Chuyện
Phiếm Đọc trong tuần thứ 18 thường niên năm A 06/8/2017
“Thiên đường là đây"
là ngày được thấy thế gian bình yên”
Thiên đường là đây
loài người chẳng biết dối gian hờn
ghen.”
(Lê
Xuân Trường - Thiên Đường là đây)
(Rôma 8: 29-30)
Bằng
những giòng chữ ở đầu bài như thế, bần đạo bầy tôi đây phải thú thật là: mình không
hề biết nghệ sĩ viết nhạc họ/tên Lê Xuân Trường là ai? Con trai hay con gái?
Đang sống ở trời Tây hay Phương Đông? Nhất nhất một điều là, bần đạo đều chẳng
rõ…
Thế
nhưng, có một điều tuy nhỏ, nhưng bần đạo lại biết rõ, đó là ý/lời nhạc bản này
là những tâm tình cũng rất thật. Thật, như ca-từ lẳng lặng đi vào lòng người, rồi
lại tiếp tục hát như sau:
Sáng
trong màn đêm ngàn sao lấp lánh giữa khung trời êm,
Giấc mơ thần tiên là niềm hạnh phúc thiên đường lãng quên.
Những chua xót của bao ngày qua,
Đã tan biến vào chân trời xa.
Hãy cho hết tình yêu đêm nay, người hỡi!
Sống vui hồn nhiên dù bao sóng gió phá tan bình yên.
Lỡ cho ngày mai dù là muôn kiếp muôn đời cách xa.
Vẫn yêu mãi tình không đổi thay.
Vẫn thương nhớ dù xa tầm tay,
Thế mới biết đời không cần chi ngoài hạnh phúc.
Thiên đường là đây là ngày được thấy thế gian bình yên.
Thiên đường là đây loài người chẳng biết dối gian hờn ghen.”
(Lê Xuân Trường – bđd)
Quả
có thế! Nghệ sĩ ngoài đời lại nói những điều nghe rất đúng: “Thiên đường là đây!” “Loài người chẳng biết
dối gian, hờn ghen…”
Quả thật
như vậy. Đấng bậc nhà Đạo bao giờ cũng giảng và nói, nhiều điều rất không sai. Đức
ngài nói, cả vào khi ông vừa đáp trả câu hỏi của người đi Đạo, những điều ở bên
dưới:
“Thưa Cha. Mới đây, con có dịp đọc thư
thánh Phaolô gửi tín-hữu Rôma có nói đến vấn-đề tiền-định. Đọc xong, con lại có
thắc mắc muốn cứ hỏi rằng: Phải chăng Thiên-Chúa thực-sự định-đoạt thân-phận
con người? Định và đoạt, ở chỗ: khi thì Ngài cho phép linh-hồn này được đạt chốn
thiên-đường; lúc thì Ngài lại tống kẻ khác vào nơi lửa bỏng, rất hoả hào. Làm thế,
sao ta lại cứ bảo: con người hoàn-toàn có tự-do định-đoạt thân phận mình, được
cơ chứ? Con nay thấy lẫn-lộn, không biết đâu là sự thật đúng/sai. Nay chạy đến
nhờ cha giúp đỡ”
Bàn
chuyện thiên-đường/địa-ngục bằng các lý và lẽ đạo-hạnh, Đức thày giòng họ John
Flader của tờ The Catholic Weekly Sydney đã có lời chỉ-giáo, như sau:
“Đoạn
viết ở Tân Ước mà anh/chị nhắc đến, có những lời lẽ như sau:
“Vì những ai Người đã biết
từ trước,
thì Người đã tiền định
cho họ
nên đồng hình đồng dạng
với Con của Ngài,
để Con của Ngài làm trưởng
tử
giữa một đàn em đông
đúc.
(Rôma
8: 29)
Thành thử ra, thánh Phaolô quả có nói hai
chữ “tiền định”. Nhưng, vấn đề là hỏi rằng: điều đó tác-động thế nào lên con
người có tự do, đây? Phải chăng, nhiều vị được Thiên Chúa định sẵn cho mình đạt
chốn Thiên đường ngay từ trước, nên họ sẽ đi thẳng vào chốn ấy, mà chẳng cần biết
là họ có vướng mắc biết bao nhiêu là lỗi/tội vào thời trước; và cả vào khi họ
chẳng biết sám-hối vào lúc chết, nữa thì sao?
Và, có chăng người nào khác cứ nghĩ rằng:
Thiên Chúa đã định trước là họ sẽ phải lưu lạc chốn địa-ngục/hoả-hào để rồi chẳng
làm sao cứu vãn linh hồn họ nữa đây? Nếu diễn-tả sự việc như thế, thì nội
ý-nghĩ về sự việc tiền-định thôi, cũng đủ khiến mọi người hãi sợ rồi.
Nói thế, khác nào chế-riễu tính tự-do
của con người, lại cũng coi thường công-lênh của mỗi người, khi họ và ta đều
hành-xử đúng phép tắc lẫn luật-lệ, và về hình phạt nặng/nhẹ do lỗi/tội ta phạm phải.
Hiểu như thế, cũng tựa hồ nhạo báng lòng nhân-từ và sự công-minh của Thiên Chúa,
nữa.
Nói cho ngay, đó không là hiểu/biết
đúng-đắn, thì sao lại bảo là: Chúa định-đoạt trước sự việc liên quan đến thân
phận con người. Quả thật, Tự điển Bách-khoa Công giáo đã từng viết: Duyên tiền-định,
theo nghĩa rộng, là những nghị-định Chúa ban, vốn thấy trước tương-lai một cách
không thể sai-sót, nên Ngài đạ đặt-định và ra lệnh từ cõi miên-trường, tất cả mọi
sự-kiện xảy đến với thời-gian, đặc-biệt cho những gì diễn-tiến cách trực-tiếp từ,
hoặc ít ra chịu ảnh-hưởng từ ý-chí tự-do của con người.
Nói cách khác, thì kế-hoạch của
Thiên-Chúa về duyên tiền-định lại có liên quan đến các hành-xử đầy tự-do của
con người, là những việc Ngài thấy trước từ cõi đời đời.
Muốn hiểu được sự việc tiền-định qui về
tự-do của con người, ta cần định-vị nói trong 4 lập-luận hoặc giả-định nền-tảng.
Trước hết, là: Chúa muốn hết mọi người đều được cứu rỗi, cả các Kitô-hữu cũng
như những người ngoài Đạo. Thánh Phaolô, trong thư đầu gửi đồ đệ ông là Timôthê
từng nói rõ: “Ngài là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân
lý.” (1Ti 2: 4)
Thánh Phêrô, trong một tình-huống
tương-tự, lại cũng viết: “Chúa
không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người
kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn
cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.”
(2P 3: 9) Thành thử ra, Chúa không định-đoạt trước bất cứ ai phải chịu cảnh
địa-ngục mãi mãi suốt cõi đời.
Lập-luận thứ hai, là: Chúa phú ban cho
mỗi người và mọi người đủ mọi ân-huệ để họ được cứu rỗi. Lập-luận này theo sau
những điều nói ở trên. Lại nữa, lập-luận này từng dẫn đưa thánh Âu-gus-ti-nô quả
quyết rằng: “Mọi người chúng ta không được phép tuyệt-vọng dù có lỗi phạm ghê-gớm
đến thế nào đi nữa, bao lâu con người còn sống trên thế-gian.” (X. Lời xưng thú
1 câu 19, 7)
Lập-luận thứ ba, là: mọi hành-vi của
ta và các công-lao xuất từ đó, đều là hoa trái của ân-huệ Chúa ban đặt-định trước
cho ta, suốt nhiều thời. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo có viết: “Công-lao của
con người trước mặt Chúa trong cuộc sống người tín-hữu nảy sinh từ sự-kiện cho
thấy Chúa đã chọn lựa cách tự do để kết-hợp họ vào với công-việc tạo ban ân-sủng
của Ngài. Hành-vi đầy tính nhân-hậu của người cha, đều là sáng-kiến ban đầu của,
và kéo theo sau đó là hành-động tự-do của con người ngang qua sự cộng-tác của họ.
Có như thế, công-lao có từ công-việc tốt lành được áp-đặt cho họ vào ân-sủng của
Chúa ngay từ đầu và sau đó, cho các kẻ tin.” (X. GLHTCG đoạn 2008)
Lập-luận cuối, là: Thiên-Chúa ban cho
ta ân-huệ thấy trước rằng ta sẽ sống tương-hợp với nó. Sách Giáo lý lại cũng
nói rằng: Khi Thiên Chúa thiết-lập kế-hoạch ‘định trước’ cách vĩnh-viễn, Ngài
bao gộp trong đó sự đáp trả cho ân huệ của mỗi người một cách tự-do.” (X.
GLHTCG đoạn 600). Nói như thế, sách Giáo Lý có ý bảo rằng: Thiên Chúa phú ban
cho ta mọi ân-huệ của Ngài cả khi Ngài biết rằng ta sẽ sử-dụng chúng để làm điều
thiên khả dĩ có được sự sống vĩnh cửu.”
Vấn-đề tiền-định vừa đề-cập, dù ta chiếu-cố
đủ cả bốn lập-luận ở trên, vẫn còn nhiều bí-nhiệm hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì,
Chúa vẫn có tự-do ban tặng cho ta ân-huệ và tình-yêu cao cả của Ngài trên những
ai Ngài chọn-lựa. Và, Ngài cũng phú ban cho mọi người đầy đủ ân-sủng của Ngài để
ta được cứu rỗi.” (X.
Lm John Flader, Does God predestine
anyone to suffer forever in hell? No, The Catholic Weekly 02/7/2017, tr.
28)
Minh-định
theo chiều-hướng của nhà Đạo như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hát lên
những ca-từ rất “thiên đường” như ở dưới:
“Thiên đường là đây là cuộc tình mãi thiết tha ngàn thu
Là lời nồng ấm trái tim thủy chung muôn kiếp
Thiên đường là đây là ngày chẳng biết nỗi đau buồn chi
Thiên đường là đây là nụ cười mãi thắm trên bờ môi
Thiên đường là đây từ ngày được thấy chúng ta gần nhau.
Bao đắm say, thiên đường là đây...”
(Lê Xuân Trường – bđd)
Nói
về thiên-đường theo ngôn ngữ ngoài đời, là còn nói bằng truyện kể, mới hấp-dẫn.
Bởi, truyện kể đều là những chuyện cà-kê-dê-ngỗng đi sát với quần chúng, khiến họ
nhớ dai, nhớ dài, nhớ mãi, rất khó quên.
Ở
ngoài đời, lại cũng thấy nhiều người/nhiều vị đề-cập đến thiên-đường/hoả-ngục ở
đây đó, theo cung cách khác hẳn. Trong số các vị này, lại đã thấy tay viết trẻ
có bút danh là Hải Triều Ý Tâm với những tình-tự gọi là: “Thiên-đường trong quả bóng bay, Gió
trần gian thổi vuột tay ngẩng nhìn”, như sau:
“Tôi đặt chân lên đất Ấn để thăm
xứ Rajasthan kiều diễm như người đẹp ngủ trong rừng vào những ngày đầu đông rực
nắng năm 2010, khi nhân loại đang chuẩn bị đón mừng Tết dương lịch trong bầu
không khí hân hoan, háo hức đợi chờ. Cùng đi với tôi là gia đình người cô, em
ruột mẹ tôi gồm cô chú và con gái. Trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng đó,
cả 4 người chúng tôi không thật sự nghĩ là mình sẽ thực hiện được nổi chuyến đi
đầy gian lao thử thách này ngay từ lúc khăn gói lên đường.
Đã gần 1 tháng xa quê, xa nhà, xa
bà con, xa bè bạn thân thương, v.v...Con đường dài hun hút của những tháng ngày
lang thang, phiêu bạt qua nhiều vùng trời mơ ước, nhiều học hỏi, lắm đam mê,
lắm khám phá. Nhưng lắm khi cũng buồn dâng tê tái, vì những mâu thuẫn thật khó
hiểu trong xã hội Ấn, cùng mức chênh lệch giàu nghèo ở đây thật quá xa. Nơi mà
mọi người chúng ta cần nên đến trong đời, để cảm nhận được khoảng cách giữa
thiên đường hạ giới và địa ngục trần gian, nó mong manh như một sợi tóc. Thoắt
ẩn, thoắt hiện, tất cả dường như chỉ lướt qua trong nháy mắt.
Nói đến cõi thiên đường và chín
tầng hỏa ngục làm tôi sực nhớ đến một câu chuyện dụ ngôn ngụ ý cao thâm mà tôi
đã từng đọc ở đâu đó, đến bây giờ vẫn mãi chưa quên. Truyện kể về một cụ già hơn trăm tuổi được một nhà báo phỏng vấn hỏi bí quyết sống trường thọ,lạc quan
yêu đời của cụ. ‘Có gì đâu’, cụ cười, ‘sáng nào tôi cũng hỏi mình hôm
nay nên ở thiên đàng hay ở địa ngục, vậy thôi. Lưỡng lự một
chút rồi tôi chọn thiên đàng’. Nó đơn giản như một cái công tắc, chỉ cần bật
qua bật lại là đã vụt biến mất. Và tôi lại không khỏi nhớ đến trò chơi rồng rắn
mà lũ trẻ con trong xóm tôi vẫn thường nghêu ngao hát khi còn ấu thơ:
“Thiên
đàng địa ngục hai bên,
Ai khôn
thì nhờ, ai dại thì xa.
Đêm nằm
nhớ Chúa nhớ Cha,
Đọc kinh
cầu nguyện kẻo xa linh hồn.
Linh hồn
giữ đạo cho tròn,
Đến khi
gần thác được lên thiên đàng.”
Ấn tượng ngày đầu của tôi về một
Ấn Độ diệu kỳ luôn là thế. Mà đã đến rồi thì sẽ không bao giờ quên được. Ở miền
đất thánh thiêng này, quê hương của Đức Phật, người dân nơi đây có thể bỏ hết
tất cả, không quan tâm tới của cải vật chất vì tín ngưỡng, thì cũng có không ít
những con người sống lây lất bên lề xã hội. Họ không thể khổ hơn nữa, để mà
quan tâm tới vật chất.
Từ ánh mắt cam phận của 2 ông
cháu gầy còm trong nhóm biểu diễn múa lửa, nhảy vòng khi họ được gọi đến diễn
cho chúng tôi xem trong một buổi tối tại khách sạn. Dáng điệu họ thật khốn khổ,
ánh mắt họ thật nhẫn nhục, và chỉ lâu lâu mới len lén liếc nhìn lên những thực
khách béo tốt đang ngồi xem trên kia. Không phải là bị ám ảnh, nhưng sao tôi
vẫn nhớ đến ánh mắt u hoài đó.
Rồi còn những đoàn tàu xe lửa lúc
nào cũng đông đặc kẻ đứng người ngồi, đu bám trên nóc, trên thành, bên cửa toa
xe. Tiếp nữa là ấn tượng về những con quạ to lớn thật đáng ghét suốt ngày cứ quang
quác, quàng quạc ầm ĩ từ sáng sớm cho đến tối mịt, dù nơi tôi ở là một khách
sạn 5 sao hạng sang ở thành phố Agra.
Theo thời gian, tôi lớn khôn thêm
chút đỉnh, và học hỏi được nhiều qua cuộc sống với những va chạm trong đời
thường, qua những lần vấp ngã, những lúc thất bại, qua những chuyến đi du lịch
bụi, để đi sâu vào thượng tầng văn hóa Ấn Độ. Để biết rằng nếu như bạn muốn tìm
một nơi có những hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau, thì sẽ không có nơi nào
hơn xứ Ấn Độ.
Bên cạnh những căn nhà ổ chuột
bẩn thỉu, đói nghèo là các lâu đài tráng lệ của những tay tỷ phú giàu sang nhất
thế giới. Bên cạnh những mảnh đời hẩm hiu chỉ biết lo kiếm miếng cơm manh áo
cho ngày mai, là những công trình to lớn, vĩ đại đến nghẹn thở. Nếu đến Ấn Độ
để thăm thánh tích Phật giáo, bạn sẽ rất thỏa mãn và còn muốn quay lại đây thêm
nhiều lần. Nhưng nếu chỉ đến để hưởng thụ cuộc sống không thôi, thì bạn sẽ phải
khóc thét lên, và chạy khỏi Ấn Độ ngay từ khi bước chân xuống phi trường.
Thế nhưng, nếu biết kiên nhẫn
chấp nhận vượt qua cảnh đói nghèo, bẩn thỉu, hôi hám, bạn sẽ ngất ngây trước
cái đẹp vô song của rặng Tuyết Sơn (Himalayas) hùng vĩ, và của các thắng cảnh
thần tiên khác trên đất nước này. Đó là lý do tại sao mà tôi vẫn ao
ước được quay lại thăm xứ Ấn thêm một lần nữa trong quãng đời còn lại của mình,
nếu điều kiện cho phép.
Thật vậy, Ấn Độ hiện đang là một
thiên đường chứa đầy tiềm năng phát triển du lịch. Mặc dù đường xá kém mở mang,
điều kiện vệ sinh hạn chế, nhưng nhờ sở hữu một nền văn minh lâu đời, một nền
văn hóa thâm hậu và những công trình kiến trúc xuất sắc mà Ấn Độ bao giờ cũng
thu hút hàng triệu khách du lịch đến thăm xứ sở mỗi năm. Miễn là họ biết chấp
nhận cái thực tế phũ phàng: đây là một thế giới hoàn toàn khác lạ với xã hội Âu
Mỹ mà họ đang sống, vì tự nó đã là một thế giới rực rỡ muôn màu.
Ngay như tại Thủ đô Tân Delhi
kia, nơi được xem là Paris của Ấn Độ, có vô số những con người sống trong cảnh
lầm than bên những túp lều bạt rách tươm, không có chút vệ sinh hay tiện nghi
tối thiểu. Có người còn cho rằng muốn biết tầng đầu địa ngục hình dáng thế nào
dưỡi cõi trần thì xin hãy dừng chân ghé thăm Thủ đô Delhi hay bất kỳ thành phố
nào đó trên đất Ấn Độ nghèo khổ này.
Thế mà phần lớn khách du lịch đến
đây lại quay mặt dửng dưng, dường như không muốn biết đến cảnh địa ngục trần
gian đó. Họ xếp hàng nối đuôi nhau đi tham quan những lăng tẩm cổ kính, những
cung điện huy hoàng, những thành quách vĩ đại của vua chúa xây trên xương máu
người dân trong các thế kỷ trước.
Ấn Độ của quá khứ không hề thiếu
các vua chúa bạo phát bạo tàn ấy. Đó là xứ sở của các tiểu vương cai trị nhiều
khi không quá ‘vài vạn nóc nhà’, như cách đếm dân ngày xưa hay nói. Vua chúa Ấn
Độ cũng không hề dè sẻn trong các công trình xây dựng. Họ cần lâu
đài cho mùa hè lẫn mùa đông, cho chính hậu cũng như thứ phi, cho hoàng tử và
công chúa.
Dân Ấn Độ thì đông và sẵn sàng è
cổ ra chịu đựng, cát đá thì nhiều và dễ khai thác, nhất là loại đá cẩm thạch
trắng muốt, trong suốt như pha lê lừng danh thế giới. Nghệ nhân Ấn Độ rất khéo
tay, thông minh, giàu tưởng tượng và sẵn sàng quên mình cho các vị thần linh
của Ấn giáo. Vì những lẽ đó mà các công trình xây dựng to lớn của Ấn Độ ở đâu
cũng có, ở đâu cũng là những kỳ quan, thu hút rất đông du khách, mùa hè cũng
như mùa đông. (X. Hải
Triều Ý Tâm, Ấn Độ - thiên-đường và địa
ngục?! nxb Hồng Đức 2017)
Hôm
nay, bần đạo bầy tôi đây, xin đề nghị một truyện kể tuy không “dễ nể” cho lắm,
nhưng cũng gọi là để minh-hoạ cho vấn đề mình nêu ra. Vậy, xin mời bạn/mời tôi,
ta hãy cứ vểnh tai ra mà nghe kể những câu truyện như sau:
“Có nông dân nọ đang vội vàng trên đường cùng con ngựa và
con chó của mình. Thình lình sét đánh giết chết tất cả họ. Như nhiều linh hồn
mới chết khác, họ chẳng biết mình đã chết và cứ tiếp tục đi.
Họ tiếp tục đi dưới mặt trời thiêu đốt. Họ ướt đẫm mồ hôi
và khát không chịu nổi. Họ sau đó nhìn thấy một cánh cổng đẹp đẽ dẫn đến một
quảng trường chiếu sáng rực rỡ. Có một dòng suối trong vắt ở giữa quảng trường
đó. Ông vội vã chạy đến và chào người giữ cửa: “Nơi đẹp đẽ này là nơi nào vậy?”
-Thiên đàng. Người gác cổng nói một cách thân thiện. Thật
là tốt quá. Chúng tôi đều đang rất khát nước. Chúng tôi có thể đi vào trong và
uống một chút nước không?
-Ông có thể vào, nhưng con ngựa và con chó của ông thì
không được. Chúng tôi không cho phép động vật vào trong.
-Ồ, thế thì quên chuyện đó đi vậy”.
Người nông dân không đành bỏ lại con ngựa và con chó. Họ
vì thế tiếp tục đi tìm nước uống. Sau khi đi khá lâu, ông tìm thấy một nơi có
nguồn nước. Cũng lại có một người đang canh giữ cánh cổng.
-Xin chào, tôi và con ngựa, con chó của tôi có thể uống
nước ở đây được không?
-Cứ việc”, người gác cổng nói.
Sau khi họ uống thỏa thích, người nông dân nói cảm ơn
người gác cổng và hỏi anh ta:
-Nơi này là nơi nào thế?
-Thiên đàng. Người nông dân bối rối:
-Lẽ nào lại thế! Chúng tôi vừa đi ngang qua một cánh cổng
đẹp đẽ và người gác cổng ở đó bảo rằng nơi ấy là thiên đường mà.
-Đó là địa ngục, người gác cổng trả lời.
-Chúa ơi, anh nên ngăn cấm họ làm người khác lầm lẫn như
thế. Người ta sẽ bị lừa.
-Không chắc nữa, người gác cổng nói. Chúng tôi nên cảm ơn
sự giúp đỡ của họ, bởi họ sẽ giữ những kẻ bỏ rơi bạn bè ở lại đó.
Kể
thế xong, nay thiết nghĩ cũng nên mời bạn và mời tôi, ta trích-dẫn tiếp lời đấng
thánh-hiền từng khẳng-định rằng:
“Những ai Thiên Chúa đã tiền định,
thì Ngài cũng kêu gọi;
những ai Ngài đã kêu gọi,
thì Ngài cũng làm cho nên công chính;
những ai Ngài đã làm cho nên công
chính,
thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh
quang.”
(Rôma
8: 30)
Cùng
với đấng bậc hiển-thánh, khẳng-định về một sự thật để đời rồi, nay tưởng cũng
nên hiên ngang hướng về phía trước mà hát những lời ca rất sáng mà kết thúc câu
chuyện thiên-đường/địa ngục, rất nên duyên:
“Thiên
đường là đây là cuộc tình mãi thiết tha ngàn thu
Là lời nồng ấm trái tim thủy chung muôn kiếp
Thiên đường là đây là ngày chẳng biết nỗi đau buồn chi
Thiên đường là đây là nụ cười mãi thắm trên bờ môi
Thiên đường là đây từ ngày được thấy chúng ta gần nhau.
Bao đắm say, thiên đường là đây...”
(Lê Xuân Trường – bđd)
Trần Ngọc Mười Hai
Nay nhất quyết hiểu như thế
và làm thế,
mãi về sau.
No comments:
Post a Comment