Saturday, 18 January 2014

“Yêu em một khối tình quê,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa thường niên Năm A 26-01-2013

Yêu em một khối tình quê,
“Yêu em từng bước tình si.
Đêm đêm mộng thấy đường đi đường về.”
(Trầm Tử Thiêng – Đêm Nhớ Về Sài Gòn)

(Lc 1: 16)
                       
“Nhớ về Sài Gòn” nhiều đêm như thế sao? Vâng. Nỗi nhớ ấy, bần đạo đây cũng cảm nghiệm được vào những ngày lưu lạc ở chốn xa xôi rất quê người. Từ chốn miền xa xôi lạnh lẽo xứ Nga Sô ấy, nỗi nhớ quê nhà của bần đạo càng thắm thiết như lời ca người nghệ sĩ nay diễn tả:

“Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi.
Những con đường thèm đôi chân vui,
đã bao lâu chờ đợi.
Đường im nghe quá khứ trong sầu,
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau.
Tình lẻ loi canh thâu.”
(Trầm Tử Thiêng – bđd)

Tuy nhớ về quê hương, nhưng bần đạo đây chẳng thấy mình là “lẻ loi”, “canh thâu” khi lan man, tàn tàn trên phố phường nổi tiếng, từng chiến thắng hai đoàn quân hùng hổ ở hai cuộc chiến thế giới, rất năm nào. Chẳng thế mà, hôm nay, bần đạo cũng có tâm tư lẫn tâm tình đại loại với người viết nhạc qua lời thơ như sau:    

“Đêm nhớ về Sài Gòn.
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa.
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa.
Ai sầu trong quán úa,
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song.
Mắt người tình một trời mênh mông.
Gợi bao nhiêu cho cùng.. ”
(Trầm Tử Thiêng – bđd)

Lang thang chốn quê người heo hắt lạnh lùng, bần đạo lại cũng thấy cuộc sống của người và của mình tương tự như câu hát tiếp:

            Ta như cậu bé mồ côi.
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn
Để đêm đêm nhớ về Sài Gòn.
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Đã gặp người một trời yêu thương
cho lòng thêm chút ấm.
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau.
Tình chia trong đêm sầu ..”
(Trầm Tử Thiêng- bđd)

            Là nghệ sĩ thi ca/âm nhạc, khi đã nhớ Saìgòn là nhớ về tình huống có những đêm “thấy ngày tháng lẻ loi”, lại vẫn muốn “trở về quê hương”, để gặp “một trời yêu thương”, “cho lòng thêm chút ấm”. Ấm áp rồi, nghệ sĩ mình lại sẽ cùng mọi người đi vào giòng đời để gặp bạn bè/người thân đang ưu tư/trăn trở về những nhu cầu cũng rất cần cho mình, cho gia đình mình. Một trong các nhu cầu cấp thiết và thực tế nhất cho mọi người là nhu cầu đào tạo kiến thức cũng như nghề nghiệp, chứ không chỉ là  bằng cấp/khoa bảng như một số “đại gia” ở đây đó từng bày tỏ:

“Rõ ràng là, ngày càng có nhiều bậc cha mẹ ở Trung Hoa đã không đồng ý với vị sáng lập công ty mạng quốc tế “Alibaba” và các vị này lại chọn cung cách hy sinh từ ba đến bốn năm thu nhập của gia đình để đầu tư cho con cái, bằng cách gửi đứa con duy nhất trong gia đình du học nước ngoài. Có vị từng tự hỏi: thật ra có đáng bỏ tiền đầu tư như thế không?

10 năm qua, số sinh viên Trung Quốc xuất-dương du-học ngoại quốc gia tăng đến gấp ba và còn gia tăng mãi không dứt. Sự việc này, đã và đang trở thành gánh nặng khó giải quyết cho các gia đình trung-lưu có mức thu-nhập thâm thấp. Theo kết quả khảo sát do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc mới cho biết, thì: tính đến năm 2009, số sinh viên Trung Quốc du-học ngoại quốc chỉ bằng 2% số sinh-viên học trong nước, thôi. Cho đến cuối năm 2010, con số này tăng lên tới 34%, kể cũng lạ. Với đại đa số gia đình có con du-học ngoại-quốc, thì tiền học-phí là vấn đề không đáng để bậc mẹ cha quan ngại. Nhưng, với gia-đình trung-lưu có thu-nhập thấp và gia đình cần cù lao động, thì vấn đề ở chỗ: họ chỉ có độc nhất mỗi đứa con để trông cậy vào tuổi già, yếu bệnh ...

