnh Thiên Thần gìn giữ anh bằng những câu kinh như:

“Lạy Tổng lãnh Thiên thần Micae,
xin thánh-nhân giữ gìn hộ thủ con vào mọi lúc.”

Anh vẫn nguyện kinh như thế mỗi ngày, chẳng hề quên. Một hôm, trong buổi tuần-tra/do thám vào mùa đông lạnh giá ở Hàn Quốc, bất chợt anh thấy mình đang ở cạnh một người lính chiến thuộc loại to lớn, rất vĩ đại chưa từng gặp, nhưng đã nói với anh rằng: Anh ta tên Micae và anh còn nói thêm: “có lẽ chúng ta sẽ gặp rắc rối, chợt đến trước mắt…

Thế rồi, trời bắt đầu có tuyết càng ngày càng nặng hạt. Nhưng, người lính nọ lại quả quyết: chẳng mấy chốc, mọi nguy hiểm rồi cũng chấm dứt. Và, quả như lời anh nói, cơn tuyết đổ đã ngừng hẳn. Sau đó, hai người lại xa cách không còn dịp làm việc chung với nhau nữa, tuy thời-điểm tuần-tra vẫn tiếp-tục diễn-tiến.

Ít lâu sau, lại có sự kiện nhóm của hai anh đi tuần-tra bèn gặp phải 7 người lính chiến thuộc đám địch thù xuất hiện tay lăm lăm mấy cây súng máy chĩa vào người cả hai anh. Bỗng anh bạn bèn hét lớn tiếng mấy câu:

“Ngồi sụp xuống, Micae!
Sụp xuống mau đí!”

Và, cả hai đều nằm rạp xuống đất, tức thì có lằn đạn bay vụt trên đầu cả hai người. Anh thấy một Micae lực lưỡng vẫn đứng yên không động đậy, dù chẳng có ai ở đó tong quãng không hôm ấy. Micae lực lưỡng bèn nhảy chồm kéo anh nằm rạp xuống, nhưng chính anh ta lại bị đạn ghim vào trước ngực. Anh vẫn thấy Micae lực lưỡng yên hàn đứng sừng sững, chung quanh có lằn ánh sánh bao bọc tay anh cầm lưỡi kiếm sáng quắc, rồi biến mất.

Thế rồi, anh lấy lại bình tĩnh trở về với thực-tại khi đám tuần-tra đến gần về phía anh đang nằm. Anh bèn hỏi đồng bạn là Micae người bạn lực-lưỡng khỏe mạnh kia đang ở đâu? Thì các bạn đều trả lời:

“Bọn tôi đâu thấy có Micae nào lại gần anh đâu!
Vả lại, trong tiểu đội của mình, duy nhất chỏi có anh tên là Micae mà thôi.”

Rồi họ hỏi làm thế nào mà có thể bắn hạ được địch quân đông hơn anh thế? Anh bèn nói: bọn tôi có làm được tích sự gì đâu. Quả thật, cây súng máy của anh không hề nhả mất viên đạn nào hết. Nhưng bảy tay quân thù kia đều chết dưới lằn gươm sắc bén, chứ không phải sung đạn.

Tựu trung, câu truyện muốn minh-chứng rằng: Thiên-thần hộ-thủ quả có thật.” (X. Lm John Flader, Are guardian angels real? The Catholic Weekly 04/01/2015, tr. 22)

Có những truyện kể trong đời, tưởng chừng nghe rất quen, có khi quen đến độ “nằm lòng” lại vẫn là những câu truyện được kể như sau:

Sau tuổi 50, tôi hiểu ra rằng, cuộc đời muốn hạnh phúc chính là làm được 6 chữ này
Thế là sau tuổi 50, tôi đã hiểu được rằng, thế giới thật rộng lớn, mà bản thân mình lại rất bé nhỏ, có những sự tình không cần phải xem nó nặng đến như vậy. Bản thân chúng ta vốn đã rất khổ, rất mệt, không cần cứ mãi chỉ trích lẫn nhau…

Con người ta, cả một đời đều đang bận rộn, mệt mỏi, bôn ba. Dù cho vất vả bao nhiêu, sau cùng vẫn có rất nhiều việc không thể hoàn thành được. Con người ta, cả một đời đều đang tằn tiện, tích cóp, dành dụm; sau cùng dù cho dè sẻn bao nhiêu, tiền bạc vẫn không bao giờ thấy đủ. Con người ta, cả một đời đều đang chịu đựng, nhường nhịn, sợ hãi; nhưng dù cho cẩn thận thế nào, ta vẫn đắc tội với không ít người.

Một đời chúng ta đều đang đọc, đang viết, đang cảm ngộ; nhưng dù có thông minh bao nhiêu, vẫn phải đối diện với không ít lần thua thiệt. Con người, cả một đời đều đang tỉnh táo, dù cho bình tĩnh bao nhiêu, cơ trí bao nhiêu; sau cùng vẫn không tránh khỏi những điều tiếc nuối.

Thế là sau tuổi 50, tôi đã hiểu được rằng, thế giới thật rộng lớn, mà bản thân mình lại rất bé nhỏ, có những sự tình không cần phải xem nó nặng đến như vậy. Bản thân chúng ta vốn đã rất khổ, rất mệt, không cần cứ mãi chỉ trích bản thân. Đời người vốn không phải mọi chuyện đều luôn như ý, cớ chi phải cưỡng ép bản thân. Đã cố gắng hết mình rồi, dù cho kết quả thế nào cũng đều được cả. Chuyện nơi thế gian, không ai nắm chắc được vĩnh hằng.

Đời người vốn không phải mọi chuyện đều luôn như ý, cớ chi phải cưỡng ép bản thân. 

Thế là sau tuổi 50, tôi hiểu được rằng: Đời người thật quá ngắn ngủi, không cần thiết phải tính toán quá chi li. Những việc không hiểu được, thế thì không cần phải hiểu; có những người không phỏng đoán được, thì không cần phải phỏng đoán; có những lý lẽ nghĩ không thông, thì không cần phải nghĩ ngợi thêm nữa. Những việc không vui trước đây, hãy đem nó cất giữ ở một góc xó không có ai.

Vậy nên, tự nhắc nhở bản thân mình: Tôi có thể không được hoàn mỹ, nhưng nhất định phải chân thực, tôi có thể không giàu có, nhưng nhất định phải vui vẻ!

Thế là sau tuổi 50, tôi hiểu được rằng: cuộc sống, sẽ không vì những lời oán trách của bạn mà thay đổi; đời người, sẽ không bởi bạn phiền muộn mà đổi khác. Dù bạn oán trách hay không, cuộc sống vẫn sẽ y như vậy; dù bạn có buồn hay không, đời người cũng sẽ y như thế. Oán trách nhiều, buồn phiền vẫn là bản thân; thương cảm nhiều, khổ não vẫn là chính mình.

Bạn khóc, cuộc đời sẽ không bởi vậy mà chảy nước mắt vì bạn; bạn khổ, cuộc đời sẽ không bởi vậy mà thêm phiền não.

Là con người, đâu có chuyện vạn sự đều luôn như ý, mọi việc đều luôn thuận tâm.
Trong công việc, đâu có chuyện vạn sự đều viên mãn, mọi việc đều không chút tiếc nuối.
Nếu đã như vậy, sao ta lại không mỉm cười? Nếu đã như vậy, hà tất phải phiền muộn lo âu?
Người sống ở đời, vui vẻ là một đời, sầu khổ cũng là một đời, vậy sao ta không vui sống cho đến cuối cuộc đời này?

Thế là sau tuổi 50, tôi đã hiểu được rằng: Đừng làm khó bản thân, một người, long đong khổ sở sống ở thế gian này, đừng bởi những người mình không thích mà đánh mất niềm vui, đừng bởi những người chỉ vụt thoáng qua trong sinh mệnh đó mà lưu luyến không thôi, cũng không cần phiền não với từng áng mây thoảng qua.

Hãy sống vì bản thân, dù cuộc sống cho ta điều gì, đều thản nhiên vui vẻ đón nhận, đây mới là thái độ sống tốt nhất!

Đừng làm khó bản thân, cũng đừng bắt chước người khác, hãy là chính bản thân mình, đi tốt con đường mà mình đã chọn, làm tốt những việc trong phận của mình, sống cuộc sống mà mình mong muốn.
Người sống ở đời, vui vẻ là một đời, sầu khổ cũng là một đời, vậy sao ta không vui sống cho đến cuối cuộc đời này?

Thế là sau tuổi 50, tôi hiểu được rằng: Với những gì bản thân không với tới được, không cần phải mong muốn thái quá, hãy để mọi chuyện thuận theo tự nhiên. Lòng mệt mỏi rồi, hãy nghe vài bản nhạc hay; trong lòng có chuyện sầu não, hãy thổ lộ với người bạn yêu thương. Mệt mỏi rồi, hãy pha cho mình một ấm trà, tìm một nơi yên tĩnh, nhắm mắt nghỉ ngơi.

Những lúc buồn phiền, tìm kiếm niềm vui, đừng đánh mất hạnh phúc. Những lúc bận rộn, hãy tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, đừng đánh mất sức khỏe. Những lúc mệt mỏi, hãy ngừng tay lại, chớ để đánh mất niềm vui.

Thế là sau tuổi 50, tôi đã hiểu được: Đừng làm khổ bản thân, đời người chỉ mấy chục năm ngắn ngủi, bôn ba cũng được, lăn lộn cũng được, đều chỉ là nháy mắt. Không chỉ trích, không oán trách, cho bản thân một phần lạc quan, một phần bình hòa. Không cưỡng cầu, không mong mỏi thái quá, cho bản thân một phần tâm trạng thản nhiên, một phần tâm thái điềm tĩnh. Không so đo, không tính toán, giữ lại một phần tình cảm chân thành nhất trong tâm.

Không hâm mộ vầng hào quang của người khác, không chê trách thói đời nóng lạnh, cất những bước chân tự tin, kiên định với sự lựa chọn của riêng mình. Lấy tâm thái lạc quan mà sống tuổi già tốt đẹp nhất của mình!

Cuối cùng, sau tuổi 50, chúng ta hãy ghi nhớ rằng cách sống tốt nhất chính là 6 chữ: Nghĩ thông, nhìn thoáng và buông bỏ!

Truyện kể về đời người sau tuổi 50, vẫn là những chuyện nghe khá quen, thế nhưng người nghe ít khi chịu cho đó là sự thật. Bởi thế nên, có nhiều chuyện trong đời, cứ tưởng là sự thật được mọi người chấp-nhận, nhưng sự thật lại rất khác.

Thế đó, là đôi giòng chảy kể lể ở “Chuyện Phiếm Đạo Đời” rất quen quen, nay đưa ra để bà con ta, lấy làm đầu để để suy-tư. Suy tư đâu đấy rồi, nay xin mời bà con mình lại hát thêm vài ba đoạn ở trên để kết-thúc rồi còn đi vào thực-tế cuộc mà sống thự và sống với bà con, anh em như sau:

“Quen nhau từ năm tháng rồi
Ngàn phương xa vời
Anh đến nơi này
để rồi quen nhau mãi mãi...”

Và, thêm câu điệp khúc cứ hát mãi rằng:

“Quen nhau qua đáy mắt
Duyên tình người em gái
Ngày nào vừa quen nhau
Nay đã mến thương nhau

Giờ này người em tôi
Hoa thắm lên môi hồng
Bên câu chuyện nồng ước mộng chung.”
(Lê Dinh – bđd)

Thế đó, là vài ba đề-nghị nh làm kết-luận cho chuyện phiếm đạo đời cộng với lời đấng thánh hiền, từng bảo ban, nhắn nhủ rằng:

“Vì khi hiệu lệnh ban ra,
khi tiếng tổng lãnh thiên thần
và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên,
thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống,
và những người đã chết trong Đức Kitô
sẽ sống lại trước tiên;
rồi đến chúng ta, là những người đang sống,
những người còn lại,
chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ,
để nghênh đón Chúa trên không trung.
Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi.”
(1Th 4: 16-17)

Nói cho cùng, đã có Tổng Lãnh Thiên Thần hộ-thủ rồi, thì ai trong chúng ta còn lý-do nào nữa, mà lo-ngại? Thế đó, vẫn là lời nhắn gửi đến bạn bè, người thân, hôm nay và mai ngày ở huyện nhà.

Trần Ngọc Mười Hai
Và những câu chuyện phiếm
Nghe quen quen
Nên cũng thấy khó
Mà nghĩ tiếp
Cho mình và cho người
ở trong đời.