Saturday, 9 March 2013
“Êm, chiều dần trôi êm,”
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 5 Mùa Chay Năm C 17-03-2013
“Êm, chiều dần trôi êm,”
“Người ngồi thương nhớ bao
giờ nguôi!
Một ngày xưa cũ, đời còn
đương tơ
là ngày hai đứa chúng ta còn
thơ.”
(Johannes Brahms: Célèbre Valse Lời Việt: Phạm Duy: Mối Tình Xa Xưa)
(Cv 4: 31)
“Mối tình Xa
Xưa”, “Một ngày xưa cũ”, là “Ngày hai đứa chúng ta
còn thơ”, Ối chà! Cũng vẫn lời thơ êm ái giúp người nghệ sĩ đang đi vào với
cõi “đời còn đương tơ”, chốn thương
nhớ, có “chiều dần trôi êm”? Bần đạo
nghe được lời này vào lúc có tin tác giả đã đi vào cõi “đương tơ”, tuổi 92.
Một đời, có những 92 năm dài đầy nhựa
sống, mà bảo là “Mối tình xa xưa” được
sao? Nếu không, sao bạn lại hát thêm lời đầy luyến tiếc, rất như sau:
“Chiều hè êm ru,
Tràn ngập hương mơ.
Cuộc tình hai đứa như là thơ…”
(Célèbre Valse – bđd)
Lại phải thú thực rằng: cuộc đời của ai
đó cũng đều chỉ có thế, là thế. Thôi thì, hôm nay, bần đạo lại mời bạn và mời
tôi, ta cứ thử nghe lời trần tình của bậc trưởng thượng nọ từng sống tháng ngày
có cuộc tình không “còn thơ” nữa, rất như sau:
-Tôi với ông xã cùng tuổi, các cụ nói “cùng tuổi nằm
duỗi mà ăn”. Nhàn hạ và thơ thẩn gì đâu
không biết, chỉ biết mỗi chuyện là vợ chồng tôi vẫn cứ vất vả như trâu cày bên
ruộng.
-Thế, anh chị tuổi gì mà lại
sung sướng thế?
-Tôi tuổi
hợi, ông xã tôi tuổi dần, nhưng “dần” ở đây chỉ là cọp giấy thôi.
-Kìa,
hai tuổi này xung khắc là thế mà sao các cụ hai bên lại chịu cho anh chị cưới
nhau dễ dàng thế?
-Bố
mẹ tôi thì chẳng tin những chuyện như thế, nhưng tía má phía chồng tôi thì khó lòng
mà lay chuyển nổi lòng tin của các cụ.
-Lạ
nhỉ! Người Bắc bọn mình có tiếng là nệ cổ hay bảo thủ vốn không kiêng không cữ
còn nghe được, chứ người Nam
tự do phóng khoáng mà lại kỵ tuổi sao?
-Điều
đó cũng có lý do đấy. Bố mẹ tôi có 5 con gái. Người ta gọi đó là 5 trái bom nổ
chậm, chị có biết không? Vì thế, hễ có người dạm hỏi là Bố mẹ tôi chỉ muốn gả
phắt cho nhẹ nợ. Nhưng, chị em tôi chẳng gì cũng có chút nhan sắc, đâu dễ gì để
bố mẹ mình bán rẻ. Còn tía má bên phía chồng
tôi chỉ độc nhất có một con trai, thấy gia đình tôi toàn con gái mà là gái Bắc kỳ thì bác bỏ dứt khoát. Ông xã tôi năn
nỉ xin cưới không được phải thề độc:” Tía má
không cho cưới, con tự tử“.
-Người Nam như anh ấy dám tự
tử thật chứ chẳng chơi.
-Cọp giấy mà tự tử cái gì. Nhưng
tía má tôi sợ con liều mạng đành chiều con.
-Chị thật tốt phước.
-Đâu có dễ như chị tưởng.
Tía
má tôi coi bói, ông thày phán bảo: “Để hóa giải cái tuổi xung khắc,không được
rước dâu qua cổng, mà phải xé rào cho nó
vào”. Tôi không chịu. Mình về làm dâu chứ có phải đi ăn trộm ăn chực đâu cơ chứ.