Ngày nay, vấn đề thiết thực đặt ra cho các gia đình có con đi du-học ngoại-quốc vừa nảy-sinh là: các đại học nước ngoài vẫn dựa vào học phí do sinh-viên Trung-quốc đóng cốt bổ-sung cho lợi-tức của họ. Thế nhưng, thật ra có bõ để bỏ ra từ 165 ngàn đô tới 330 ngàn đô cho việc chuẩn bị và hoàn-tất văn-bằng cử-nhân ở nước ngoài, để rồi khi trở về với thị-trường mong manh quốc-nội trong đó có đến 7 triệu sinh-viên đã tốt-nghiệp từ lâu nhưng vẫn không kiếm được công ăn việc làm, cho đáng.

Theo một số trung-tâm tuyển-dụng Trung Quốc, thì: các sinh-viên du-học ngoại-quốc mà người Trung Hoa gọi họ bằng tiếng lóng là “Rùa Biển” -bởi họ là những người rất “chân trong chân ngoài”- tức một chân để trên bờ, chân kia cứ rờ rờ dưới nước thực tế vì đồng lương không trổi-bật cho lắm, chí ít là khi họ khởi sự làm việc ở trong nước.

Theo Jennier Feng, chuyên-gia nhân-lực thuộc công ty “51 cổ phần” rất nổi tiếng ở Trung Quốc, thì hiện nay tiền lương ban đầu giữa các cô/cậu “cử” học tại đại-học ngoại quốc hay trong nước, vẫn không chênh nhau là bao nhiêu. Đã xa rồi, thời vàng son dành cho sinh-viên tốt-nghiệp đại-học nước ngoài được bảo đảm là có công ăn việc làm ở mức cao nhất, nữa rồi.

Cũng theo Jennifer Feng, thì: hiện đang có sự kiện tỷ-lệ sinh-viên đi du-học nước ngoài có khả-năng ở mức trung bình hoặc dưới trung-bình bị đánh trượt ở các kỳ thi tuyển vào đại-học trong nước. Theo cô, sinh-viên du-học ngoại quốc có thể không còn trổi-trang vào bậc nhất nữa. Cô Feng còn nói thêm: “hiện có đến 80% và/hoặc 90% đại học nước ngoài trong đó có sinh-viên Trung-Quốc theo học vào lúc này, thì hầu hết người trong nước chưa từng nghe biết. Cả đến việc học Anh-ngữ ở nước ngoài cũng không còn là vấn-đề then-chốt nữa! Các nhà tuyển-mộ công-nhân cho biết: có thể họ cũng đã đạt yêu cầu sử-dụng nhân-viên nói được tiếng Anh, ngay cả đối với các sinh-viên tốt-nghiệp đại học trong nước, cũng được...

Trong khi đó, theo ý-kiến của Xia Yinqui, chức-sắc phục-vụ chính-quyền Trung Quốc qua trọng-trách lôi-cuốn sinh-viên du-học có chỗ tốt trong chính quyền, thì: với sinh viên “chân trong chân ngoài” nói ở trên, vấn-đề thiết-thực đặt ra là: chuyện quan trọng nay không chỉ là có được công ăn việc làm và lương tiền thôi, mà là sống ở nước ngoài thì toàn thể quốc-gia mình tá túc lại chính là đại học của mình rồi. Và, vấn đề còn lại là chọn lựa sao cho đích-đáng với mình, mà thôi (x. Patti Waldmeir, Foreign Degrees Lose Mark of Distinction in China, St Peterburg Post 24/12/2013 tr.5)

Vâng, đúng thế. Ở đâu cũng vậy. Vấn đề quan trọng cho mọi người và mọi nơi sẽ là và vẫn là: chọn lựa. Chọn giáo dục, chọn “nghề ngỗng”. Cũng vậy, đối với dân con đi Đạo thì: chọn niềm tin theo Chúa hay không, thôi. Và, khi đã chọn rồi, ai ai cũng đều chăm nom/vun xới chọn lựa của mình, cho thật tốt.
            Hôm nay ngồi ghi lại những giòng phiếm này, bần đạo bầy tôi đây lại nhớ đến khẳng-định của cụ hướng-dẫn-viên du-lịch người Ba Tư ở Tê-hê-ran nhắc lại mấy lần về quan-niệm của bậc thày dạy của ông, một giáo-sư đại-học người Mỹ từng nói:

Lịch sử các nước thường vẫn giống nhau rất nhiều thứ. Ban đầu, cũng có chế độ quan-liêu rất bạo chúa, rồi đến cách mạng, đảo chính hay chỉnh lý cứ thay nhau liên hồi và người mới lên lại giết chết, phá hủy công-trình của thời-đại trước, rồi cũng lại xây dựng lâu đài, tường lũy mới cho triều-đại của mình... lịch sử cứ thế lập đi lập lại mãi giống như nhau; người đi sau cũng lại dẫm phải vết chân của người thời trước. Lý do là vì: hầu hết các người làm cách-mạng hoặc đảo-chính lại chẳng bao giờ học lịch-sử của đất nước mình cả, và nếu có học đi nữa cũng chẳng biết học những gì nên mới ra nông nỗi...” Vị hướng-dẫn-viên này còn thêm là: chuyện thay-đổi thể-chế hoặc chế-độ này khác, chỉ là thay-đổi chủ-nhân-ông của giới cầm quyền hoặc cầm tiền thôi!...
            Nghe chuyện, bần đạo đây thấy có điểm nghe hơi quen quen với người mình; nên, cứ ngẫm chuyện người lại nghĩ đến ta. Cứ nghe nhiều, là sẽ học được nhiều việc/nhiều chuyện có lợi cho chính mình. Hôm nay, sau nhiều ngày ngao-du rong-ruổi ở xứ người rất Nga-sô và Ba-Tư, bần đạo ngồi nghĩ thấy họ cũng có lý. Và, nhìn về thánh Hội của mình, lại cũng nhớ quan-niệm rất “hay hay” của bậc thày dạy từng bảo hôm nào, rằng:

Nhìn và học cung-cách nói năng-này với cảnh-tình Giáo hội ngày nay, ta thấy gì? Vài thập niên nữa, Giáo hội mình đi về đâu? Phải chăng sẽ có một thời qua đó rồi cũng đổi-thay trên thế giới? Và cả Giáo-hội mình nữa ư? Vâng. Cũng có thể, sẽ có thời kỳ bất ổn về cơ-cấu xảy đến với thế giới bên ngoài và cả trong Giáo hội mình.
Giáo hội ta hy vọng, lại sẽ không rơi vào thời cũ-xưa ở trong đó có thành-tựu này khác cũng rất nhiều. Nhưng, cũng có các giai đoạn gồm những cãi tranh, giành giựt uy-thế với nhau. Cả đến xã hội phóng-khoáng hay phóng-túng thời hiện-tại, lại cũng tìm cách sống mà không cần biểu tỏ ra bên ngoài từng qui vào Giáo hội. Lâu nay, thế giới ngoại-tại vẫn có khuynh-hướng/thái-độ chống-đối Giáo-hội. Tất cả những lối/những kiểu thẳng-thừng ấy sẽ đi vào dĩ vãng.
Bởi lẽ, Giáo hội không là cơ-cấu chống lại xã hội. Giáo hội không ở trên lịch-sử của người đời, cũng không miễn-nhiễm khỏi giòng sử thế-giới. Giáo hội vẫn sống chung sống cùng rất cởi-mở và đối-thoại với thế giới bên ngoài. Giáo hội sẽ chỉ sống sót, nếu biết đối thoại với thế giới ở ngoài mình. Bởi, Giáo hội ban cho thế-giới cung-cách công-khai diễn-tả về xác-tín của mình. Giáo-hội còn công-khai cho thấy cuộc sống của người đi Đạo theo cách tập thể, thấy được sự trong sáng, rất công-nhiên.
Cần nói ra đôi điều về đạo-đức/chức-năng của hai khối. Cần nói về ý-nghĩa và giao-ước về xác-tín với cộng đồng. Về niềm tin-yêu, đoàn kết. Cần nói thẳng/nói thật về kinh-nghiệm tư-riêng trong giòng sử rất tập thể. Tất cả nên đề ra không gian “ban tặng” hầu tạo giao-ước sống cùng và sống với nhau, trong hoà-hoãn.
Vấn đề là: làm sao nói lên điều ấy, cách huỵch toẹt? Nói thẳng và nói thật theo kiểu “Parrhesia” được bao nhiêu và bao lâu? Nói, một cách công khai khôn khéo ư? Mỗi thứ mỗi kiểu nói như thế kéo dài được bao lâu? Và, nói được nhiều điều hầu đạt sự hài-hoà, đoàn kết và vui sống, đó mới là mục tiêu đặt ra trước mắt cho xã hội ngoài đời và Giáo hội trong Đạo. Đó chính là vấn đề đặt ra cho ta, hôm nay.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San, Chúa Nhật thứ 25 mừa thường niên năm C, 25-9-2013)
Xem thế thì, từ quyết-tâm học-hỏi lịch-sử các nước có đổi thay, học cả thực-tại sự việc du học nước ngoài, ta lại bàn đến cảnh-tình Hội-thánh biết nói năng và lắng nghe, vẫn là động-thái thấy “quen quen” khi bạn và tôi, ta phiếm luận và phiếm “lọan” dài dài đến hết ý. Tuy nhiên, bàn về cảnh-tình Hội-thánh đã chứng-kiến bao nhiêu là diễn-biến lịch sử Đạo/đời, làm sao lại hết ý được! Chí ít, là ý kiến cùng tư-tưởng và kiến-thức về sử Đạo, lại cũng được bậc thày bàn bạc như sau:

