Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 Mùa Chay năm B
08/3/2015
“Trăng đã lên! Trăng đã lên!”
Hương ngát thơm bao u huyền vườn thu thiết tha.
Trăng sáng soi. Trên lá hoa
Dâng nhớ bao câu mong chờ nhạc xưa đã qua.
Xa xôi rồi nhớ thương, ai mong chờ vấn vương.
Riêng có ta tim xót xa, luyến thương bao khúc ca xưa, đã phai nhòa.”
(Nhạc: Louis Ferrari Domino
– Lời: Hương Huyền Trinh Khúc Nhạc
Muôn Đời)
(Galát 5: 22-24)
“Khúc
Nhạc muôn đời”, ư? thử hỏi: bạn và tôi, ta có nên đưa Nhạc
này vào Mùa Chay, chứ? Đó là câu hỏi từ nhà báo Robert Hiini ở Úc, khi phỏng vấn người viết nhạc Tracey Combes ở
Úc, như sau:
“Mùa Chay năm nay tại Giáo phận Wollongong Sydney, Úc, có
chương trình gọi là “Arise”
đã và đang chứa-đựng một khí-cụ thầm-lặng
nhưng sắc-bén trong âm-nhạc. Và, đây còn là khí-cụ không-có-gì-bí-mật, cả.
Chương-trình này kéo dài khoảng 90 phút, xoay quanh loạt bài chiêm-niệm của sơ Hilda
Scott dòng OSB rút từ phim nổi tiếng “The Abbey”; và của sơ Hoya Henlen, OLSH cùng Lm Michael Fallon, MSC và nhà nghệ-thuật
Nelson Colo Matona đặt địa-bàn hoạt-động tại Sydney, chuyên sản-xuất các dĩa nhạc
và sách trầm lắng, sống động.
Trả lời câu hỏi của phóng viên tờ The Catholic Weekly,
Tracey Cobes nói: “Tôi
coi âm-nhạc như thứ “thuốc trị bệnh” linh-hồn rất tốt. Và có lẽ, Thiên Chúa
cũng sử-dụng âm-nhạc để nói lên điều Ngài muốn nói, hầu đi vào tâm-can con người
theo cách-thức của Ngài. Âm-nhạc, là quyền-lực thiêng-liêng đích-thực ta ủy-thác
cho Chúa. Và, bà con ta cũng nên xin Chúa chúc-lành cho âm-nhạc để nó xuyên-thấu
tâm-can con người bằng giòng chảy nhẹ lâng, thanh-thoát. Tôi tin chắc chắn Ngài
sẽ chúc lành cho chuyện này…” (x. Robert Hiini, Secret Weapon in Lenten Music, The Catholic Weekly, 15-02-2015,
tr. 10)
Nghe thế thì biết thế. Vấn-đề: bạn và
tôi, ta có đồng ý với tác-giả người Úc này hay không, là chuyện khác. Thế
nhưng, “đồng-ý hay không?” còn tùy mỗi người và nơi chốn ta diễn-đạt loại nhạc ấy,
mỗi thế thôi. Nhưng, để bà con ta có thêm chất-liệu mà góp ý, nay xin bạn và
xin tôi, ta hãy nghe thêm đoạn nữa tiếp-tục ở bên dưới:
“Bạn
lòng ơi! đã bao đêm thức trông trăng sáng long lanh.
Nhìn giòng sông nước trong xanh
cuốn
trôi nhanh, giữa đêm thanh.
Sông mong chờ nhớ, bao khúc nhạc thắm,
Nay đâu còn nữa, đã quá xa.
Và từ đây, mỗi khi nghe khúc ca xưa giữa gió mưa.
Thì lòng ta thấy xót xa, nhớ thiết tha, phút đã qua.
Ðã phai nhòa hết. Hoa xưa tàn hết.
Nhưng, ngàn thu mãi trong tim ta.”
(Domino – bđd)
“Ngàn
thu mãi trong tim ta”, phải
chăng là tình-tự của thương-yêu không chỉ ở mỗi âm-nhạc?
“Lòng
ta thấy xót xa, nhớ thiết tha, phút đã qua”, cả vào mùa Chay kiêng như học-giả kinh-điển nọ vốn từng bảo:
“Phục Sinh, vốn dĩ có mặt cả vào mùa Chay
nữa”.