-Chị thế mà cao giá đấy chứ
nhỉ. Rồi sao nữa?
-Ông
xã tôi chạy đôn chạy đáo nhờ bà con thuyết phục tía má tôi. Cứ theo lời thuật
của ông xã thì cuối cùng tía má tôi cũng
chịu cho rước dâu qua cổng. Hôm rước dâu, đám cưới xuống xe đi bộ một quãng. Khi chỉ còn cách cổng
chừng mươi bước thì từ đâu một mụ điên nhào tới
la lớn: “A, nó đây rồi, nó cướp chồng tôi”. Tôi hoảng quá, nép mình vào
chồng rồi chồng tôi đẩy tôi vào nhà qua
lối hàng rào mới mở gần cổng, vừa đẩy vừa nói: “Dzô đây lánh con điên, mau lên.” Đến lễ gia tiên, tôi mới hoàn
hồn, hú vía!.
-Có thể đấy là điềm xấu đấy!...
-Tía
má tôi cũng tin như thế vì vùng này có con điên nào đâu mà tránh với né, cơ chứ.
Má tôi tính xuống tóc ăn chay trường để
cầu nguyện cho vợ chồng tôi. Lúc ấy, chồng tôi mới thú thật có mướn một mụ ở chợ Cầu muối giả dạng điên
khùng để hù tôi khỏi vào nhà qua cổng chính. Té ra tôi mắc lừa.
-Thế
mà chị chê anh ấy là cọp giấy được sao? Cọp gì thì cọp, tôi nghĩ chị cũng nên
tận hưởng những giây phút ở bên nhau tưởng chừng như không muốn dứt, thế mới
phải!” (Truyện kể do bạn
bè chuyển về để đọc rồi còn tin)
Tin người phối ngẫu hay bạn đời là cọp
giấy hay cọp thiệt, vẫn không là thứ cọp người sống ở đời thường, mình vẫn nhớ.
Đời người, cũng có nhiều cọp giấy/cọp thiệt vẫn thấy sợ khi chung sống, nhưng
lại cứ tiếc và cứ thương khi không còn ở với nhau nữa. Đó là sự thể rất thực
cũng giống như sự thực rất thể lý, xảy đến với con người, ở mọi thời.
Thời buổi hôm nay, ở nhà Đạo, cũng có
những tình huống khiến thành viên trong đó lại cứ cảm nghiệm những điều mang
tính triết lý/lập luận khó tách rời khỏi thực tế, cũng tương tự như thế. Như
thế, là như thể khung cảnh và tình huống khiến người nghệ sĩ cứ ê a mà ca hát, một
sự thể:
“Yêu người là khôn nguôi…
Sầu tình chan chứa bao giờ vơi
Cuộc
tình xưa cũ… dù thời gian qua,
Mà
lòng mãi mãi vẫn không phai mờ.”
Chiều
hè êm trôi, ngậm ngùi thương ôi!
Cả
một trời sao làm tròn duyên nhau
Người
từ phương nao? Trở về cho hoa không phai mầu…”
(Johannes Brahms – bđd)
Sự
thể ở đời hôm nay, lại có tình huống rất bất chợt khiến người trong cuộc lại cứ
nghĩ về cuộc tình trong Đạo/ngoài đời giống như lời thơ được diễn tả ở câu kết:
“Yêu người là không nguôi,
Trầm
mình trong thú đau thương người ơi!
Cuộc
tình xưa cũ, dù thời gian qua,
Mà
lòng mãi mãi vẫn không phai mờ…!”
(Johannes Brahms – bđd)
Nếu bảo rằng, bạn và tôi, sao cứ ví
von chuyện thời sự trong Đạo, vào đầu niên biểu 2013, trong đó có tình huống
khiến người đi Đạo lại cứ hát: “Mà lòng
mãi mãi vẫn không phai mờ.” Không phai, không mờ “tình xưa cũ” giữa đàn con
trong Đạo đối với Đấng bậc trên cao nay đi vào bóng tối của quên lãng. “Cuộc tình xưa” trong Đạo, còn là tình tự
của những người con vừa bị cú “sốc” khi hay tin Đức Thánh là Cha trong Đạo nay
quyết định lùi vào dĩ vãng, chốn lặng thinh, để nguyện cầu.
Cú “sốc” là thông tin rất lạ nghe
được từ báo/đài hôm ấy, ngày12/2/2013 với lời lẽ như sau:
“Chỉ
một số hồng y lão thành là biết rõ sẽ có chuyện gì đó rất quan trọng, đang xảy
đến. Xảy đến, sự kiện rất lạ, là: Hôm ấy, toà thánh đóng cửa để mừng kỷ niệm
ngày ký hiệp ước Latêranô, nên các hồng y đuợc vời đến gặp gỡ Đức Giáo Hoàng để
ngài thông báo tên tuổi các vị thánh sắp được tấn phong. Hồng y đoàn còn ngạc
nhiên hơn, khi Đức Giáo Hoàng loan báo tin đặc biệt có liên quan đến riêng ngài,
bằng tiếng Latinh. Không phải tất cả mọi hồng y đều có khả năng hiểu hết lời
ngài nói và nắm trọn tầm quan trọng của thời khắc vô tiền khoáng hậu xảy ra ngay
lúc đó.
Hai
ngàn năm lịch sử Hội thánh, chưa từng thấy có Giáo hoàng nào đang tại chức lại thoái
vị, thôi không giữ vai trò dẫn dắt Hội thánh nữa vì lý do sức khoẻ. Quả là, năm
1294 thánh Cêlestin V, một vị ẩn tu trọng tuổi đã lánh khỏi Rôma khi ngài được
bầu làm Giáo hoàng để lẩn tránh trách nhiệm quá nặng nề. Và năm 1415, Đức
Grêgôriô XII đã từ nhiệm chức vụ tương tự trong lúc có hỗn độn trong giáo triều
tranh giành quyền Giáo hoàng. Nhưng, chưa bao giờ lại có vị Giáo hoàng dám từ
nhiệm đang lúc ngài có đủ quyền bính và dư sức để hoàn thành trọng trách của vị
chủ chăn ở trên cao như thế…” (x. Robert A. Gahl, MercatorNet 12/02/2013)
Gọi là cú “sốc” từ nhiệm thật ra
cũng không đúng. Mà, chỉ nên coi đó như một ngỡ ngàng, ít khi thấy, có thế
thôi. Bởi,có ngược giòng lịch sử Đạo Chúa, người người mới thấy nhiều điều từng
xảy ra trong quá khứ, hệt như câu hỏi/đáp được đề cập ở bên dưới. Hỏi, là hỏi
rằng:
“Như
nhiều người, tôi rất đỗi ngạc nhiên về chuyện Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ 16
đột nhiên từ nhiệm vai trò lãnh đạo Hội thánh. Tôi biết có nhiều người vì thương
yêu ngài quá sức, nên đã buồn. Việc này đem đến cho tôi rất nhiều câu hỏi.
Chẳng hạn như: điều này, luật Hội thánh nói thế nào? Khi nạp đơn xin từ nhiệm,
Đức Giáo Hoàng gửi cho ai? Hồng ý đoàn có được phép bầu cho vị nào đó không
phải là Hồng y không?” (Câu
hỏi mà nhiều người muốn biết nên vẫn hỏi)
Nhiều người muốn biết, trong đó phải chăng
có bạn và có tôi? Thật ra thì, bạn hoặc tôi, ta có hỏi thế không, chẳng là
chuyện quan trọng. Quan trọng, là tôi và bạn, ta có bỏ giờ ra mà đọc những lời
đối đáp rất nhanh chóng không, thôi. Và đây là câu giải đáp của đức thày rất
nhà Đạo họ và tên John Flader ở Sydney, vùng trời ngang dọc, rất như sau:
“Đúng
là tất cả mọi người chúng ta đều ngỡ ngàng khi hay tin Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ
16 đột nhiên từ chức. Ngài từng làm biết bao việc tốt lành cho Hội thánh trong
gần 8 năm tròn làm Giáo Hoàng. Và ta vẫn trông đợi ngài làm được nhiều điều hơn
nữa, trong các năm sắp tới.
Thiết
tưởng mọi người cũng không lấy làm lạ gì khi thấy Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã vào
tuổi 86, tức ở tuổi đời với sức khoẻ và nghị lực đã yếu dần. Chính vì tuổi già
sức yếu nên ngài thấy mình không thể cáng đáng được trọng trách trông nom chăn
dắt Hội thánh trên vai với hơn tỷ người đi Đạo luôn canh cánh trông vào sự dẫn
dắt của ngài qua công việc hằng ngày nay quá tải. Thành thử, cũng dễ là Giáo
Hoàng Biển Đức 16 thấy ngài không thể thực thi vai trò được Chúa giao phó cho
tốt hơn, nên ngài chọn giải pháp thoái vị hầu giao lại trọng trách cho vị kế
nhiệm trẻ trung hơn. Nhìn vào thế quyền, ta sẽ thấy không ai ở tuổi cao niên
như ngài mà vẫn nhận làm đầu một tổ chức lớn rộng như Hội thánh Công giáo.
Giáo
luật qui định rằng: Giám mục nào muốn từ nhiệm chức vụ quản cai giáo phận thì
vị ấy phải đệ trình đơn từ chức lên Giáo hoàng khi các vị ở vào tuổi 75. Rõ
ràng là: ở tuổi này, ai cũng ngày càng thấy khó khăn với chức vụ và bổn phận.
Lại nữa, luật Hội thánh còn có dự kiến qui định rằng: vị giám mục nào, do đau
yếu hoặc có lý do “bất khả khác” sẽ trở nên không thích hợp với bổn phận và
chức vụ phải thi hành, vì thế nên sẽ được yêu cầu đệ đơn từ chức (xem Giáo luật
khoản 401 điều 1 & 2, khoản 411 nữa)
Đối
với các linh mục chánh xứ cũng thế, vị nào đến tuổi 75 cũng buộc phải đệ đơn
lên giám mục chủ quản xin từ chức (x. Giáo luật khoản 538 điều #3). Cả hai
trường hợp vừa kể việc các ngài từ chức vì tuổi tác không cần phải có sự chấp
thuận ở trên (xem. Giáo luận khoản 401 & 538 điều #3)
Mặc
dù Đức Giáo Hoàng được bầu ở tại chức suốt đời và không cần đệ đơn từ chức với
ai hết, nên Giáo luật đặc biệt lưu ý đến trường hợp khả thi như sau: “Giả như đã xảy ra trường hợp Đức Giáo chủ
thành La Mã từ nhiệm khỏi chức vụ của ngài, thì luật đòi buộc rằng: việc từ
chức như thế chỉ hiệu lực khi làm việc ấy trong tự do và rõ ràng có bày tỏ đúng
qui cách mà không cần người nào chấp thuận hết.” (x. Giáo luật khoản 332 điều #2)
Câu
cuối của khoản luật ở trên công nhận sự thể là: theo luật thì Đức Giáo Hoàng
không có ai ở trên để ngài có thể đệ trình đơn từ chức và chẳng có ai có tư
cách để chấp thuận hoặc khước từ việc ấy. Trong trường hợp này, Đức Giáo Hoàng
loan báo việc ngài từ chức trong buổi triều yết có mặt phần đông hồng y. Và,
một khi Đức Giáo Hoàng xử sự một cách tự do và công khai tỏ bày ý định ngài
muốn từ chức thì việc ngài từ nhiệm sẽ có hiệu lực ngay vào lúc ngài quyết tâm
như thế.
Dĩ
nhiên, tất cả chúng ta không quen với việc một Đức Giáo Hoàng lại từ nhiệm chức
vụ cao cả như thế và vị chủ quản Hội thánh từng từ nhiệm gần đây nhất là cách
nay đã 600 năm. Có thể là, nay thì Đức Giáo Hoàng khác có thể cũng chọn đường
lối như thế khi các ngài thấy mình không còn khả năng cáng đáng phần vụ theo
đúng chức năng một cách mãn nguyện được nữa.