Lịch sử Đạo, khởi sự với thế giới, ngang qua đế-quốc La Mã cũng khá mạnh. Mạnh đến độ, những người sống ở trong đó đều tham-gia góp phần vào nghi-thức thánh-thiêng của chính họ. Ai không theo qui-luật do họ định, đều bị xử phạt đến độ phải tử vì đạo. Và từ đó, niềm tin đi Đạo lại nhanh chóng lan tràn vào với đế quốc cả ở trời Tây lẫn phương Đông, khắp chốn.
Được như thế, một phần là nhờ vào phương-tiện cầu đường do đế-quốc thiết-lập. Sau thời bách hại, dân con Đạo Chúa cũng nhờ có Constantine lập nên khung-trời mới, với nhiều thứ, nên việc rao-truyền niềm tin xuyên suốt châu Âu đã đạt nhịp điệu đáng kể. Chính vì thế, chức-sắc đi Đạo lại rơi vào vết chân của giới chức trong Đế quốc, tức: cũng thi-hành quyền-lực hệt như họ. Và từ đó, việc rao truyền Đạo Chúa với thế giới bên ngoài, đã xuất hiện tự bên trong.
Vào thời đầu, dân con/quần thần ở đế-quốc tiếp tục hành-đạo theo kiểu cũ, dù ít người, vẫn là thứ tôn-giáo không niềm tin và cũng chẳng có tầm nhìn hoặc thị kiến linh-đạo gì hết. Tôn-giáo của đế-quốc cũng nhanh chóng mai một dần. Và, đám “rợ” các nơi mới có dịp xâm-nhâp toàn cõi châu này. Dù như thế, Hội thánh vẫn đủ sức tồn tại và trở thành chiếc “cầu nối” quá khứ với tương lai. Hội thánh, vẫn giúp-đỡ dân con mọi người tạo khối đoàn-kết để sau đó, trở thành một Âu châu đầy quyền-uy rất thế-lực. Và, Hội thánh cứ thế tồn tại cả ngàn năm, khả dĩ bảo-tồn được văn-hoá của quá-khứ và trao cho chúng-dân những điều tốt đẹp nhất trong đời.
Tuy nhiên, Hội thánh cũng đã suy sụp, để sau này, phải nhường đất cho một Âu Châu đang ở vào vị-thế phát-triển mạnh-mẽ. Ngay từ thế kỷ 16, chủ-thuyết “Thệ Phản” đã nhanh chóng chiếm-lĩnh nhiều thị-trấn ở châu này. Trong khi đó, thay vì đối thoại, Công-đồng Triđentinô lại chọn thái-độ kình-chống với họ. Nên, mới xảy ra “cuộc chiến” rất tôn-giáo. Và từ đó, kéo theo một khủng hoảng đến khiếp-hãi cho Kitô-giáo cả Thệ Phản cũng như Công Giáo. Và, các nhà trí-thức lại cũng xác tín rằng: tôn-giáo là chất xúc-tác tạo chiến-tranh đến độ không sao tái-tạo được nền hoà bình công chính. Và sự việc cứ xa rời cuộc sống của chúng-dân, để rồi lấn dần địa-hạt cá-thể, rất riêng lẻ.
Đã đến lúc toàn Châu Âu nay trên đà đi xuống. Sau đó, lại xuất-hiện thời-đại tân-kỳ bằng những phát minh mới, giấc mơ mới/cách mạng mới. Mọi sự nhất nhất đều nhân danh tự do và giàu có cho mọi người. Cũng từ đó, lại thấy xuất-hiện một số quốc gia “hiện đại” khiến Hội-thánh đâm phẫn-uất, bất-ưng chối bỏ mọi sự từ thế-giới với thế-gian, khiến đem lại một kết cuộc thảm hại cho cả Hội-thánh lẫn thế-trần. Ngay khi đó, trần-thế bên ngoài đã tạo được kiến thức mới, kỹ thuật mới và cả lối sống cũng rất mới...” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San, Chúa Nhật thứ 14 mùa thường niên năm C, ngày 07-7-2013)
            Xem thế thì, chuyện gì cũng vậy, cũng cần điều nghiên/học hỏi  rất xuyên suốt.  Học từ bậc trên xuống kẻ dưới. Học cả trong nước lẫn nước ngoài. Không nề hà, ngần ngại hoặc trễ nải. Nhưng, cứ học mãi, cả lịch sử, thần học lẫn văn-minh văn-hoá mọi dân-tộc. Quả là, giáo dục rất quan trọng và cần thiết để tiếp-thu những khám-phá công trình, lịch sử của bậc đàn anh đi trước. Văn minh ta có được ngày nay, là nhờ thừa hưởng/tích lũy những kinh nghiệm hoặc thành-tựu từ thời xưa. Văn minh cổ-đại lẫn tân thời, cũng tương-tự truyện kể ở bên dưới có đầu đề là “cạm bẫy”, nay dùng làm truyện minh họa, tuy hơi lạ:

Người Eskimo đã săn chó sói như thế nào trong vùng băng giá và lạnh cóng của Bắc Cực?” là một câu hỏi đã làm nhiều người dày công suy nghĩ để tìm câu trả lời.
Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật bén đem nhúng vào máu động vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại. Họ làm như vậy nhiều lần để càng lúc lớp băng càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng bằng máu bên ngoài hoàn toàn che dấu lưỡi dao bên trong. Tối đến họ găm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi máu của thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến. Chúng bắt đầu liếm những lớp băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn với tất cả những sự thèm thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú rừng nên càng liếm hăng say hơn. Càng chảy máu thì nó càng khát, và càng khát thì nó lại càng liếm … Sáng hôm sau, những ngưởi Eskimo chỉ việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi dao đó.”
Và lời bàn của người kể cũng vẫn là: Cái bên ngoài cạm bẫy bao giờ cũng hấp dẫn và quyến rũ vẫn rất thật. (trích truyện kể về “Cạm bẫy” truyền cho nhau, trên mạng.)

Truyện kể ở trên, thật ra cũng chẳng minh-họa được là bao về những điều bạn và tôi, ta bàn ở luận. Truyện để kể, chỉ muốn bảo, rằng: trong sống Đạo ở đời, người người đều khôn-ngoan/sẵn sàng học hỏi kinh nghiệm của bậc thày/đàn anh đi trước... dù không khoa bảng, vẫn cứ để lại cho ta nhiều kinh nghiệm để học hỏi.
Thế nên, hôm nay và mai ngày,rồi ra bạn và tôi, ta cứ quyết chí đi nhiều nơi, học hỏi những chuyện đại loại như thế, nhiều hơn nữa. Bởi, chuyện nào/kinh-nghiệm nào thì cũng bổ cả, như câu nói nghe quen quen: “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc”.
Tự nhủ như thế rồi, nay bần đạo bầy tôi đây xin mời bạn bè khắp nơi, ta cùng người nghệ sĩ trên hát thêm câu ca “để đời”, rằng:

Thấy mình vừa trở lại quê hương
Đã gặp người một trời yêu thương
cho lòng thêm chút ấm.
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau.
Tình chia trong đêm sầu ..”
(Trầm Tử Thiêng- bđd)
       
            Hát thế rồi, ta lại cũng suy thêm về Lời Chúa những nhắc nhở, mà rằng:

“Ai nghe anh em là nghe Thầy;
và ai khước từ anh em là khước từ Thầy;
mà ai khước từ Thầy
là khước từ Đấng đã sai Thầy."
(Lc 10:16)                             

Và hôm nay đây, Lời Chúa sẽ đọng lại trong ta, và với mọi người để rồi sẽ quyết-tâm sống đích-thực cuộc sống rất vững mạnh, hơn bao giờ hết. 

Trần Ngọc Mười Hai
Lại cũng sẽ cùng bầu bạn khắp nơi
Cứ tự nhủ và tự kỷ ám-thị ra như thế
Cho chuỗi ngày còn lại
Cuộc đời mình.

No comments: