Saturday, 31 January 2015

“Một giòng xanh xanh, một giòng tràn mông mênh”,



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 5 thường niên năm B 08/02/2015

“Một giòng xanh xanh,
một giòng tràn mông mênh”,
“Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”
(Nhạc Ngoại-quốc: Johann Strauss – Blue Danube
Lời Việt: Phạm Duy Giòng sông xanh)
(Lc 2: 41-43)

            Thật rất đúng. “Giòng tràn mông mênh” đây, là nỗi niềm nhung nhớ “quay về miền đời, lúc mơ huyền”. Giòng nhung nhớ hôm ấy, là “giòng trời xao-xuyến”, đầy “quyến luyến”, với “tình thương mến”, quyện vào nỗi “sầu mấy kiếp” rất xanh lơ, mơ huyền, “nồng ý biếc”.
            Giòng ở đây, còn là giòng nhạc trọn vẹn rất “xanh xanh” được bạn trẻ Anthony Trần đã có những lời tâm tình ở buổi “Hát Cho Nhau” hôm mồng 15 tháng 11 năm 2014 tại Sydney, bằng đôi giòng như sau:

Bài Giòng Sông Xanh, lời Việt, là do nhạc sĩ Phạm Duy đặt, mang theo nhiều kỷ niệm gắn bó với bài hát suốt nhiều năm dài. Những tháng ngày về sau, ta nghe bài này rất nhiều lần, nhưng chỉ là bài tóm gọn, do ca sĩ Thái Thanh hát trên đĩa nhựa, trong 3 phút. 

Còn, bài “Giòng Sông Xanh” đầy đủ từng làm nên lịch sử nhạc Việt, chính là bài dự thi trong buổi tuyển lựa ca sĩ tổ chức tại Huế năm 1953 do Hà Thanh hát. Hôm hát dự thi, Hà Thanh được cả thành-phố Huế lắng nghe đến độ như ngừng thở khi cô hát trọn vẹn bài này, với đủ các nốt nhạc cao vút bay lên đến hơn một bát âm như được viết ở bản gốc do Johann Strauss viết...” (trích lời bình của người dẫn nhạc ở buổi Hát Cho Nhau 15/11/14)

                Quả là nhận-định về ‘giòng chảy âm-nhạc’ để mọi người thưởng ngoạn. Thêm vào đó, bài hát còn có lời lẽ đầy tình-tự óng-ả của một “ánh dương lên xôn xao”, bên “ven bờ sông sâu”, như sau: 

“Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu.
Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.
Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui.
Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.
Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi.
Đời là khúc nhạc, đời là tiếng thơ.
Nước sông reo như ru cuồn cuộn sóng trôi xa.
Là tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta.
(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Vâng. Sống ở đời, người người vẫn cứ “hát vang lên cho vui”, “đời là khúc nhạc”, “tiếng thơ”, là “tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta, và mọi người”. Hát thế rồi, người người lại sẽ mời nhau “lên tàu mà đi” về chốn “giang hồ, nghìn hải lý”, Dù, đời mình/đời người có “lỡ tình duyên đâu đó, nơi kinh kỳ”, như câu ca đầy ý nghĩa ở bên dưới, những hát rằng:

“Sông về sông dào dạt ý
Hát tang bồng theo tầu mà đi
Ai giang hồ sau nghìn hải lý
Lỡ tình duyên nơi đâu đó ghé qua kinh kỳ.”
(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

‘Giòng đời’, có vàng ánh những tư-tưởng xôn xao, “tang bồng”, “dạt dào ý” lại được người nghe hát hôm ấy, chuyển thêm cho nhau một cảm-nhận tiếp diễn như sau:

“Xin đặc biệt gửi đến cô Ánh Linh lời cám ơn đã chịu khó nhận lời hát một bài thật khó mà it ai dám đảm nhận. Đó là bài Giòng Sông Xanh xanh. Càng khó hơn, khi phải hát đúng với bản gốc gồm đến 500 trường canh, dài trên 15 phút với tiết điệu “waltz” quay cuồng ở tốc độ 157 nhịp mỗi phút. Trong khi bản hiện-hành, bao gồm cả bản hát do cô Thái Thanh thu âm, chỉ dài trên 3 phút, mà thôi. Bản gốc được viết trên tông “Ré”, có những nốt la, si, do cao vút ngoài giòng kẻ, chỉ dành riêng cho các giọng “soprano” chất ngất mà thôi.

Từ khi cô Hà Thanh hát bản gốc này trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ do Đài phát thanh Huế tổ chức năm 1953 lúc ấy cũng đã mấy chục năm rồi bây giờ mới có cô Ánh Linh hát lại. Nhờ đó giới thiệu cho người nghe một nhạc bản nguyên thủy chưa bị cắt, với đầy đủ lời ca theo đúng ý nguyện của nhạc sĩ Phạm Duy lúc còn sinh tiền khi tiếp tay đặt lời Việt.

Theo ý chủ quan của riêng em, thì phần bị cắt mới là phần hay nhất của bài nhạc. Vì, ở mấy phần đầu, con tàu chỉ mới rời bến chưa được bao lâu thì đã cặp bờ rồi. Ở các đoạn bị cắt bỏ, con tàu nọ đã đưa chúng ta đi ngang qua những vùng có phong cảnh đẹp vô ngần, có tiếng chim hót vờn quanh, có tuyết rơi lất phất trên mặt nước, có lời tình tự của ai đó trên boong tàu, với cả tiếng tàu hú hòa cùng với tiếng sóng khua rập rờn nữa. Chúng ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi tác giả Johann Strauss lặp đi lặp lại các phân đoạn mà không báo trước là phân đoạn nào sẽ được lập lại như thế. Có khi vừa hết đoạn 1 nhảy sang đoạn 5, rồi mới về lại đoạn 2. Cả bài như mời gọi chúng ta hãy gia-nhập trò chơi trốn/tìm với tác giả thật thú vị.

Đến đoạn solo của đàn sĩ là phân-đoạn rất dài gồm nhiều tiểu khúc khác nhau, lặp đi lặp lại vài câu hay nhất của các phân đoạn trước, nhưng lại cũng không cho biết trước là câu nào sẽ được bầu là câu hay nhất, đắc ý nhất. Đây cũng là lúc con tàu giương buồm ra khơi, giúp cho cô Ánh Linh được dịp nghỉ lấy hơi đôi chút sau khi thả hồn mình với con tàu, và sóng nước. Để cuối cùng, chuẩn bị cho chuyến cập bến ngắn ngủi với biết bao nhiêu là luyến thương, nhớ tiếc.

‘Giòng nhạc’ cổ điển quyến rũ người thưởng thức là như vậy, trong đó bao gồm cả loại nhạc “opera” mà, có thể, chúng ta chưa quen lắm. Hy vọng, chúng ta sẽ lại có nhiều cơ hội được nghe tiếp những bài ca khác dễ mến như thế.”
(trích điện thư vang vọng sau buổi hôm ấy)

Câu chuyện ‘Giòng Sông’ (rất) Xanh” áp dụng vào cuộc sống Đạo giữa đời, lại sẽ còn hơn thế nữa. Hơn thế, là bởi: đời người luôn có những “giòng kể” chợt nghe qua cứ tưởng bình thường, chẳng ý-nghĩa. Nhưng, suy cho kỹ, người đọc và người nghe sẽ thấy đôi điều rất đáng áp dụng một cách chung chung cho người mình, thế cũng được.  
Nói dông nói dài, không gì bằng nói thêm bằng truyện kể, như sau:

Truyện rằng:
Hôm ấy, có cuộc đối thoại thuộc loại “bỏ túi” giữa phóng viên/nhà báo và chủ quán cháo của người Hoa như sau:
Phóng viên (PV):
- Thưa ông trước khi bán cháo ông làm gì?
Chủ tiệm (CT):
- Ngộ bưng cháo cho cha ngộ bán.
- Vậy cửa hàng này có bao nhiêu năm?
- Không có năm, chỉ có đời. Mấy đời lận. Bà cố ngộ bán cháo. Ông nội ngộ bán cháo. Cha ngộ bán cháo. Ngộ bán cháo. Con trai ngộ…
- Trời ơi! Không có gì khác ư?
- Khác chớ, ngày trước có một cửa hàng ở Quảng Châu, bây giờ có hai cái ở Sài Gòn, ba cái ở Hoa Kỳ, bốn cái ở Úc.
- Người ta thành công thì sẽ cho con cái làm Giám đốc, còn ông?
- Ngộ có thành thì vẫn cho con làm chủ cửa hàng.
- Ông không muốn chúng đi học sao?
- Muốn nhiều, con ngộ một đứa có bằng Thạc sĩ kinh doanh cháo, đứa khác vừa bảo vệ luận án Tiến sĩ cơm.
- Ở trong bếp à?
- Ở Đại học Harvard, Mỹ.
- Học xong chúng nó về đâu? Thành ông gì?
- Về nhà này, thành người rửa bát cho “papa” chúng. 
- Ông gọi khách hàng là vua hay thượng đế, vậy?
- Gọi bằng gì cũng không quan trọng. Quan trọng là đối xử với nhau thế nào, thôi!
- Truyền thuyết kể rằng nhiều tỷ phú người Hoa đã đi lên từ một thùng đậu phụng rang, có đúng không?
- Không, những ngày đầu tiên làm sao có tới cả thùng, chỉ vài trăm hột thôi.
- Có tiến mà ông mặc bộ đồ vải thô thế này à?
- Dạ, người vô đây chủ yếu là người bình dân. Họ sẽ còn vô nếu thấy chủ tiệm cũng giống như họ.
- Lý do gì khiến người Hoa hay chọn kinh doanh ăn uống.
- Thưa, đơn giản vì kinh doanh đó phục vụ cái bụng con người. Nếu phục vụ cái đầu sẽ phát sinh nhiều rắc rối lắm.
- Ông bán cháo tim gan mà sao sáng ra nhà ông ăn toàn cháo trắng với củ cải muối?
- Dạ, nếu ngộ cứ ăn cao hơn khả năng của ngộ thì thế nào cũng tới lúc ngộ phải nhảy vào nồi cháo.
- Chắc là ông ít vay vốn ngân hàng?
- Nhà băng có tiền, nhưng không bao giờ có cách nấu cháo để mượn cả.
- Bây giờ tôi muốn ăn một tô, nhưng tôi chưa có tiền mai thanh toán được không, thưa ông?
- Dạ không phải là ngày mai mà 20 năm sau cũng được.
- Nhưng lúc ấy lãi suất thế nào?
- Dạ, lãi là ông luôn nghĩ tới hàng cháo này, đấy mới là lãi to.” (truyện kể do St sưu tầm)

Bần đạo đây, thấy tiếc là: phóng viên nọ đặt câu hỏi cho chủ quán câu gì đó, bảo rằng: “Bán cháo từ đời này tới đời nọ, ông có bao giờ nghĩ đến chuyện nhà thờ nhà thánh hay giữ Đạo gì không?” chắc câu trả lời cũng sẽ “ngộ-nghĩnh” lắm, chứ không chỉ mỗi “ngộ-ngộ/nị-nị” như trên.
Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Có lẽ bà con mình cũng nên kể những truyện bình dân ở huyện cho dễ thở là được. Nghĩ thế nên, bần đạo nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vấn-đề bức bách của cuộc đời nhiều sống Đạo như sau:

“Ngôn-ngữ mà người Công-giáo lâu nay vẫn sử-dụng, đã trở-thành thứ đá tảng chẹn họng con người thời nay cũng rất nhiều. Phần lớn các từ-vựng dùng trong Đạo, trên căn-bản, vẫn bị người ở trong cũng như ngoài Đạo hiểu rất sai lạc. Đại để như: hầu hết các cụm-từ lớn tướng như: Ơn cứu-độ, Chúa Cứu Chuộc, Sự Hy sinh, động-tác cứu rỗi, đúng thời buổi, Ăn-năn sám-hối, Lòng Chúa Xót thương, Đền bù tội lỗi, Tha thứ, Tái sinh, Quang Lâm, Thiên Chúa, Đức Giêsu, Kinh Thánh và các từ-ngữ khác như: Kinh Tin Kính, Lời Cầu của Chúa, Phụng vụ Lời, vv.. đều mang lại cho người theo Đạo nhiều nghĩa méo mó, sai lệch từ Thánh Kinh và các truyền-thống trong Đạo.

Hiểu sai ý-nghĩa từ-vựng, là do hai nguồn gốc chính tạo cung-cách khác lạ khiến cho người đi Đạo cứ phải nghe đi nghe lại mãi không ngừng. Nguồn gốc trước tiên, là do việc định danh ngôn-ngữ hiểu theo tâm-trạng người thời-đại gây phương-hại cho cả người đi Đạo cũng như ngoại Đạo. Nguyên-do thứ hai, là việc chú-thích dẫn-giải ngôn-từ của đạo-giáo theo cùng một mẫu-số chung mà tôi gọi là Thiên-Chúa-giáo của người tin vào “thiên-đàng và hoả-ngục”. Và rồi, người trong cuộc lại cứ theo đó để diễn-nghĩa mọi từ-vựng khác vẫn dùng trong Đạo.

Tín-hữu sống ở nước này và cả nơi khác, nay bị chia rẽ cách trầm-trọng do hiểu sai-chệch thứ ngôn-từ chung đụng. Thực tế, nay có khoảng phân nửa hoặc hơn các người Công-giáo ở Mỹ tin rằng ngôn-từ ở Kinh thánh vẫn được hiểu theo từng chữ, nghĩa đen trong khuôn-khổ của thứ thiên-đàng/hoả ngục cốt nhấn mạnh vào cuộc sống ở đời sau; vào việc đền tội có sự tha thứ mọi lỗi phạm; vào Đức Giêsu đã chết cho tội lỗi của con người và niềm tin tưởng như thế. Số người còn lại có khi chỉ phân nửa số người nói ở trên lại cứ bối rối với đủ mọi vấn-đề như thế. Có người lại cứ tiếp tục tiến về phía trước, hiểu đạo-lý theo nghĩa khác khẳn. Sự khác-biệt thật rõ rệt, khác đến độ người ngoài cuộc lại cứ tưởng có hai ba đạo dùng chung một Sách thánh, cả đến ngôn-ngữ cũng khác biệt.

Thành thử, công việc của chúng ta là: làm sao tạo lại được thứ ngôn-ngữ của đạo mà không làm mất đi sự phong-phú và khôn khéo của nó. Quả thật, bản thân tôi cũng từng có ý-định viết nguyên một cuốn sách có đầu đề, tương tự như: Hãy ra tay cứu vớt và tái tạo ngôn-từ trong Đạo… Thế nhưng, cụm từ ‘cứu-vớt và tái-tạo là thứ từ-vựng cần cứu-vớt hơn cả. Trong khi đó, người thời nay mỗi lần nói đến chuyện cứu-vớt hoặc cứu-chuộc lại liên-tưởng đến chuyện mình được Chúa chấp-nhận cái chết khổ hình để cứu-chuộc tội-lỗi của ta. Dù sao đi nữa, thì: ý-nghĩa cổ xưa của kinh-thánh Cựu-ước có tác-dụng hơn cả.

Xem thế thì, cứu-chuộc là động-thái trả tự-do cho những người bị nô-lệ hoặc trói-buộc theo cách nào đó, từ việc bắt-giữ, trói cột, chứ không phải chuyện cứu khỏi mọi tội-lỗi, mà thôi đâu. Hiểu theo nghĩa này, có lẽ ta cần cứu-vớt ngôn-ngữ nhà Đạo trước nhất, làm sao để mình không còn bị ràng buộc vào chủ-thuyết tân-thời chuyên hiểu mọi việc theo nghĩa đen và cứu khỏi khung “thiên-đàng/hoả-ngục” của người Công giáo rất thời đại.

Thế nên, bằng các chương-đoạn không dài, hy vọng những gì viết ra ở đây sẽ chỉ cách cho độc-giả cách đọc sách sao cho có lợi, tức: không chỉ mỗi học-hỏi ý-nghĩa và cách phát-âm nhiều chữ viết, mà là làm sao biết nghe và hiểu được các ngôn-từ đặt ra. Đó, cũng là lý-do thúc-bách chúng tôi viết lên những giòng chữ bên dưới cốt để giúp mọi người biết đọ, nghe và tiêu-hoá tận bên trong mọi từ-vựng trong Đạo mà không cần có ý-niệm tiên-quyết để hiểu rõ sự việc đang diễn tiến. Nói cách khác, vấn-đề của người thời-đại là làm sao học cách đọc và nghe một lần nữa, thứ ngôn-ngữ của niềm tin hôm nay…” (xem Marcus J. Borg, Speaking Christian Why Christian Words Have Lost Their Power and How They Can Be Restored, HarperOne 1989 tr. 1-3)                               

Cảm-nghiệm cùng một ‘giòng chảy’ tư-tưởng theo kiểu Johann Strauss, nay mời bạn và mời tôi ta nghe thêm khúc nhạc đầy ắp những “reo vui”, để rồi sẽ “ngỡ mình vui trong ánh muôn sao Thiên Đàng”. Thiên đàng, nay là ‘giòng đời’ thân thương có người anh/người chị ở Nước Trời, mang nhiều cảm-nghiệm như tiếng hát ở bên dưới:

“Ôi, tóc em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời.
Ôi, mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai.
Sông về, sông cười ròn tiếng
Yêu mối tình bên bờ thành Vienne
Đôi giang hồ quay về bờ bến
Ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao Thiên Đàng.
Ngày ấy, có tiếng anh khoan hò thuyền về.
Ngày ấy, có dáng em soi dòng chiều hè.
Ngày ấy, có tiếng ta hát gọi tình về
Nước sông miên man trôi đi.
Ngày ấy, lúc đến với em một lời thề.
Ngày ấy, lúc nói với em một chuyện gì.
Ngày ấy, lúc vui cuộc sống nhịp tràn trề
Nước sông miên man trôi đi.”
(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Cảm-nghiệm thân thương đầy “tình ý” như thế, lại cũng mời bạn/mời tôi, ta cứ để lòng mình trôi theo “giòng nước” mầu xanh, rồi sẽ bồng bềnh trôi như ‘giòng đời’ của mọi người. Trôi như thế, hẳn bạn và tôi, ta lại sẽ bắt gặp cả một ‘giòng người’ cuồn cuộn chảy theo hình-thức của một hành hương, tham quan, thưởng-lãm kinh-nghiệm đời, kể cũng lạ.
Có điều lạ, là: vừa qua, trong chuyến du-lịch thăm đất miền có tên gọi là “Tây Tạng”, bần đạo đây ra như bị cuốn hút vào những ‘giòng cuốn’ nào đó, khởi đầu là ‘giòng nước’ mầu xanh; rồi đến ‘giòng đời’ mầu hạt huyền; và nay lại là ‘giòng người’ đầy chuyện ‘hành hương’ chốn kinh thành đông người qua lại.
Có chuyện lạ, là: ‘giòng người’ hành hương, đi bộ ở Potola, tại thủ đô Lhasa xứ Tây Tạng mọi ngày, vẫn chẳng thấy ai trầm buồn, sầu đắng hoặc lắng đọng niềm ai oán nào hết. Ngược lại, người dân ở đây cứ hành hương đi bộ theo đường vòng Kora cứ đi là đi mãi không ngừng nghỉ. Họ đi, trong tâm trí tràn đầy ‘ánh dương xôn xao”, an vui, nguyện cầu rầm rì vào mọi buổi.
Hành hương hoặc hành trình có nguyện cầu, chỉ mỗi thế. Hành hương như thế, chỉ nguyện và cầu cho mọi người khác không chỉ gia đình mình được an vui, bền chí làm việc thiện với mọi người, cho mọi người.
Thế đó, là hành hương đi bộ kiểu Kora của người Tạng, xứ miền rất Tây. Còn, sự việc hành hương của người mình có giống vậy không? Tức là: phải đặt chân tới đúng tận nơi tận chốn đã xảy ra sự-kiện lịch sử, của một nhà tổ-chức các cuộc tham quan du-lịch như sau:  

“…Tôi đã gặp những chuyến hành hương Đất Thánh mà người hành hương không vào được trong Mộ Chúa, không được dâng lễ dưới chân Thánh Giá trên Núi Sọ. Tôi cũng gặp những người đến Bêlem phải xếp hàng cả tiếng đồng hồ, chỉ được vào vài giây kính viếng chỗ Chúa Giáng Sinh rồi phải ra ngay. Đến Mộ Chúa mà không đủ giờ xếp hàng vào. Lý-do: Các Tour ở hotel ngoài Thành Thánh. Nếu phải lấy xe búyt đến những nơi Đền Thánh này thì riêng chuyện kẹt xe sáng, chiều cũng mất biết bao thời gian. Đấy là lý-do vào đế Đền Thánh thì các Tour khác đã xếp hàng chờ rồi…   

Tôi chủ trương phải tìm cách ở trong Thành Thánh để có thể đi bộ được. Sáng sớm các Tour du lịch chưa bắt đầu thì mình đã ở trong Mộ Chúa. Khi các Tour phải về hotel vào ban chiều thì mình lại đi vào. Tất cả các chuyến đi từ trước đến nay, tôi đều đem được người hành hương vào Vườn Giệtsimany vào ban đêm để canh thức với Thánh Thể. Đây là kỷ-niệm tuyệt vời. Cảm-nghiệm này rất hiếm vì ít Tour nào thực-hiện được. Vì mục-đích của tôi là đi hành hươg để cầu nguyện ở những nơi thánh…” (x. nguyentamthuong.com, Đặc biệt của chuyến hành hương)

Nói thế, tức đức thày-chuyên-tổ-chức-hành-hương đã gặp nhiều người tổ-chức và đích-thân hành-hương ở đây đó, có gặp nhau trong yêu thương, đỡ dần để nguyện cầu cho nhau như người “Tạng” đã và đang thực hiện ‘giòng người’ đi bộ bên nhau? Bởi hành hương, theo quan-niệm của người Tạng là để nguyện cầu cho nhau hoặc chỉ cười với nhau qua câu “Khasi đêlê” (“Hello!”) vui vẻ; rồi cùng nhau tiếp tục đi nhiều vòng Kora thương yêu hơn nữa theo kim đồng hồ quanh đền đài Potola yêu dấu của họ.
Nói như thế, thì có hành hương hay hành xác hành hình người mình ít nhiều gì đi nữa vẫn chỉ như tác-giả nọ từng minh-định cuộc đời mình và đời người như sau:

“Những điều tôi viết ra ở đây, là hỏi rằng: Trọng tâm của Đạo Chúa nằm ở đâu? Sống đời đi Đạo, ngày nay có nghĩa gì? Tôi sẽ tập trung trả lời cho các câu hỏi này, bằng cách đưa ra tầm nhìn ban đầu của Hội thánh thời tiên khởi và sau đó đi đến thị-kiến chung đang dâng lên nơi người có Đạo và đi Đạo… Cả hai, đã và đang thấy hiện hữu nơi cộng-đoàn hội thánh ở mạn Bắc Hoa Kỳ ngày hôm nay đang chia cách rất đậm nét. Chúng ta đang ở vào thời đại đầy những xung-khắc và đổi thay, trong Giáo hội.

Tôi viết theo tư-cách của một người đầy mê say và xác tín. Thứ xác tín vẫn bảo rằng: Đạo Chúa ngày nay vẫn tạo ý-nghĩa rất nhiều cho cuộc đời. Cả vào thời của tôi, niềm xác tín này vẫn hiện-diện và phát-triển. Khoảng chừng hai chục năm nay, từ ngày tôi mới ở tuổi “teen” đến năm tôi hơn ba mươi tuổi, Đạo Chúa không tạo nghĩa gì nhiều lắm đối với tôi. Phần lớn vì các lý-do tinh-thần nhiều hơn,  hình thức đi Đạo tôi học được từ thời nhỏ, đã cạn dần sự say mê thuyết-phục.  Nay có lúc, tôi đã xác tín rằng: muốn trở thành người Công-giáo đích-thực, sẽ không còn nhiều rào cản về tinh-thần hoặc trí-thức nữa. Nay ta đã có cái nhìn Đạo Chúa theo cách thức đầy thuyết phục gồm tóm nhiều ý-nghĩa của cuộc sống theo nghĩa rất rộng, thứ cung-cách nhìn thực-tại và cuộc sống của ta trong tương-quan với những gì có thực. Một cung cách nhìn biết Chúa, có tương-quan mật-thiết với Chúa để rồi sẽ còn thay đổi đời mình nhiều hơn nữa. Sự hy sinh mà Đạo Chúa đòi hỏi nơi chúng ta, cuối cùng sẽ là đòi hỏi sự hy-sinh nơi người trí-thức, rất hiểu biết…”   (x. Marcus J. Borg, The Heart of Chirstianity, Rediscovering a Life of Faith, HarperOne 2003, tr. xi-xv)          
  
Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Ở đây, bạn và tôi, ta vẫn nói và vẫn kể về đời người sống Đạo giữa đời, ở đó luôn có những cuộc lữ-hành trong đời mà người thời nay hay gọi là “hành hương, hành xác hoặc hành gì thì cũng thế.
Hành hương hay lữ lành, cũng là sinh-hoạt phù-hợp với thói quen và lập-trường sống của người đi Đạo và giữ Đạo thời của Chúa, từng đề-cập đến những điều như sau:
      
Hằng năm,
cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem
mừng lễ Vượt Qua.
Khi Người được mười hai tuổi,
cả gia đình cùng lên đền,
như người ta thường làm trong ngày lễ.”
(Lc 2: 41-42)

Đặc biệt hơn, Tân Ước lại nói rõ về việc này, theo kiểu mô tả rất Luca như:

“Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành,
nên sau một ngày đường,
mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.
Không thấy con đâu,
hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.”
(Lc 2: 44-45)

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Nói và kể về các cuộc “lữ-hành” mà người đời nay gọi là “hành hương”, thường là tìm về Giêrusalem hoặc nơi nào đó còn giữ được tinh-thần của Tân Ước, rất thân thương. Hành hương thân thương, không là “lữ hành” về quê hương yêu dấu của Đức Giêsu mà thôi; nhưng còn là tìm về quê hương an bình của mọi người, nơi tâm hồn.
Ở “quê hương” thân thương đó, vẫn luôn có tình thân rất mến mộ mà người đời nay vẫn trân trọng. Tình thân thương mến mộ cuộc lữ hành mà bần đạo nay gặp được sau chuyến tham quan/thăm thú xứ miền xa xôi rất đất Tạng, là xứ miền chất ngất tình thân thương, mến mộ của người Tạng ở phía Tây, lâu nay chuyên chở tình-tự “hành hương Kora” thương mến rất khó quên.
Nói thế rồi, nay đề nghị bạn, đề nghị tôi, ta lại sẽ hiên ngang cất tiếng ca vang ý-lời mà nghệ sĩ họ Phạm từng trân trọng đặt lời Việt cho bản hát rất Sông Xanh, rằng:

“Một giòng xanh xanh,
một giòng tràn mông mênh,
Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”
(Lời Việt: Phạm Duy - bđd)

            Hát thế rồi, nay lại mời người đọc cứ thế mà tưởng nhớ đến những ‘giòng chảy’ xuất từ ‘giòng sông’ rất xanh, ngang qua ‘giòng đời’ cũng rất hanh thông và cuối cùng sẽ về với ‘giòng người’ hành hương/hương hành một hội ngộ, rất thân tình. Ở đời.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Cũng từng thân tình hành hương
            nguyện sẽ mãi mãi lữ hành
            qua giòng chảy thân tình,
cũng rất xanh.



Saturday, 24 January 2015

“Lắng trầm tiếng chiều ngân, nhạc dặt dìu ái ân”,



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 thường niên năm B 01/02/2015

“Lắng trầm tiếng chiều ngân,
nhạc dặt dìu ái ân”,
“Người ôi ! Nhớ mãi cung đàn
Năm tháng phai tàn, duyên kiếp vẫn còn lỡ làng.”
(Nhạc: Enrico Toselli: Serenata – Lời: Phạm Duy: Nhạc Chiều)

                (Mt 19: 21-23)
            “Năm tháng (có) phai tàn”, “duyên kiếp (có) lỡ làng”, thì bạn và tôi, ta “nhớ mãi cung đàn”, nhớ “tiếng chiều ngân”, “dặt dìu ái ân”, quên sầu buồn. Thế đó, là ý/tình của các người em còn trẻ ở Sydney vẫn chủ trương nhớ đến “bạn nghèo” mình, ở nhiều nơi.
            Bần đạo đây, mỗi lần nhắc đến nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” ở Sydney, đều thấy người mình rộn lên một nỗi nhớ, rất khôn nguôi. Nhớ nhiều, không chỉ mỗi bản “Nhạc chiều” mà Phạm Duy đặt lời Việt cho bản “Serenata” nổi tiếng, mà nhớ cả những bạn trẻ thiện-nguyện trong tinh-thần tận-hiến những 6 năm qua, để có chút gì còn nhớ còn thương các bạn thiếu may-mắn ở khắp nơi trên thế giới.
            Nhớ hơn cả, là lần họp mặt mừng kỷ niệm 6 năm ngày thành-lập “quán xá” hôm 30/11/2014 vừa qua. Nhất là các bạn từ già đến trẻ đều đổ về vùng Fairfield East, Sydney để ủng-hộ tặng-tiền cho những người ở nhiều nơi đang có nhu-cầu nhiều hơn ai hết.  
            Nhớ thế rồi, bần đạo cứ ê-a rồi lại ngâm nga ba lời ca rất tình-tiết như sau:

“Chiều êm êm đưa duyên về người.
Đàn triền miên nắn tiếng sầu đời.
Người hỡi! Đến bên tôi nghe lời xao xuyến,
Như chuyện thần tiên.
Niềm mơ xưa là đó, cho ta nâng niu lời ca,
Chiều mơ không gian hờ hững cõi Thiên Đàng.
Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ.
Xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà.
Nhạc chiều của chúng ta là câu ân ái muôn đời.
Bóng đã xế rồi hãy nép trong lòng cõi đời.
Tình Yêu mãi mãi.”
(Phạm Duy – bđd)

Nói về nhóm “Nhớ Bạn Nghèo”, có thể nói mãi mà không hết. Nói những 6 năm trời dài đằng đẵng, tuy mệt mỏi nhưng luôn thấy nụ cười nở trên môi, hết mọi người. Có những bạn, sau bao năm xa cách nay gặp lại đã thấy vui. Vui cười suốt, nhờ có nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” làm chất xúc-tác để mọi người ở Sydney đến với nhau vui cưới rộn rã, và nhớ đến những người ở xa không có cơ-hội được cười, vì cuộc đời nhiều nghiệt ngã, truân chuyên.
“Nhớ Bạn Nghèo”, không chỉ nhớ bằng môi miệng, nhưng thực-tiễn bằng quà cáp/hiện vật, hiện kim, gói ghém nhiều công sức, thời gian và tiền bạc để “bạn nghèo” được vui và được cười.
“Nhớ Bạn nghèo”, là nhớ Lời Vàng/Ngọc mà Bậc thày Hiển thánh, từ nhiều năm trước, vẫn dặn rằng:

"Nếu anh muốn nên hoàn thiện,
thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."
Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi,
vì anh có nhiều của cải.”
(Mt 19: 21-23) 

“Nguời thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” nhưng anh lại không đem bán đi mà cho người nghèi khó, thế mới chết. Chết một điều, là: không chỉ mỗi sự-kiện Anh chẳng nhớ đến ai, chí ít là “người nghèo” ở phố/chợ. Mà, có nhớ đến người này/khác còn nghèo, nhưng Anh lại cũng chẳng cho họ một thứ gì. Tvgfffturc xzhế nên, anh mới buồn. Bởi thế nên, nhà nhạc sĩ vẫn cứ hỏi:

“Đã quên hết sầu chưa?
Lời này là tiếng xưa, quỳ dâng dưới nắng phai mờ
Bên gối ơ thờ ôi tiếng tơ tình mong chờ.”
(Phạm Duy – bđd)

Thật ra, tuy giàu có, nhưng anh thanh niên nọ lại chẳng cho ai thứ gì, vậy nên buồn.
Thật ra, nỗi-buồn-không-tên ở nhiều người, là do nhiều thứ và nhiều sự. Một trong những thứ và những sự, khiến con người buồn là ở chỗ: người ấy tuy sống vinh thân/phì gia là thế, nhưng vẫn chưa nhận ra lý lẽ của cuộc sống. Và, người đời gọi sự thể ấy bằng nhiều tên, như thể: giàu sang/phú quý, danh vọng/quyền thế, tài sắc/lương duyên, vv..
Với nhà Đạo, thì khác. Nhà Đạo, gọi đó là niềm tin-yêu rất mực, không thể thiếu/vắng trong sinh-hoạt đời người. Vừa qua, có người trẻ nọ ở Sydney cũng đà khám-phá ra một trong các chân lý để đời, cho mọi người như sau:

“Ngày nay, phải can đảm lắm mới dám cởi mở tỏ bày cho người khác biết về niềm tin mình đeo đuổi, vì cứ sợ người khác chê bai, dỡn cợt.

Những điều nói trên có thể áp-dụng nơi tôi, một cách rất chính xác. Nhiều lúc, có người cứ đến với tôi hỏi những câu thật vớ vẩn như: Cuối tuần này cô sẽ đi đâu? Có sinh hoạt gì vui nhộn không? Mỗi lần nghe hỏi như thế, tôi thường trả lời rất bang quơ rằng: thì, cũng đi đây đó xem cuốn phim mới được giải, rồi đi shop, hoặc đọc đôi ba cuốn sách rồi đi nhà thờ vào buổi chiều tối, chỉ thế thôi…”

Nghe tôi nói về chuyện đi nhà thờ/nhà thánh, bọn họ kêu trời rất thất thanh xem như chuyện động trời ít khi thấy. Tôi chỉ cười nhẹ và chẳng bàn cãi hoặc thêm thắt điều gì, dù sự việc này làm đau lòng cả một thế-hệ khi xưa vẫn tự hào mình là người chuyên chăm đi đạo và chuyện ấy vẫn được âm-thầm chấp-nhận. Nay thì, ra như ai cũng có khuynh hướng cứ để mọi người tha hồ mà phê-phán, cãi tranh.

Thành ra, ngày nay nếu có ai vừa trẻ tuổi mà lại siêng năng đạo-đức thường xuyên đi nhà thờ, chứ không giao du với giới vô-thần, thì chuyện đó mới khó. Nói thế là bởi, ngày nay người ngoài Đạo thường cảm thấy khiếp-sợ khi nghĩ đến cảnh-tượng cứ bị những người có đạo xấn xổ đến chuyện vãn nói năng hoặc dụ dỗ hồi hướng trở lại Đạo. Trong khi đó, đa phần người Công giáo chỉ muốn nói về Đạo mình mà không sợ bị phản-ứng mạnh.

Ngày nay, việc cho người khác biết mình có Đạo, cũng đã trở thành một thứ như “năm dấu thánh” ịn trên người mình, bởi mọi người chỉ muốn giữ niềm tin cho chính mình, thì người Công giáo lại cứ hay co cụm vào với nhau như tổ ong có đầu óc thiếu thông thoáng, lại có hơi quá khích, cuồng tín nữa…” (xem Neve Mahoney, Confessions of a practising Catholic, trên tờ Australian Catholics số Spring 2014, tr. 7-8)

Người viết ở trên nói thì nói thế, chứ: Người đi Đạo thời hôm nay mỗi người mỗi ý, đã không còn như xưa nữa. Không còn như xưa, tức: họ thường nhớ rất nhiều thứ và nhiều sự. Cả, những thứ và những sự được dậy dỗ ở trường lớp hay cuộc đời có những câu chuyên hay ho, ý-nhị, thực-tế áp-dụng cho đời mình và đời người, cũng thường thôi, hệt như truyện kể ở bên dưới:

“Truyện rằng:
Sally vội vã tiến đến cửa phòng cấp cứu khi thấy cánh cửa bên trong mở ra. Sally hỏi vị bác sĩ: "Con trai của tôi thế nào rồi... Thằng bé sẽ ổn chứ?... Tôi có thể nhìn nó ngay bây giờ không!..." Vị bác sĩ trả lời từ tốn:
-Tôi rất lấy làm tiếc, chúng tôi đã làm hết sức mình có thể!"
Sally tự hỏi với lòng mình:
-Tại sao những đứa trẻ có thể chịu được căn bệnh ung thư, Chúa hầu như không ngó ngàng đến chúng sao. Chúa, người ở đâu trong khi con trai con lúc này cần một đặc ân của người!
Vị bác sĩ trả lời bên cạnh Sally:
-Ít phút nữa sẽ có ý tá đưa chị vào thăm cháu bé, trước khi chúng tôi chuyển cháu đi.

Sally muốn nói với người y tá rằng cô muốn ngay lúc này được gặp mặt con trai bé bỏng của cô để nói lời tạm biệt cậu bé, trước khi không còn dịp nào để có thể nhìn thấy cậu bé nữa.

Sally đưa nhanh những ngón tay của mình lên mái tóc còn bối rối.
-Bà đã chuẩn bị mang bao trùm tóc chưa?..." người y tá nói.
Sally nhanh chóng nhận bao trùm tóc dành cho người thăm bệnh lên đầu, vừa trùm tóc xong Sally khẽ nói:
-Jimmy đã từng có ý nghĩ sẽ hiến thân xác của mình cho trường đại học y. Thằng bé bảo rằng như thế sẽ có lúc giúp được cho một ai đó, và đó là điều thằng bé muốn.

Câu trả lời đầu tiên của tôi là không thể, nhưng Jimmy nói với tôi rằng:
-Mẹ à, con muốn mình trở nên có ích ngay cả khi con không còn sống nữa, có thể điều đó sẽ giúp được cho một cậu bé cô bé nào giống như con để bạn ấy có thêm thời gian sống với gia đình của bạn ấy!"

Sally bảo rằng:
-Jimmy của tôi là một cậu bé có trái tim bằng vàng, thằng bé luôn luôn nghĩ đến người khác, luôn muốn giúp đỡ những mọi người bằng một cách nào đó khi thằng bé có thể.

Sally từ từ bước chậm rãi đến phòng bệnh nhi lần cuối sau khi cô đã từng túc trực tại nơi này hơn 6 tháng ròng. Cô ngồi lên chiếc giường bệnh của Jimmy và thu dọn những món đồ chơi của Jimmy cho vào túi. Cô lẳng lặng xách chiếc túi nhỏ cho vào băng ghế của chiếc xe và từ từ lăn bánh. Bệnh viện lùi dần về phía xa như thể cô càng chạy xa bệnh viện chỉ còn như một cái chấm nhỏ nhoi. Sally không hề quay đầu lại nhìn, cô sợ mình lại trở đầu xe và chạy đến Jimmy một lần nữa.

Sally lái xe về nhà một cách khó nhọc và hầu như càng khó hơn khi bước chân vào nhà. Một cảm giác trống rỗng khiến cho Sally buốt tim. Cô mang chiếc túi đựng đồ chơi từ bệnh viện của Jimmy về phòng, và để mọi thứ bày biện đúng như khi Jimmy vẫn còn ở nhà, chiếc xe đồ chơi cứu hỏa được để góc kệ sách. Rồi Sally ngồi xụp xuống bên chiếc giường của Jimmy, cô ôm ghì chiếc gối của Jimmy vào lòng và nước mắt cứ lặng lẽ tuôn rơi.

Sally tỉnh giấc vào khoảng nửa đêm và nằm dài trên giường bỗng một lá thư rơi ra từ chiếc gối. Cô nhặt nó lên và đọc

Mẹ ơi!
Con biết rồi mẹ sẽ rất nhớ con, nhưng mẹ đừng bao giờ nghĩ rằng con sẽ quên mẹ hoặc con không còn yêu mẹ nữa, bởi vì dù con không còn ở cạnh mẹ để nói con yêu mẹ rất nhiều.

Con luôn nghĩ đến mẹ mỗi ngày và con luôn muốn yêu mẹ mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Một ngày nào đó mẹ với con sẽ được gặp lại nhau. Mẹ à, nếu mẹ muốn những đứa trẻ giống con không thấy cô đơn và buồn chán, mẹ hãy cho các bạn ấy phòng của con, cho các bạn ấy những món đồ chơi con đã từng chơi. Hoặc nếu như mẹ mang các món đồ chơi của con cho một bé gái nào đấy, bạn ấy sẽ không thể nào chơi những món đồ chơi của bọn con trai chúng con, lúc ấy mẹ nên mua cho bạn ấy một con búp bê hay món đồ chơi mà bạn ấy thích.

Mẹ đừng buồn khi nghĩ về con mẹ nhé, nơi này thực sự rất tuyệt. Ông và bà sẽ gặp con sớm thôi nếu con đã có mặt ở đây và chạy vòng quanh nhìn ngắm mọi nơi, nhưng hẳn là sẽ không lâu nữa đâu. Các thiên thần rất thân thiện và con rất thích nhìn họ bay lơ lửng trên cao.

Con mãi yêu mẹ
Jimmy của mẹ.
(trích truyện kể do tác giả ST sưu tầm và phổ-biến trên mạng)

Và người kể cũng “chua” thêm đôi lời bàn, vẫn nói rằng: “Khi bạn mất đi một ai đó và bạn nghĩ rằng bạn đã dành cho người đó nhiều tình cảm hơn người đó dành cho bạn, thì khi họ mất đi, họ sẽ là người bị mất mát nhiều nhất.
Nhân sự kiện, có nhóm bạn trẻ người Sydney vẫn chủ trương “Nhớ Bạn Nghèo” trong 6 năm qua, bần đạo đã nhiều lần tự nhủ về sự thể được kể ở Tin Mừng thánh Mát-thêu trong đó có ghi lời Chúa: “Hãy bán đi những gì anh có, cho người nghèo”, đầy ý-nghĩa. Những ý và nghĩa, đem đến cho đời nhiều niềm vui, trong nhung nhớ.
Niềm vui “cho đi”, vẫn là niềm vui đích-thực tuy khó thực-hiện. Niềm vui ấy, vẫn còn thấy ở nhiều truyện kể khác, nghe trong đời. Và, một trong các truyện kể khá ý-nhị, được trích như sau:

“Truyện rằng:
Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng
mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.
Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.

Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.

Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.
Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là
màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để
che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và
đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau. Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để
chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục là cây cỏ bừng mạch sống, lam là dòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!”
(lại cũng trích từ truyện sưu tầm trên mạng của ST)

Truyện kể thì như thế, tức chỉ để nhắc nhở người đi Đạo hãy nhớ gốc nguồn thân thương của đời mình, rất có tình. Truyện kể, nay cốt để minh-hoạ cho đời người hiện có quá nhiều thứ để nghĩ-suy, toan tính rồi quyết-định. Quyết-định cho riêng mình, chứ chẳng để khuyên lơn thuyết phục được ai, trừ phi người đó người kia dung các biện pháp thực tế khác, để đạt hiệu quả. 
Thế đó, còn là câu chuyện về nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” ở Sydney vẫn từng làm. Nhớ Bạn Nghèo đây, có tôn chỉ là nhớ đến những bạn còn nghèo ở khắp nơi, bằng động-tác thiết-thực. Nhớ Bạn nghèo đây, còn là và phải là lập trường sống, là nhân-sinh quan và lý tưởng của mọi người trong Đạo, mới đúng.
Nhớ Bạn nghèo, là nhớ về lời nhắn nhủ của Đức Giêsu ở Tin Mừng khi Ngài vẫn cứ bảo: Mỗi khi các ngươi làm điều tốt lành cho người nghèo khó, là làm cho ta.”
Nhớ Bạn Nghèo, không chỉ là nhớ đến các đấng bậc ở nhà thờ từng giảng rao nói nhiều về tinh thần nghèo nhưng thực tế, vẫn chưa thấy rõ được như thế. Nhớ Bạn Nghèo, là có tương-quan đích-thực với những người còn thua kém mình về nhiều thứ. Nhớ cả đến những người thấp cổ bé họng, nhưng trong lòng không gian dối, uý-kỵ hoặc có đấu tranh.
Nhớ Bạn Nghèo, chính ra là cuộc sống có chất lượng, không xa hoa, phung phí, mua sắm thừa mứa cho mình cho riêng một người nào đó, chưa đến nỗi tệ hơn người nghèo ở phố chợ.
Và, nhớ bạn nghèo là còn biết trích ra vài phần trăm nào đó từ thu-nhập/lợi tức hằng năm/hàng tuần của chính mình mà đem cho những người có nhu cách cấp thiết hơn mình. Tắt một lời, nhớ đến bạn nghèo hơn mình là nhớ và thương những người xa lạ chẳng quen biết, nhưng vẫn nhận là “bạn” là người thân của mình ở đoâu đó, đang chờ đón một cái búng tay của mình, mà thôi.
Cuối cùng thì, Nhớ Bạn Nghèo thực chất là nhớ đến lời lẽ ở Tin Mừng thánh Mát-thêu vẫn vang vọng bên tai mình, những câu như:

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện,
thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời.”
(Mt 19: 2)

Nhớ thế rồi, nay ta cứ hung dũng hiên ngang, hát lời ca của nghệ sĩ già khi xưa từng viết:

“Niềm mơ xưa là đó, cho ta nâng niu lời ca,
Chiều mơ không gian hờ hững cõi Thiên Đàng.
Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ.
Xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà.
Nhạc chiều của chúng ta là câu ân ái muôn đời.
Bóng đã xế rồi hãy nép trong lòng cõi đời.
Tình Yêu mãi mãi.”
(Phạm Duy – bđd)

Nghệ sĩ già ngoài đạo còn hát thế được huống hồ là bạn là tôi, đang phấn khởi sống đời người trẻ đầy phấn chấn, rất yêu đời. Thế đó là những ý/lời của chuyện phiếm lai rai, dài dài một ngày vui, hôm nay và mai sau, rất dài đời.
Thế đó, là lời nhắn gửi đến bạn đến tôi, những người ở đây đó vẫn còn nhớ đến các “bạn nghèo” ở đó đây, nơi này. Mãi mãi.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều khi cũng quên bẵng
Các bạn còn nghèo
Đang chờ mình.