Còn
hỏi rằng: có thể nào các hồng y lại chọn vị nào đó làm Giáo hoàng nhưng không
phải là hồng y được không? Để trả lời, cho đến nay, việc này chưa từng xảy đến,
nhưng không vì thế mà không thể xảy ra. Bởi lẽ, Giáo luật không đòi buộc vị
được bầu làm Giáo Hoàng tương lai phải là hồng y mới được. Tuy thế, theo truyền
thống rất lâu đời, thì lịch sử cho thấy: Thuợng Hội Đồng Giám Mục họp vào năm
769, đã quyết định là Đức Giáo Hoàng sẽ được bầu trong số các Hồng y có chức
thánh giám mục, linh mục và phó tế của giáo phận La Mã, và các địa phận kế cận.
Ngay thời buổi này, tất cả các Hồng y trên thế giới đều được bổ nhiệm để phục
vụ giáo xứ La Mã nên các ngài có thể thực thi điều kiện này.
Giáo
luật cũng trù liệu khả năng có vị nào đó được chọn làm Giáo Hoàng nhưng chưa
làm giám mục, thì khi đó ngài sẽ được tấn phong giám mục ngay lập tức (xem Giáo luật khoản 332 điều #1). Vì thế nên, có thể có vị hồng y nào đó có
mặt trong cơ mật viện vẫn chưa là giám mục và ngài vẫn có thể được bầu làm Giáo
hoàng như thường.
Thế,
còn việc bầu vị nào đó không có mặt ở cơ mật viện lúc bầu thì sao? Việc này
cũng có thể xảy ra, đặc biệt là khi vị nào đó được biết là không kịp về với cơ-mật-viện
vì lý do đau yếu hay lý do nào bất khả kháng. Thật ra, qui luật để bầu Giáo
Hoàng được Đức Gioan Phaolô đệ II ban hành vào năm 1996 có tiên liệu việc có
thể xảy ra bảo rằng: vị Giáo hoàng vừa được bầu không cư ngụ tại Vatican và
cũng có thể là vị ấy vẫn chưa là giám mục nữa. (xem Universi Dominici Gregis, 90)
Dù
có rơi vào trường hợp nào đi nữa, mọi sự đều tùy thuộc vào Chúa Thánh Thần. Bởi
thế nên, chúng ta hãy liên lỉ nguyện cầu Chúa Thánh Thần soi sáng cho các vị
hồng y cử tri để ta chóng có vị Giáo Hoàng mới, dù ngài có là ai đi nữa, cũng
vẫn là thành quả của việc Chúa Thánh Thần đã tác động lên Hội thánh, và đó là
điều tốt lành cho Hội thánh mình. “ (xem Lm John Flader, The Catholic Weekly, Question timw2 03/3/2013, tr. 10)
Tác động của Chúa Thánh Thần vẫn là điều rất cần và rất tốt. Đó chính là
vấn đề. Vấn đề, là ở chỗ: nếu không là người đi Đạo và tin vào Chúa, hẳn ta
không thể hiểu được thế nào là tác động của Chúa Thánh Thần được. Tựa hồ ở đời,
không là người có tai nghệ thuật hoặc có tâm hồn thi ca, văn học -nói chung là
nghệ sĩ- thì cũng khó mà cảm nghiệm được lời thơ/ý nhạc ở ngay dưới:
“Yêu người là khôn nguôi,
Sầu tình chan chứa bao giờ
vơi.”
(Johannes Brahms – bđd)
Tin vào & cảm nghiệm được sức
mạnh của Chúa Thánh Thần, còn là tin vào những gì đấng thánh hiền từng quả
quyết:
“Họ
cầu nguyện xong,
thì nơi họ họp nhau rung
chuyển;
ai nấy đều được tràn đầy
Thánh Thần
và bắt đầu mạnh dạn nói lời
Thiên Chúa.”
(Cv 4: 31)
“Nói
lời Thiên Chúa”, là nói và rao truyền về Tình Yêu. Các Giám mục thành La Mã
một khi đã có Chúa Thánh Thần trợ lực rồi, thì chắc chắn các ngài cũng sẽ hoàn
thành tốt nhiệm vụ Chúa giao phó, dù quá nặng.
Thành thử, vấn đề là ở đó. Vấn đề,
còn là: làm gì thì làm, các đấng bậc ở trên vẫn cứ phục vụ và cứ làm để đạt mục
tiêu duy nhất như đấng bậc ở Sydney, vừa nhận định:
“Thời
nào cũng thế, ngay thời ngôn sứ trong Cựu Ước cũng có những vị như tiên tri
Giê-rê-mia dám can trường lặn lội khắp nơi –cả ở quê hương mình- chỉ để giảng
rao lòng yêu thương trìu mến Thiên
Chúa muốn có ở trần gian. Bất kể hiểm nguy hay bách hại xuất phát từ dân gian
nơi thôn làng mình từng sống.
Và
hôm nay, thánh Phaolô minh chứng lý do tại sao nhiều vị, bất chấp mọi hiểm
nguy, dám hứng chịu muôn vàn khốn khó, thường thấy có ở nơi dân gian trong trời
đất. Cả vào lúc bị coi là ngu si cuồng nhiệt hoặc có tội với đất trời, các vị
vẫn làm vì lòng thương yêu trìu mến, hết dân gian. “Yêu”, là cụm từ được mọi
người sử dụng rộng rãi, nơi đất trời ngàn năm mây bay này. Ngay đến chuyện vật
chất – nhân gian như: cửa nhà cơ ngơi, vui chơi lễ hội, đua đòi se sua hoặc thi
đua sắm sửa, người người vẫn cứ bảo rằng mình yêu, mình thích. “Yêu”, là ngôn
từ được sử dụng bừa bãi, không còn mang ý nghĩa sâu sắc của lòng thương yêu
trìu mến, nơi tín hữu nhà Đạo.
Thánh
Phaolô dẫn giải tỉ mỉ trong bài đọc hôm nay, để mọi người hiểu rằng: yêu thương
trìu mến, trước nhất không là cảm xúc xuất thần rần rần như tiếng phèng la, kêu
ra rả. Mà, thánh nhân thừa hiểu: lòng yêu thương trìu mến nơi tín hữu Đức Kitô
là chuyện rất thực. Yêu thương đích thực phải là, và luôn là, trạng thái của
tín hữu Đạo Chúa, dám bảo rằng mình rất yêu thương mọi người. Đồng thời, cũng
chứng tỏ rằng mình yêu thương thực sự bằng hành động, chứ không bằng môi miếng, bề ngoài.
Thánh
Gio-an tông đồ cũng ghi rõ trong Tân Ước một quả quyết rất xác thực: “Nếu anh
em bảo mình yêu thương trìu mến Thiên
Chúa, mà lại ghét bỏ người hàng xóm, cận lân, thì chắc chắn anh em chưa thật
lòng”. Quả thật, chúng ta có thể tỏ ra chính thực về lòng thương mến Chúa và
người anh em đồng loại, bất cứ khi nào chúng ta muốn. Nhưng, nếu không chứng
minh được điều mình nói bằng cuộc sống riêng tư, thì có khác nào tiếng chũm
choẹ chập choeng, thanh la phèng phèng.
Không
thể nói chuyện lòng vòng quanh co, khi bàn về lòng yêu thương trìu mến nơi Đạo
Chúa. Lòng thương yêu nơi tín hữu đi Đạo là: ở nơi nào cũng thế, tình yêu đích
thực luôn bao gồm sự hy sinh, rất triệt để. Nhưng vấn đề, là: Làm sao có thể
vừa yêu thương lại vừa hy sinh triệt để như thế được? Và, tại sao phải yêu như
thế? Dễ hiểu thôi, yêu như thế là vì mọi người khác đã từng yêu ta. Mọi người
yêu như tình yêu phải có của người tín hữu Đức Kitô. Tức, những người đã đối xử
tử tế, nhân đạo và kiên nhẫn với ta. Yêu theo kiểu dị kỳ mới lạ, tức tự nguyện
chứ không phải bất đắc dĩ, vì được dạy bảo mà thôi . Tình yêu được dạy bảo là
phải yêu cả những người đã ngã quỵ trong đau thương sầu thảm. Yêu, như tình yêu
của người tín hữu Đức Kitô là yêu thương rất mực. Yêu đến cùng. Yêu không chỉ
một chiều, nhưng còn chỉ bảo, dẫn dắt nhau đi vào tình yêu của cộng đoàn, rất
phổ cập. Đó mới là yêu thương đích thực. Yêu như Đức Kitô yêu Giáo hội. Yêu
loài người.”(xem Lm
Richard Leonard sj, Suy niệm Chúa Nhật thứ Tư mùa thường niên năm C, Bản Tin Giáo xứ Fairfield
Úc 03/02/2013)
Chuyện đời là như thế, có nhớ có thương
và so sánh. So sánh giữa đấng bậc này và cụ Đạo khác. Có khi, vì so sánh nên
chỉ muốn người mình thương mình nhớ lại cũng thuộc gia tộc, giòng họ hoặc chí
ít cùng một dân nước. Về bầu cử Đức Giáo Tông mới, có vị còn hỏi: phải chăng vị
Giáo hoàng tân cử cũng giống như hai vị tiền nhiệm, nghĩa là thuộc giòng giống
sắc tộc khác chứ không phải gốc Ý như xưa? Trả lời câu hỏi này, có bạn vừa gửi
cho bần đạo một chuyện tiếu lâm “nhạt”, về chuyện tình yêu và sắc tộc như sau:
“Bạn có biết mong ước thiết tha nhất của đời tôi là
gì không? Là một buổi sáng thức dậy bỗng dưng thấy mình trở thành một ông chồng
Việt Nam
như bạn. Tại sao thế? Tại rất nhiều lý do. Nhưng quan trọng nhất, theo mình là
đàn ông Việt Nam rất ít khi phải rửa bát, lau nhà.
Với tư cách đàn ông với nhau, cả bạn vào tôi đều hiểu
lau nhà, rửa bát không có gì xấu. Thậm chí có những giây phút, có những thời
điểm chúng còn đẹp đẽ và tuyệt vời. Nhưng ở đời có thiếu gì thứ không xấu mà
đàn ông không làm. Vì hàng trăm lý do. Trong đó có lý do quan trọng nhất là vợ
không bắt buộc.
Cả đàn ông Tây như tôi lẫn đàn ông Việt như bạn đều
có vợ. Nhưng nếu vợ Tây buộc chồng làm việc nhà, thì vợ Việt lại tìm cách
thuyết phục. Khác nhau chính ở chỗ này. Cả hai chúng ta đều yêu vợ, điều ấy
không có gì phải bàn. Nhưng nếu bạn nghĩ yêu chỉ là nộp tiền lương đầy đủ thì
tôi cho rằng còn phải nộp thêm sức lao động nữa. Mà lao động trong một gia đình
thì không chỉ có ở bếp, mặc dù bếp rất quan trọng. Nói cách khác, bạn cho việc
rửa bát là vớ vẩn, còn tôi nghĩ rằng khi lau bóng chúng là lau bóng trái tim
mình cho nó thơm phức rồi dâng lên nàng, để nàng đựng bất cứ thứ gì nàng muốn,
kể cả một bông hoa hồng hay một miếng thịt bò.
Điều trớ trêu là vợ Tây phần lớn
không đẹp bằng vợ Việt. Họ to hơn, thô hơn, phải vàng hơn hoặc xanh hơn. Nhưng
vợ Tây luôn ý thức và được xung quanh luôn cổ vũ cho ý thức rằng nếu chồng muốn
có mình, chồng phải làm việc cho mình.
Sự làm việc này, than ôi, không ngoại trừ một lĩnh
vực nào cả. Ở công ty, ở ngoài đường, ở phòng ngủ, ở trong bếp, đàn ông Tây lúc
nào cũng có những thứ cụ thể để thực hiện một cách trực tiếp và rõ ràng.
Còn vợ Việt, ngược lại, rất nhiều cô có sẵn ý nghĩ
trong đầu: muốn có chồng thì phải phục vụ chồng. Điều may mắn đó của bạn nhiều
lúc khiến tôi ghen tị đến điên cuồng. Tôi chưa bao giờ dám nói với vợ: anh có
tiền nên anh không đón con. Anh đẹp trai nên anh không giặt đồ. Anh là trưởng
phòng nên anh không đụng tới vòi nước. Anh có xe hơi nên anh khỏi lau nhà. Tôi
mà nói ra như thế, thì cả đàn bà, cả đàn ông, cả trẻ con, và cả chó mèo đều
nhìn tôi như một tên ngớ ngẩn, thậm chí một tên quái vật.
Còn bạn thì sao?
Ngay từ thuở sinh ra, dù không phải điện thoại di
động, bạn cũng được mặc định là không phù hợp với việc nhà. Muốn bạn vớ lấy các
dụng cụ chùi rửa, các bà vợ phải vắt óc suy nghĩ. Tại sao bạn lại được hưởng
cái quyền ấy? Trong khi nhìn chung, bạn chẳng có gì nổi trội hơn tôi? Đó là một
câu hỏi mang tầm thế kỷ.
Là chồng Tây, sau bao đêm suy nghĩ, tôi chợt khám phá
ra câu trả lời: chồng Việt Nam
không khôn hơn ta. Nhưng vợ Việt Nam
dại hơn vợ ta. Vợ Việt Nam
dại hơn vợ tây?Chỉ có dại, cực kỳ dại mới bước vào một căn nhà và nghĩ ngay bếp
là của mình. Họ quên phắt một điều cơ bản: bếp của những người đói mà đàn ông
đói nhiều hơn đàn bà.
Khi đã nhận lấy bếp ngay từ đầu, vợ Việt Nam
vô tình hay cố ý đẩy chồng ra phòng khách (phòng ngủ thì tôi không dám bàn vì
bản chất tôi là người đứng đắn). Phòng khách không có nước lau nhà, không có xà
phòng rửa bát, cũng không có chổi chùi toilet. Phòng khách có trà, rượu, báo
chí và ti-vi.
Tại sao bạn lại may mắn thế? Do học hành chăng? Do
dòng dõi quý tộc chăng? Hình như không phải. Chẳng qua do bạn được thừa hưởng
một cách tự nhiên điều này từ cha, từ ông, hoặc ông cố mình.
Đàn ông chúng ta không phải là một cái gì phi thường,
vĩ đại. Phụ nữ suốt đời phải thương yêu, giáo dục, quyến rũ, đe dọa, thì chúng
ta mới nên người. Vấn đề nằm ở chỗ các bà vợ đứng ở đâu khi làm những công việc
đó. Cậu đã vớ bở khi vợ ngay từ đầu đã đứng ở vị trí thấp hơn, ít nhất trong
phạm trù quét dọn, lau chùi tổ ấm.
Vợ Tây không thế. Không bao giờ thế. Cho nên nếu muốn
trốn việc nhà, tôi chỉ còn cách mơ thành ông chồng Việt Nam.
Làm sao biến mơ trở thành thực bây giờ? Bạn giúp tôi đi. Chờ thư bạn từng phút.
Ký tên
David Beckham” (truyện kể lấy từ mạng)
Chồng Tây/chồng Việt hay vợ Tây/vợ Việt cũng khác nào
nói về Đức Giáo Hoàng tân cử có là người gốc Việt hay gốc “Bông Kỳ” đi nữa, vẫn
cứ hay cứ tốt, cho Hội thánh. Nhận định thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta hãy sẵn
sàng để hoan nghênh Đức Giáo Hoàng tân cử vào cuối Mùa Chay rất thánh năm 2013
này. Mong thay!
Trần Ngọc Mười Hai
với những mong cùng ước
rất chính đáng.
Như bao giờ.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment