Saturday, 1 April 2017
“Từ một giấc mơ tôi gặp em niềm vui vỡ bờ”
Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thánh năm
A 10/4/2017
“Từ một giấc mơ
tôi gặp em niềm vui vỡ bờ”
“Từ một giấc mơ, tôi về trên ngõ cũ
ngày nào
Trông vời em dáng áo nhạt màu
Cho lòng thấy đời tôi
còn em như giấc mơ.
(Anh
Việt Thu – Từ Một Giấc Mơ)
(Mt
21: 28-32)
Giấc
mơ ấy. Ước vọng này. Hôm nay, vẫn quay về với người trong cuộc ở ngoài đời và trong
Đạo. “Giấc Mơ” nào đây, hỡi nghững người “về trên ngõ cũ ngày nào” trong đời sống.
Để thấy “đời tôi còn em như giấc mơ.”
Giấc mơ hay mộng ước, cũng đều là những mộng và những ước mọi sự trở thành hiện
thực. Giấc mơ, của người nghệ-sĩ thì thế này:
“Em
như trái cấm đậu vườn thiên thai
Ngập
ngừng chân ai quên chiều nay đời du tử
Em
như tiếng suối dạt dào khôn nguôi
Tràn
ngập tim tôi một trời xa xôi
Khi
bờ môi còn khô tiếng cười
Tôi
như nắng cháy ngoài đồng khô khan
Cỏ
buồn hoang mang mong giọt mưa về thăm hỏi
Tôi
như cánh lá rụng vàng quanh sân
Chiều
nào gió đến một mình bâng khuâng
Bao
giờ mang tình tôi tới người.
(Anh Việt Thu – bđd)
Còn,
giấc mơ của đấng bậc vị vọng trong chốn chóp bu của Giáo-hội, lại được diễn-tả
như sau:
“Hôm ấy, đọc xong Tin Mừng theo thánh
Mátthêu đoạn 21 câu 28-32, Đức Phanxicô đã diễn-giải về thiên-chức linh-mục với
lời căn-dặn, bảo rằng: Linh-mục nào thấy chỉ mỗi mình làm đúng lẽ phải, rồi tìm
cách tri-thức-hoá tôn-giáo, thì các vị ấy rồi ra cũng sẽ kết-thúc đời mình bằng
những sự/việc gây tổn-thương và khai-trừ người phạm tội, khi họ thực-sự hối-lỗi.
Đức Giáo-hoàng cũng nói: các linh-mục/tư-tế như thế chỉ biết chống-đỡ cho các luật
do mình tạo, nhưng lại xoá sạch lề-lối Thiên-Chúa lập ra khi Ngài truyền cho
Abraham: hãy ra đi khi Ta đang hiện-diện và sống không chút tì-vết nào hết.” (X. Carol Glatz, Priestly Vanity Ruins Mission: Warns Francis, The Catholic Weekly
25/12/2016 tr. 20)
“Từ một giấc mơ” hay từ một ước vọng là mình sẽ đi đến
hiện-thực, là cả một quãng đường dài cũng rất khó. Khó đo đạc hoặc cân đong cả với
thời-gian và không-gian, lẫn ý-chí rất đường dài. Đo hay đếm, vẫn là những thứ
cần thực-hiện bằng lời nguyện cầu, khá thâm sâu.
Và
hôm nay, đi vào thực-hiện “một giấc mơ” nhờ nguyện-cầu là thực-trạng tâm-linh
có nguyện và có cầu thật, nhưng không âu-sầu, ủ-rũ. Trái lại, vẫn quyết-tâm đeo
đuổi một “giấc mơ” hoặc “ước vọng” rất mong chờ. Mong và chờ, sự thể mình vẫn ước-nguyện
được trở-thành hiện-thực.
Nguyện-cầu
cho ước vọng “từ một giấc mơ” của mình thành hiện-thực, lại có đấng bậc khác cũng
rất tên tuổi trong Đạo Chúa từng có lời nhận-định như sau:
“Thế nào là nguyện cầu cho ước vọng của
mình ư?
Nguyện cầu bao giờ cũng mang khía-cạnh
thần-thoại, bí-ẩn hết. Nói cách khác, thì đó là trải-nghiệm về sự hiện-diện của
Thiên-Chúa. Như thế, tức là: công-nhận Thiên-Chúa đích-thực hiện hữu. Như thế
đã là nguyện cầu. Thế nhưng, nguyện cầu lại cũng có khía cạnh của một thỉnh-nguyện,
như ta thấy rõ ở “Kinh Lạy Cha”.