Nói thế, khác nào bạn và tôi, ta lại cứ
ngâm nga câu tiếp vẫn hát rằng:
“Thu
đã qua! Bao lá hoa!
Theo gió bay, bay quay quần rụng theo gió đưa.
Mây vẫn xanh! Trăng vẫn thanh!
Nhưng thấy đâu, khúc ca đẹp, nhạc êm thắm tươi
Ai xa vời, có hay bao nhiêu ngày gió bay?
Bao lá khô! Theo gió thu!
Rớt trên đôi mắt, đôi môi, khắp mong chờ.”
(Domino – bđd)
Hôm nay, hát lại nhạc-bản này, ý bần đạo
không phải để bình-luận thi-ca/âm-nhạc này khác, cho bằng chỉ muốn dẫn-nhập vào
chuyện thần-học/tu-đức để bạn và tôi, ta có hứng mà bàn chuyện khô-cứng, cũng rất
nên. Chuyện nên bàn ở đây, là chuyện từng gây tranh-cãi về tín-lý/giáo-điều được
học-giả ở đây đó, vẫn tâm-tình như sau:
“Những
năm còn sống trong Dòng thánh sinh-hoạt theo kiểu Trung cổ, tôi lại đã tạo được
cho mình ít nhất 3 món quà của người xưa. Thứ nhất, là tên gọi do cha mẹ đặt, tức:
đơn-giản chỉ mỗi chữ “Gioan”. Thứ đến, là tên đệm do Dòng thánh của tôi trao tặng,
khi có vị nào đó trong Dòng tuyên-khấn sống hy-sinh tận-tụy. Và, thêm điều nữa,
là điều tôi vẫn xác-tín bảo rằng: niềm tin và sự việc này khác vẫn xảy đến,
như: vấn-đề mặc-khải và lý-luận mình có, không tương-phản hoặc kình-chống nhau bao
giờ hết, trừ phi đầu óc mình bị lệch sai một bên; hoặc mình cứ lẫn lộn cả hai
phía. Món quà thứ ba tôi có được, là: tình yêu dành cho Thanh-Nhạc, tức thứ
âm-nhạc Grêgôriên thanh-thoát, cho dù mình từng hát dở đến độ phá tan ban hợp-xướng
nổi tiếng của Dòng, nên thoạt lúc tôi ra đi, các đấng-bậc ở lại đều mở cờ trong
bụng,do bởi các vị sẽ có cơ-hội phục-vụ Thanh-nhạc đúng mức hơn.” (x. John D. Crossan, Who is Jesus, Answers to your questions
about the historical Jesus, Westminster John Knox Press, Louisville,
Kentucky 1996 tr. X)
Thế đó, lập-trường của vị học-giả vốn
dĩ là linh-mục nổi cộm dạy trường thần-học De Paul ở Chicago, Hoa Kỳ. Ở đây, lại
cũng thấy các quan-niệm sống riêng-tư, hoặc lập-trường chính-qui/chính-mạch của
nhà Đạo chỉ muốn mọi người sống theo truyền-thống cũng rất chung của Giáo-hội,
từ trước đến nay.
Thế
đây có là khuynh-hướng nói chung của nhiều người không? Đây là câu hỏi, rất khó
trả lời, bởi lẽ bần đạo đây không có đủ số-liệu thống-kê để giải-mã cho phải lẽ.
Khó thật đấy, nhưng cũng xin đưa ra
một it ý-kiến ở đây đó, để mỗi người và mọi người có cơ-hội nhận-định hoặc
tuân-giữ. Trước nhất là ý-kiến riêng lẻ của một số nhân-vật như sau:
“Âm-nhạc
lâu nay từng đổi thay cuộc sống của con trẻ, ở khu phố nghèo khổ xứ miền Châu Mỹ
La-tinh. Cateura, là thị-trấn ngoại ô thủ-đô Asuncion của Paraguay, chỉ gồm mỗi
25 ngàn dân sống chen chúc mãi tận khu đổ rác, chất đống. Nhưng, có thể gọi nơi
đây là một trong các khu “ổ chuột” lớn nhất ở Nam Mỹ…
Tuy
là thế, nơi này còn được coi như chốn miền cũng khá kỳ lạ cho sự lạ về âm-nhạc.
Bởi, tại chốn miền bị quên lãng rất ô-nhiễm của thế-giới, lại thấy xảy ra một
thứ phiêu-lưu/mạo-hiểm đầy gợi hứng cho nhiều người. Tôi muốn nói đến “Dàn nhạc
Cateura” gồm các nhạc-cụ được tái-chế…” (xem thêm Pedro Dutour, Recycling Mozart, MercatorNet 19/6/2013)
Nói
đến nhạc Nam Mỹ, có lẽ không thể không nhắc đến điệu Tango nổi tiếng được người
trẻ ở Sydney từng nhận-định như sau:
“Tango”
với người dân Argentina cũng dễ thương như người em 'má đỏ môi hồng' và thiêng
liêng như núi Fuji đối với người Nhật Bản vậy.
Người nước ngoài khó có thể tưởng tượng nổi tâm hồn người dân Argentina chao
đảo đến thế nào khi vũ điệu “Tango” được cất lên. Đặc điểm của “Tango” là nó kết hợp giữa những
lời ca mộc mạc của đồng quê châu Âu, ai oán thở than cho kiếp nghèo luôn phải vật
lộn với cuộc sống 'trôi sông, lạc chợ'.
Từng ấy giai điệu lời ca đan-xen nhau thành một thứ nhịp điệu Phi châu dập-dìu
mạnh-mẽ, nửa như lả lơi mời gọi đôi tình nhân hãy mau dìu bước trên sàn nhảy.
Trong
truyền thống “Tango”, là nhạc cụ tiêu biểu nhất vẫn là đàn Bandonéon, một loại
phong-cầm như accordéon xuất xứ từ nước Đức, phát ra những thanh-âm nỉ-non gợi
tình, cực kỳ lôi cuốn. Thoáng nghe, tôi cứ tưởng như tiếng “phèng la” mà đồng
bào Thượng ở nước ta thường hay thổi trong những dịp hội hè, đình đám. Đàn Bandonéon có tất cả 71 nút bấm, và có thể
chơi được cả hai nốt nhạc cùng một nút, tùy thuộc nút mở hay đóng. Đây là một
nhạc-cụ rất khó sử-dụng, nhưng âm-thanh bi-thảm của nó lại hết sức hòa-hợp với
xúc cảm Tango. Vì vậy, nó được xem là biểu-tượng
cho “Tango”, 'bà chúa của vũ trường'.
Trước
khi biến-thành một điệu hát bình-dân, Tango đã xuất-hiện ở quận La Boca thuộc
thủ-đô Buenos Aires vào cuối thế kỷ 19 như một phong trào khiêu-vũ. Lúc đầu, vũ-điệu
tango chỉ là thể-loại nhạc-khí đơn-thuần chứ chưa có ca từ, gồm có một cây
guitar, sáo tây (flute) và vĩ cầm (violin), là những nhạc-cụ duy-nhất được sử-dụng
để diễn-đạt thể-điệu này. Sau đó, mới thêm đàn Bandonéon vừa được chế tạo xong,
và nhập từ Đức sang. Nhưng vẫn còn thiếu
phần nhạc cụ tối thiểu để giữ nhịp và làm nền cho bản nhạc. Phải đợi đến khi có sự hội nhập của hai loại
đàn đắt tiền là dương cầm (piano) và đại hồ cầm (double bass) chơi nhịp chõi
làm nền thì “tango” mới có được cái tên đích thực của mình như hiện nay.
Mấy
chục năm sau, lời ca mới được viết theo ngôn-ngữ giang-hồ của đám dân thường ở
phố chợ, lời lẽ thô-tục và sử-dụng khá nhiều tiếng “lóng” địa-phương. Trong màn
đêm u tối của các xóm nghèo tạm-bợ, vũ điệu Tango đã được nhảy ngoài hè đường,
trong quán rượu, cà-phê, sòng bạc và các hồng lâu, nhà thổ, nhậu nhẹt say sưa
suốt canh-thâu. Tại đây thường tụ-tập
nhiều dân tứ chiếng đến từ khắp các nước châu Âu nhập lậu vào Argentina, trong
đó chủ-yếu là nam-giới đến từ các nước như: Đức, Ý, Tây Ban Nha, sống chui rúc
với đám da đen Phi châu trong những khu ổ chuột ngoại thành. Ban ngày họ thường đi làm thuê gánh mướn, nhiều
nhất là đi chăn bò tại các nông-trại xa thành phố. Mấy anh chăn bò nhà quê này,
người dân thành-thị hay gọi chế-diễu là gauchos. Làm quần quật suốt ngày, chỉ khi màn đêm
buông xuống, họ mới được nghỉ ngơi, ăn uống hội hè.
Và
họ tự sáng-tạo nên điệu vũ mới mang tên Tango để tìm quên trong giây lát nỗi sầu
viễn-xứ, thân phận bị bạc đãi, cũng như bộc-lộ tâm-trạng thất-tình qua giai-điệu
não-nùng của giòng nhạc Tango qua âm-thanh khổ-đau, lãng mạn, tuyệt vọng. Bởi, hầu
hết họ là những gã đàn ông cô-độc, thiếu đàn bà, ra đi bỏ lại đằng sau tất cả
mà mục đích chỉ để tìm kiếm sự thành-đạt nhỏ nhoi nơi quê người. Họ gặp nhiều
trở-ngại trong việc diễn-đạt ngôn ngữ, vất vả trong cuộc sống, đồng thời tiếc-nuối
hạnh-phúc đã vụt-thoáng mà họ để lại trên quê-hương trong bước đường bỏ nước ra
đi. Chỉ âm-nhạc và khiêu-vũ mới có đủ khả-năng lôi kéo người người lại gần với
nhau, bất kể thân-phận thấp hèn, màu da hay ngôn-ngữ. Thế là điệu nhảy Tango ra đời giữa đàn ông nhảy
với nhau, và thường diễn ra trong các động chứa hay hộp đêm, quán rượu. Chính ở
nơi đây, bọn họ tụ tập nhau lại để tìm quên lãng qua những ván bài, tìm hơi ấm
qua các chầu nhậu say túy lúy, hay rơi vào vòng tay của các ả làng chơi nghiện
ngập. Từ khoảng giữa hai thập niên 1860 và 1880 trở đi, lịch sử của Tango đã ra
đời từ các khu ổ chuột bẩn thỉu nói ở trên mà dân thường ít dám bén mảng tới.
Ít
ai ngờ rằng một vũ-điệu táo-bạo và hấp-dẫn từng chinh phục thế giới như thế, lại
có một quá khứ trụy-lạc đến như vậy. Nhất là khi ngắm đôi nam nữ cọ xát vào
nhau, phóng mình theo từng nhịp thở, ai cũng thấy bước nhảy của họ thật thú vị
nhờ hai động-tác căn-bản đặc-trưng của “Tango”. Một được gọi là Quebrada, tức:
cô đào phải gập đầu gối ngả người xuống phía sau. Động tác thứ hai được gọi là Corte,
tức: là lúc đôi trai/gái đang nhảy ngon trớn bỗng phải chững lại một hồi, nhạc
cũng ngưng hẳn một đoạn trước khi quay vòng chơi tiếp. Quí vị biết tại sao lại thế không? Vì “Tango”
bắt đầu bằng sinh-hoạt của các anh chăn bò Argentina. Họ lười tắm, trên người
còn đẫm mồ hôi ngựa, nhưng lại thích bước vào các hộp đêm đông nghẹt mời các cô
gái nhảy. Người họ hôi quá, nên các cô chỉ móc tay trái vào khuỷu tay phải của
gã chăn bò, chứ không dám ôm sát để nhảy; và đầu ngửa về phía sau cho đỡ nặng
mùi. Còn tay phải thì buông thõng xuống dưới hông gã, chỗ gần túi quần như để
móc túi lấy tiền công nhảy.
Từ
điệu nhảy lò cò nhà quê của các gã chăn bò nghèo hèn, “Tango” được sàng lọc qua
thời-gian trở nên đại-chúng-hoá, thành vũ-điệu xã-giao phổ-biến khắp mọi nơi
trên thế-giới hiện nay. Trong giai-đoạn phát-triển tột bực 1880-1930, phong
trào “Tango” cuốn hút giới trẻ và đặc-biệt là tầng lớp nghèo sống ở kinh-thành
đến mức mà các góc phố ngoại-ô thuộc khu-vực La Boca, nam-giới công-khai nhảy với
nhau giữa ban ngày chứ không sinh- hoạt về đêm như trước nữa. Nó phần nào giống
đám thanh-niên ngày nay quay-quần tụ-tập để trình-diễn nhạc “rap” vậy. Lối
khiêu-vũ ngoạn mục và hình tượng của “Tango” rất ăn khách trong các khu đông
dân, giới khuân vác tại bến cảng thủ-đô, đã lập tức bị nhà cầm quyền quy-kết là
sinh-hoạt đồi-trụy khiêu-dâm, nên tìm cách dập tắt phong-trào này nhưng không
thể ngăn cấm họ được. Đến khi đó thì phong-trào đã lan rộng ra khắp thủ-đô, con
em giới trung-lưu/trưởng-giả cũng bắt chước nhảy theo.
Nhờ
vào đóng góp của giới phong-lưu/trí-thức mà những phần thô-tục của lời ca dần-dà
bị loại-bỏ bằng nét bay bướm, thể hiện qua lời ca chứa-chan tình-cảm, xót-thương
da-diết. Thế rồi, từ thủ đô Buenos Aires, Tango truyền qua Âu châu du-nhập hồi thập
niên 1910s. Đầu tiên, được hoan-nghênh nhiệt-liệt ở Paris và sau đó đã lan rộng.
Các hội-quán “Tango” nảy sinh khắp nơi. Từ Paris, London, Berlin, cho chí các tỉnh
lẻ tại Hòa Lan, Phần Lan, người ta có thể nhảy “Tango” suốt đêm. Ở Nhật và
Trung Quốc, “Tango” biến thể theo hình-thức riêng. Riêng Việt Nam chúng ta, dù
trong nước hay hải ngoại, mỗi khi nghe thấy điệu “Tango” trổi lên là bà con kéo
nhau ra sàn nhảy đông chật cứng! Các ca-khúc Tango Việt Nam được sáng-tác nhiều
khủng-khiếp. Không mấy ai là không biết điệu Tango, cho dù là không biết nhảy.
Và dĩ nhiên, phải biết đến các 'giọng buồn chơi vơi' bên 'khúc Tango đắm say' của
các nữ-hoàng chuyên trị “Tango” như Lệ Thu với “Bài tình ca mùa đông” của Trầm
Tử Thiêng. Hoặc, Khánh Ly với bản “Kiếp Nghèo” của Lam Phương.
Cuối
cùng thì, mấy ông nhà giàu ở thủ đô Argentina đành bó tay xuôi theo thời thế mà
lao vào cuộc vui khiêu vũ. Lúc đó, dân giàu ở Buenos Aires rất ưa xuống thuyền
đi Âu-châu du-lịch, ít nhất là mỗi năm một lần. Họ đều có biệt-thự nghỉ mát ở
Paris hoặc London. Dạ tiệc của họ thường quy tụ giới quý tộc nổi tiếng. Người
Pháp bấy giờ thường rỉ tai nhau qua câu nói: 'nó giàu giống như người Argentina
để chỉ sự giàu có đến cực kỳ của họ. Con cái xuất dương du học, mang theo điệu
Tango Argentina vào giới thượng-lưu Paris, rồi từ đó tạo nên làn sóng điên-cuồng
với “Tango”. Mọi người mở dạ-tiệc khiêu-vũ với dàn nhạc Argentina và nhảy
Tango. Y phục phụ nữ cũng thay đổi, những váy thụng và xòe của loại nhạc Luân
vũ (Waltz) cao sang nay được thay bằng bộ váy đầm gọn gàng, buông thả hơn. Với
sự ủng hộ nhiệt tình của dân Âu châu, “Tango” tái 'nhập cảng' ngược về thủ đô Buenos
Aires. Và lần này, được cả nước hoan nghênh.
Cho
nên muốn đi tìm vũ điệu Tango truyền thống không lai tạp thì chỉ có thể tìm thấy
ở chính tại quê hương phát sinh ra nói mà thôi.
Nếu bạn là người đam mê lịch sử hay văn hóa cổ truyền như tôi, thì bạn sẽ
không thể bỏ qua một địa chỉ thật đặc biệt của thủ đô Buenos Aires. Đó là quận La Boca, nơi điệu Tango ra đời. Nơi đây từng là bến tàu chính của thành phố,
nhưng do vì nước thải quá ô nhiễm nên tàu bè đã bị chính phủ bắt phải dời sang
chỗ khác. Hiện nay, khu phố sống nhờ vào
du lịch và vẫn cố giữ lại những nét đặc thù của ngày xưa. Tôi đã bỏ ra cả buổi để đi tìm hiểu về quá
trình hình thành “tango” tại nơi đây, đến tối lại đi xem show ca vũ nhạc Tango
có kèm ăn uống tại hý viện Carlos Gardel nữa, nên cũng biết được chút đỉnh gọi
là....” (trích du ký Nam Mỹ- Anthony Trần)
Không
cần biết em là ai, ca-sĩ hay nhạc-sĩ có sáng-chế ra nhạc-cụ hay tiết-điệu lạ-kỳ
như “Tango” Argentina không. Chẳng cần hỏi, em có sử-dụng âm-nhạc làm công-cụ như
Giáo-hội và xã-hội từng làm không. Chỉ cần cảm-thông với em, người em đang hát
đôi giòng chảy của người viết nhạc như sau:
“Trăng
sáng soi! Trên lá hoa!
Dâng
nhớ bao câu mong chờ nhạc xưa đã qua.
Xa
xôi rồi, nhớ thương, ai mong chờ vấn vương.
Riêng
có ta tim xót xa, luyến thương bao khúc ca xưa, đã phai nhòa.”
(Domino – bđd)
Nếu bảo rằng: “không cần biết em là
ai”, kể thì hơi quá đáng. Nhưng nếu nói: bạn và tôi ta vẫn quan-tâm đến những
điều và những ý chuyển-tải khi rao-truyền lời Chúa, như nhận-định của người ở
Úc, từng viết như sau:
“Rao-báo Tin Mừng tuyệt nhiên không chỉ là giảng giải Lời
Chúa thôi, nhưng lại là và chính là sống thực Lời Ngài trong mỗi động-tác
tương-giao với mọi người.
Tôi đồng ý với thánh Phanxicô thành Átxizi khi thánh-nhân
từng tuyên-bố: “Hãy
rao giảng Tin Mừng của Chúa và nếu được, hãy sử-dụng lời-lẽ cho chính-đáng…” Theo tôi thì, rao giảng Tin Mừng là tìm cách
sống thực Tin Vui An Bình từng chi-tiết, trong cuộc sống giữa đời. Sống như thế,
là sống tử tế, có ân-huệ keo sơn vẫn đan xen với sự cảm-thông/hiểu biết của người
khác, với thời-gian mình bỏ ra để lắng nghe bậc cao-niên đang nhớ lại thời vàng
son của Giáo-hội, cứ hăng say diễn-tả không ngừng nghỉ. Sống Tin Mừng, còn là sống
và làm việc cật lực cho sự việc chính-đáng, phải lẽ. Là, bộc-lộ nỗi ngạc-nhiên
đầy hứng-thú, có niềm vui khi ta hành-xử theo cung-cách Đức Kitô từng làm, vào
thời trước. Sống rao giảng Lời Chúa, còn có nghĩa sống vui-tươi, quyết làm chứng-tá
cho Tin Vui An Bình mỗi khi ta quyết sử-dụng thời-gian để trở-thành người tốt
cho chính mình, tức: thứ quyết-tâm nào đó mà ta không thể lúc nào cũng
hoàn-thành cách tốt đẹp nhất thứ là khi ta cảm thấy như điên-cuồng, mê sảng khi
mở hộp-thư ra thấy nhiều điều vui/buồn, ở trong đời.” (xem thêm Ann Rennie,
How wil they know if we really love them,
Australian Catholics, Summer 2014, tr.16)
Sống thực điều mình rao-truyền Tin Vui
An Bình và/hoặc làm chứng-tá cho Đạo, còn là và phải là: sống như con trẻ, tức:
các bé em từng có “giòng chảy” tư-tưởng be bé, ngắn gọn từ điện-thư gửi Chúa,
được thày cô gom góp ở đâu đó, rất trường lớp như sau:
“-Jane: “Lạy Chúa con, thay vì Chúa cứ để cho con
người chết, rồi Chúa lại sinh ra người khác, sao Chúa không giữ lại những người
mà Chúa đang có bây giờ được không? Ký tên, Jane người con nhỏ của Chúa.”
-Neil: “Lạy Chúa, hôm qua con đi nhà thờ dự lễ cưới của chị con, nghe mọi người
hát rất hay, thấy mọi người mặc áo rất đẹp, nhưng có một chuyện mà con không
thích, đó là: anh chị con chưa xong đám cưới mà đã hôn nhau trước mặt mọi người,
coi kỳ quá phải không Chúa? Chúa phải khuyên
họ chấm dứt chuyện ấy mới được.”
-Jennifer: “Chúa ơi, vào thời Chúa viết Sách Thánh, người
ta có hát loại nhạc lạ kỳ như con vẫn nghe ở nhà thờ không?”
-Elliot: “Lạy Chúa, đôi lúc con cũng nghĩ về Chúa. Nhất
là vào lúc con đọc kinh và đi hát lễ với mọi người.”
-Robert: “Chúa à, con là người Mỹ, thế Chúa là người
gì? Có kỳ-cục như tụi con không?”
-Joyce: “Con cảm ơn Chúa đã cho mẹ con sinh ra em
bé, nhưng con đây từng cầu Chúa cho mẹ sinh chú Tôtô chứ đâu phải thằng bé kia đâu!”
-Nan:“Thưa Chúa, Con chắc là Chúa thương yêu hết
mọi người trên thế-giới. Trong nhà của con có mỗi 4 mạng người thôi mà chẳng ai
làm được thế hết.”
-Ginny: “Chúa dấu yêu, có thể nào Chúa ban thêm cho
bọn con một ngày nghỉ khác giữa Giáng Sinh và Phục Sinh được không? Có như thế,
con mới hát nhiều hơn ở nhà thờ.”
-Chris: “Chúa thân yêu, Con cũng muốn được sống đến
90 năm như ông kia ở Sách Thánh, nhưng biết làm sao bây giờ, hả Chúa?”…
-Raphael: “Nếu Chúa ban cho con cây đèn thần như
Alladin, con quyết sẽ cho Chúa tất cả những gì con có, ngoại trừ số tiền ở
trong bóp hoặc bàn cờ tướng mẹ mới mua cho con.”
-Donna: “Chúa ơi, Con đọc truyện tranh thấy người ta
nói ông Tôma Êđison chế ra ánh-sáng, nhưng đi nhà thờ lại thấy cha xứ bảo là:
Chúa làm hết mọi chuyện. Vậy, con dám chắc là ông kia đã cóp nhặt ý của Chúa,
phải không?” (trích điện-thư thày cô chuyển đến mọi người)
Không
cần biết em là ai, con trai hay con gái, mà lại có ý-tưởng lạ đời như thế. Chỉ
cần biết, em có trung-thành tin vào điều em học được ở trường lớp hay không, thôi.
Vâng. Đúng thế. Không cần biết bạn
là con trai hay con gái, ở nhà Đạo, mà chỉ cần hỏi là bạn có trung-thành tin
vào những điều nhà Đạo dạy bạn từ nhỏ không thôi. Và, chỉ cần biết: nhà Đạo nay
có còn dạy những điều “không ăn-khớp” những gì mà em và tôi đã và đang học vào thời
này, thôi.
Đó, là tư-tưởng của người viết những
giòng chảy ở sách vở, như sau:
“Như tôi đã đề-nghị cung-cách trở-thành người Công-giáo
thời nay, ở đây rồi. Bây giờ, tôi sẽ chuyển câu “Thế nào là người Công giáo”
sang thể hỏi “Tại sao làm người Công-giáo?” như vẫn được dạy từ hồi nhỏ. Từ đó
đến nay, tôi thấy được lý-do rất rõ và cũng thuyết-phục được mọi người, đó là:
con đường duy-nhất dẫn đến Ơn Cứu-Chuộc mà thôi. Nói thẳng ra, thì: xưa giờ ta
được dạy rằng: con người dễ có mối nguy phải rơi vào chốn hoả-ngục đầy lửa bỏng,
nếu không trở thành người Công-giáo. Nguy-hiểm này rất cao, lại khó lòng tưởng-tượng
ra cung-cách đe-nẹt/doạ-nạt mạnh-bạo nhiều thuyết phục hơn thế, vào thời ấy.
Thế nhưng, nay tôi không còn tin như thế nữa. Và đa số
người Công-giáo ở miền Bắc Hoa Kỳ, cũng không còn tin những chuyện như thế nữa.
Không tin như thế, là bởi hiện thời, mọi người ở nhiều nơi, còn tìm ra nhiều
lý-do mạnh hơn thế. Một trong các lý-do thấy rõ nhất vẫn xuất hiện mỗi khi ta đặt
vấn-đề tương-tự, đó là: Hiện nay mọi người đều nhận ra được chiều-hướng của chủ-thuyết
đa tôn-giáo. Thời nay, con người biết nhiều về đạo-giáo khác theo phương-cách
khác biệt, như: từ trường lớp, báo-chí, truyền thanh hoặc truyền-hình, vi-tính
và/hoặc qua các tiếp-xúc ngày càng nhiều với đủ mọi người theo đủ mọi tôn-giáo
rất khác nhau. Dĩ nhiên, chuyện này dễ thấy nhất là ở Châu Âu và các nơi khác
trên thế-giới, thế nhưng chỉ tập-trung xem xét những gì xảy ra ở miền Bắc Hoa-Kỳ
thôi cũng đã đủ. Và, câu hỏi đặt ra cho mọi người là: tại sao phải là người
Công-giáo mới có được Cứu rỗi?
Thật sự mà nói: ta chỉ hiểu được Đạo Chúa khi nhìn về Đạo
trong bối-cảnh của chủ-thuyết đa tôn-giáo mà thôi. Thuyết đa tôn-giáo là yếu tố
dân-gian ở thời-đại ta đang sống bởi nó cung cấp cho ta thấy được các đạo-giáo
–trong đó có cả Kitô-giáo- rất mới mẻ. Một khi ta nhận ra Kitô-giáo trong
khuôn-khổ các đạo-giáo như một tổng-thể, thì khi ấy ta sẽ thấy Kitô-giáo -với bản-chất và mục-tiêu của mình - cách rõ ràng hơn và hiểu Đạo Chúa hơn. Vậy
thì, câu hỏi: “Tại sao phải là người Công-giáo?” Thì, câu trả lời trước nhất rất
ngắn gọn của tôi lại có khác nhiều điều mang tính xây dựng: thực-tại dân-gian của
thuyết đa tôn-giáo, một cách-thức nhìn đạo-giáo từ khi có Thời đại Khai sáng; sự
thông-hiểu về sự khác-biệt và giống nhau giữa các đạo, và: vai-trò của Đạo-giáo
trong cuộc sống của ta với Chúa…” (x.
Marcus J. Borg, Heart and Home Being
Christian in an Age of Pluralism, The Heart of Christianity How We Can Be
Passionate Believers Today, HarperOne 2003, tr.207-208)
Nói cho cùng, có sống đúng vai-trò hoặc
thế-đừng của người con Chúa không, đó là vấn-đề. Và vấn đề sẽ mãi mãi đặt ra
như bậc thánh-hiền từng nhắc nhở mọi người ở Kinh sách rằng:
“Hoa
quả của Thần Khí là:
bác
ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu,
từ
tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.
Không
có luật nào chống lại những điều như thế.
Những
ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt
vào
thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
Nếu
ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.
Ta
đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau.”
(Thư Galata 5: 22-24)
Hiểu thế rồi, nay ta hãy cùng nhau tiến
bước với lời ca hôm nào mình từng nghe hát, như:
“Mây
vẫn xanh! Trăng vẫn thanh!
Nhưng thấy đâu, khúc ca đẹp, nhạc êm thắm tươi
Ai xa vời, có hay bao nhiêu ngày gió bay?
Bao lá khô! Theo gió thu!
Rớt trên đôi mắt, đôi môi, khắp mong chờ.”
(Domino – bđd)
Vâng.
Đúng thế. Mây vẫn xanh. Trăng vẫn thanh. Dù bạn dù tôi, ta có hát hoặc quyết-tâm
thế nào đi nữa, trời/trăng vẫn như vậy. Suốt đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Cũng từng hát những bài như trên,
Nhưng quyết-tâm lại rất khác. Làm sao
biết.
No comments:
Post a Comment