Khi ta khẩn cầu và nguyện-ước
Thied6n-Chúa cho Nước Trời của Ngài mau đến; ta lại mong ước Ngài thực-hiện ý-định
của Ngài; rồi ta yêu-cầu Ngài thứ-tha mọi lội tội và cầu mong cho có đủ thức ăn
bổ dưỡng hằng ngày, thì đó là yêu cầu, là mộng ước. Nguyện cầu ở các đạo độc-thần
luôn mang đặc-trưng của những yêu-cầu và đòi hỏi. Ta thường đòi hỏi nhiều điều
và nhiều thứ cho chính mình khi ta yêu cầu Nước Trời mau đến, tức những phúc hạnh
của con người và cho con người, nhưng hoàn toàn bỏ mặc sự hiện-diện tuyệt-đối của
Thiên-Chúa. Trong nguyện cầu, có hai khía-cạnh luôn có ở đó: một, là ngợi ca
Thiên-Chúa bằng việc chấp-nhận Ngài hiện-diện cách tuyệt-đối, và khía-cạnh kia
là đòi hỏi thứ gì đó cho mình và cho người.”
(X. Edward
Schillebeeckx, I am a Happy Theologian, SCM
Press Ltd 1993, thì đó là sự trải-nghiệm r. 60)
Thế
đó là nguyện và cầu, xuất “từ một giấc mơ”. Thế đó là sự thật về những nguyện
và cầu rất ước và rất mơ. Thật ra thì, mỗi khi nguyện và cầu, ít co ai để ý đến
vế trước, tức: chuyên chăm ngợi ca Thiên-Chúa mà chấp-nhận Ngài hiện-diện cái
đã, rồi mới đi vào hiện-thực việc gì đó cho người đời.
Lại
có một sư thật khác nữa, là: khi nguyện cầu, người người thường có thói quen chạy
đến với Mẹ Hiền là Đức Maria. Người người lại cứ coi Mẹ Hiền nhiều quyền-thế
hơn cả Người Con, tức Đức GIêsu rất Con Người. Và, đấng bậc vị vọng nói ở trên,
lại đã định-nghĩa Đức Maria rất thương mến như Chị Cả của tín-hữu, như sau:
“Sau khi Công Đồng Vatican II kết thúc,
Giáo-hội ta cũng ít bàn về Maria-học. Nay, thì Giáo hội nhấn mạnh nhiều vào tương-quan
giữa Đức Maria và Chúa Thánh Linh. Đức Maria đây, là Đức Maria ở Tin Mừng qua các
câu truyện về thời thơ-ấu của Đức GIêsu. Từ các truyện ấy, ta có nền-tảng của
ngành Maria-học, đặc biệt là Tin Mừng thánh Gioan đề-cập nhiều về mối
tương-quan giữa Đức Maria và Thánh Thần Chúa. Đây lại là mẫu số chung thấy được
ở các giáo-hội khác nữa. Sự thật thì các danh-xưng chỉ về Đức Maria đều là tên
gọi của Giáo-hội. Mọi tước hiệu trong các kinh cầu lâu nay cũng qui về Giáo-hội
của Chúa. Đối với riêng tôi, thì danh-xưng của Giáo-hội đều xuất từ danh-xưng
có từ thuyết thần-linh, mà thôi. (X.
Edward Schillebeeckx, sđd, tr. 61-62)
Kể
cũng lạ. Nghệ-sĩ nhà mình đã đoán già/đoán non về một tình-huống thân quen của
người đời đi Đạo, cũng xục-xạo khắp chốn để tỏ-bày về “một Giấc Mơ” đối với Mẹ Hiền hoặc Người-Cha-Trên-Trời, bằng lời
thi-ca đậm-đà tình-tiết, rất như sau:
“Em
nhung với gấm về từ xa xăm.
Làm
đẹp nhân gian, nên vườn tôi còn xanh mãi.
Tôi
ôm phiến đá ngồi chờ trăm năm.
Ngày
ngày khắc dấu thành từng câu ca.
Trên
đồi son tình tôi đã già.
Tôi
mơ thấy dáng người về trong tranh.
Huyền
hoặc mong manh, hương từ hoa là hơi thở.
Yêu
em đã hoá thành tù chung thân.
Từng
chiều vui chân đợi chờ không lâu.
Tôi
và em tình yêu bắt đầu.”
(Anh
Việt Thu – bđd)
“Từ Một Giấc Mơ”, có thể là ước vọng nói chung của
toàn thể nhóm/hội Đạo Chúa. Giấc mơ hay ước vọng, có được các đấng bậc vị vọng
trên cao trong nhà Đạo biết xin lỗi người khác, dù người ấy có là người đen-đủi/thấp
hèn mãi tận châu Phi hay đâu đó, như sự việc mới xảy ra trong Giáo hội của
Chúa, sau đây:
“Đức Thánh Cha xin tha thứ vì những lỗi
lầm của Giáo hội
ĐTC Phanxicô kêu gọi sự tha thứ đối với
‘những lỗi lầm cũng như thất bại’ của Giáo hội trong suốt cuộc diệt chủng
Rwanda.
Tòa Thánh đã công bố báo cáo sau cuộc
gặp gỡ của ĐTC Phanxicô với Tổng thống Paul Kagame.
Hôm nay, thứ Hai 20/3, ĐTC Phanxicô đã
kêu gọi sự tha thứ đối với “những lỗi lầm cũng như thất bại của Giáo Hội và các
thành viên của mình” trong cuộc diệt chủng năm 1994 của Rwanda đồng thời phát
biểu với tổng thống Rwanda rằng Ngài hy vọng lời xin lỗi của Ngài sẽ giúp đất
nước này có thể được chữa lành.
Trong một tuyên bố ngoại thường sau cuộc
gặp gỡ của ĐTC Phanxicô với Tổng thống, ông Rwanda Paul Kagame, Tòa Thánh thừa
nhận rằng một số linh mục và nữ tu Công giáo “đã bị đè bẹp bởi hận thù và bạo lực,
để rồi phản bội lại sứ mệnh Phúc Âm của mình” bằng cách tham gia vào cuộc diệt
chủng.
Trong cuộc diệt chủng kéo dài 100
ngày, hơn 800.000 người thuộc dân tộc Tutsis và Hutus ôn hòa đã bị các phần tử
cực đoan người Hutu giết hại.
Nhiều người trong số các nạn nhân đã bị
sát hại dưới bàn tay của các linh mục, tu sĩ và nữ tu, theo tường thuật của những
người sống sót, và chính phủ Rwanda cho biết nhiều người đã phải thiệt mạng
trong các nhà thờ nơi họ tìm kiếm nơi ẩn náu.
Tòa Thánh cho biết ĐTC Phanxicô “đã
bày tỏ ước muốn rằng sự thừa nhận khiêm tốn về những lỗi lầm cũng như những thất
bại của thời kỳ đó – vốn chẳng may đã làm biến dạng diện mạo của Giáo hội – có
thể góp phần làm ‘thanh lọc những kí ức đau buồn’ đồng thời có thể thúc đẩy – bằng
niềm hy vọng và canh tân sự tin tưởng – một tương lai Hòa bình”.
Tuyên bố của Tòa Thánh đã được chính
các Giám mục Công giáo Rwanda đưa ra trong năm qua sau lời xin lỗi chính thức
năm ngoái vì “tất cả những sai lầm mà Giáo hội đã mắc phải”.
Trong những năm sau đó, Giáo Hội Công
giáo địa phương đã phản đối những nỗ lực của chính phủ và các nhóm nạn nhân nhằm
thừa nhận sự đồng lõa của Giáo hội trong các vụ giết người hàng loạt, đồng thời
cho biết các quan chức Giáo hội – những người gây ra các tội ác trên – đã hành
động một cách riêng lẻ.
Tòa Thánh cho biết ĐTC Phanxicô đã bày
tỏ nỗi buồn sâu sắc của Tòa Thánh và Giáo hội đối với tội diệt chủng đồng thời
bày tỏ sự liên đới với các nạn nhân.
“Gợi nhớ cử chỉ của Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II trong suốt Đại Năm Thánh 2000, một lần nữa ĐTC Phanxicô đã nài
xin sự tha thứ của Thiên Chúa đối với những lỗi lầm cũng như những thất bại của
Giáo Hội và các thành viên của Giáo Hội”.
(Minh Tuệ - theo Catholic Herald)
“Từ Một Giấc Mơ”, là những giấc mộng khá lơ-mơ/lờ mờ
không ra đâu vào đâu. Nhưng đó vẫn là những giấc “mộng/mơ” của nhiều người. Có
thể là những người chỉ biết mộng và biết mơ, mà thôi. Mộng, là ước mộng những sự
tốt đẹp trở thành hiện thực. Và, mơ là mơ một trời mới/đất mới trong đó mọi người
sống gần nhau, bên nhau trong cõi mộng nhưng lại rất mơ về cuộc đời thực-tế ở
chốn gian trần.
“Từ Một Giấc Mơ” đây, cũng có thể là nội-dung/ý-nghĩa rất
thực của truyện kể nhẹ ở bên dưới:
“Truyện rằng:
Có hai anh chàng thanh niên sống ở nhà
quê cùng rủ nhau lên tỉnh thành lập nghiệp vì họ thấy rằng cuộc sống ở quê nhà
chỉ vừa đủ ăn, không dư giả, Sau thời-gian dài phấn đấu hơn 30 năm ở tỉnh
thành, hai người đã tạo lập được một cuộc sống sung-túc về vật chất. Anh A trở-thành
chủ một hang xe đò, anh B có hơn 2/3 cổ-phần trong một nhà máy dệt.
Vì là bạn nối khố từ nhỏ nên sau khi thành-công
trên đường sự nghiệp, hai người vẫn tiếp-tục chơi thân với nhau.
Một hôm, hai người bỗng này ra ý-định
trở về quê nhà nơi họ chôn nhau cắt rốn, trước là để thăm lại đình làng bé nhỏ
trước kia, sau là để thực-hiện giấc mơ hồi hương áo gấm về làng như những quan
Trạng ngày xưa.
Khi xe hơi chở họ về đến đầu làng, cả
hai cùng rủ nhau xuống đi bộ vừa ngắm cảnh vừa chuyện trò. Đến trước đình làng,
hai người gặp một ông lão mặc áo trắng, tay cầm chiếc phèng la. Anh A cất tiếng
hỏi:
-Ông lão ơi, ông đang làm gì vậy?
Ông lãi điềm nhiên trả lời:
-Ta là Thành hoàng giữ phúc phần cho
làng này, ngoài việc giữ yên ổn cho dân làng, ta cũng cai quản vấn đề sinh tử của
mọi người nữa. Ta đến báo cho hai người biết là mạng sống của các người chỉ còn
ba ngày. Ba ngày sau ta sẽ đến đón hai người về cõi âm. Khi ta nổi một hồi
phèng la thì hai người phải đi theo ta để về trình-diện ngài Diêm-vương mà
không được chậm trễ.
Nói xong, ông lão biến mất để lại hai
anh chàng đứng ngẩn người như ngây như dại. Thử tưởng-tượng ngày áo gấm về làng
cũng là ngày biết được cuộc đời chỉ còn ba ngày cuối cùng thì ai không đâm ra
hoảng-hốt.
Anh A thấy rằng cuộc đời nhạt-nhẽo
không còn gì gọi là thú vị, 30 năm phấn đấu để cuối cùng đổi lấy cái chết cận kề
trong khoảnh khắc.
Về đến nhà, anh ta ăn không ngon ngủ
không yên, mà cũng chẳng lo sắp xếp được gì cả. Đến lúc bấy giờ anh mới nghiệm
ra rằng dù tiền bạc có nhiều ức vạn đi nữa cũng không thể nào đánh đổi được
sinh mạng đáng quý.
Chưa đến ba ngày, thần sắc của anh
bơ-phờ như một thây ma, mặt anh đầy những vết nhăn, râu ria mọc lún phún, cặp mắt
thì đờ đẫn, thất thần. Ngày thứ ba, anh thức dậy thật sớm, lựa ra bộ đồ sang trọng
đắt tiền nhất mặc vào người và đứng trước cửa đợi lão tử thần đến trước.
Chiều tối hôm đó, quả thật anh thấy
ông lãi mặc áo trắng, tay cầm phèng la ngày hyo6m trước xuất-hiện. Ông lão chưa
kịp going lên hồi phèng là thì anh A đã lăn đùng ra chết. Vì quá khẩn trương
nên ba ngày cuối cùng của anh đã mỏi mòn trong sự chờ đợi, do đó khi thấy thần
chết xuất-hiện là anh xuất hồn đi theo ngay lập tức.
Trở lại phần anh B, sau khi nghe vị thần
chết tuyên bố bản án tử-hình, anh cũng thấy mủi lòng. Thế nhưng, tánh tình của
anh B vốn rất an-phận, anh nghĩ rằng nếu như số mạng của anh có đi đến chỗ chấm
dứt thì không có cách nào thoát được. Vì nghĩ như vậy, nên anh mang tất cả tiền
bạc đã tạo dựng trong 30 năm ra làm của bố thí. Trước hết, anh cất một trường học
ở quew6 nhà để giúp cho trẻ em nghèo khổ có nơi học hành. Sau đó, anh giao tiền
cho quí vị hội-đồng xã xây-dựng một bệnh-xá nhằm giúp những người dân quê không
có tiền lên tỉnh thành trị bệnh.
Của cải còn lại, anh mang ra phụ giúp
việc xây đường, dựng cầu mang lại tiện-ích cho cuộc sống của người dân thôn-dã.
Anh cũng trích ra một phần để giúp đỡ những gia-đình đông con không đủ sống
đang cần sự trợ giúp tức thời.
Những công việc này đã tốn hết thời
gian của anh. Anh B không còn thì giờ để nghĩ đến cái chết sắp sửa xảy ra cho
anh nữa. Những người dân nghèo khổ trong làng đột nhiên nhận được bố thí lơn
láo nên họ rấy lấy làm cảm kích. Những người được giúp đỡ, đã tỏ lòng biết ơn họ
bằng cách tổ-chức buổi hát ngoài trời, trước là để tạ ơn thần, sau là để tri-ân
nhà mạnh-thường-quân tốt bụng. Đoàn múa lân của trẻ trong làng đã đến trước nhà
anh B tưng bừng múa giúp vui. Khi mọi người đang hoan hỉ đứng xem thì ông lão tử-thần
xuất-hiện vì đã đến giờ ông ta đến đón anh B về âm-phủ.
Thế nhưng, không hí trước nhà anh B
lúc đó quá vui nhộn cho nên mọi người, kể cả anh B cũng không chú ý đế sự xuất-hiện
của người lạ mặt này. Thậm chí có một chàng trai trong làng thấy ông lão tay cầm
phèng la đã tưởng nhầm ông là một thành-viên của đoàn múa lân nên kéo ông ta sắp
vào hang ngũ những người đánh trống thổi kèn.
Ông già tử-thần gióng thêm một hồi
phèng la gọi hồn, thế nhưng vì không khí đang huyên-náo cho nên tiếng phèng la
của ông bị tiếng trống múa lân át mất. Ông già tử-thần cố gắng thử thêm ba lần
nữa cũng chẳng ai them chú ý đến. Vì đã đến giờ nên ông buộc lòng phải ra đi.
Anh B suốt đêm hôm đó được dân làng đãi đằng ăn uống thật thịnh-soạn.
Dân chúng trong làng lâu nay mới có một
dịp cùng nhau vui vẻ cho nên ai ai cũng liên-hoan cho đến sáng. Sáng ngày hôm
sau, anh B cứ tiếp-tục thực-hiện những công việc dở-dang mà anh sắp xếp để phục-vụ
cho dân trong làng. Công việc bận rộn liên-tục đã khiến anh quên khuấy mất cái
hẹn ba ngày của ông Thành hoàng. Mãi hai ba hôm sau, khi sực nhớ lại, anh lấy
làm lạ tại sao đã quá hạn-kỳ mà không thấy thần-chết xuất-hiện.
Anh đâu biết rằng ông lão có đến nhưng
không ai them nghe hồi phèng la của ông nên đã buộc lòng phải bỏ đi. Nhờ vậy mà
anh B mới còn tiếp-tục sống dài dài ra đó.” (Người viết truyện: Lâm Thanh Tuyền- Đài Loan)
Và
tiếp theo, là lời bàn của người kể: “Đây
là câu chuyện ngụ ngôn rất có ý-nghiã, nói lên chân-lý cuộc sống của con người
là phải phấn-đấu từng giây mãi cho đến phút cuối của cuộc đời. Xu-hướng tiến
lên sẽ đưa ta đi về đâu? Dĩ nhiên là ta sẽ đi đến chỗ ta hằng mong muốn. Phật-giáo
đồ sẽ đi đến thế-giới Cực lạc, còn con chiên Thiên-CHúa giáo sẽ lên Thiên-đàng…
Thật
ra thì, triết-lý cuộc đời không hẳn chỉ như thế. Nhưng, truyện kẻ ở đây cũng
nói lên được thái-độ của mỗi người là “Từ Một Giấc Mơ” nào đó, cho đời mình. Thế
đó, là ý-nghĩa của câu hát thời thượng “Từ
Một Giấc Mơ”… rất hôm nay. Và suốt mọi ngày trong cuộc đời, của bạn và tôi.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những ý-tưởng cũng xuất phát
Từ Một Giấc Mơ
Như bao giờ.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment