Saturday, 22 April 2017
“Quê em miền thuỳ dương”
Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 3 Phục
Sinh năm A 30/4/2017
“Quê em miền thuỳ dương”
Lúa ngọt ngào hoa mới
Gió mang mùa Xuân tới
Hôn liếp dừa lên hương
Hương thơm tràn muôn lối.”
(Hoàng
Trọng – Mộng Ban Đầu)
(Thư thứ nhất Phêrô 2: 11-17)
Nói về “Mộng Ban Đầu”, mà lại tả quê em với quê anh, nghe chẳng
thấy gì là mộng mơ/mơ mộng thời đầu hết. “Gió
mang mùa xuân tới”, “Hương thơm tràn muôn lối”, ôi! đã chắc gì được như thế?
Thôi thì, nay lại xin mời bạn và nời tôi, ta nghe thêm câu hát tiếp, để rồi sẽ biết:
“Quê
em dậy bình minh
Nắng
đẹp lòng thôn xóm
Quán
tranh hiền vui đón
Bên
bát nước chè xanh
Chan
chứa mộng yên lành.
Nhớ
về thăm em nhé!
Đừng
than nỗi đường xa
Đây
tiếng hát câu hò
Đang
canh cánh mong chờ
Anh
nhớ về anh nhé!
Hôm
qua buồn nhìn đâu
Thoáng
mẹ già nom thấy
Hỏi
con chờ ai đấy?
Em
níu lấy cành dâu
Che
dấu mộng ban đầu.”
(Hoàng Trọng – bđd)
Mỗi
lần nghe hát nhạc của Hoàng Trọng, là y như rằng sẽ có nhiều bạn giống như tôi,
cứ như muốn ra sàn nhảy lả lướt đôi điệu “tango”, cho đỡ nhớ. Thôi thì, để rồi bạn
và tôi, ta đề-cập chuyện này trong chốc lát. Nay, ta bàn và bạc xem “quê tôi”
và “quê bạn” có còn những điều như thế, nữa hay không?
Nay,
ta thử bước vào nhà Đạo, xem người đi Đạo mình có còn làm những cử chỉ như thủ-thuật/phù-phép
xưa như trái đất, mà chẳng biết đến ý-nghĩa và dụng đích của nó. Hãy cứ nghe
người đi Đạo hỏi đấng bậc vị vọng những chuyện mình thường làm, nhưng không hiểu
ý-nghĩa của nó làm sao hết:
“Thưa
Cha,
Con có đứa con gái nhỏ mới đây có hỏi:
sao mẹ và những người đi nhà thờ hay vảy vảy thứ nước đừng trong bồn đá khi bước
vào nhà thờ, hoài vậy? Con đây, không biết trả lời sao cho đúng cách, nên mạo
muội viết ra đây xin cha giúp con giải-quyết. Con cảm ơn cha rất nhiều.”
Và cứ
thế, mỗi lần đấng bậc được hỏi những câu về luật-lệ trong đạo hoặc về giáo-lý/phụng
vụ hoặc những thứ như là tín/lý/giáo-điều đều thích-chí ghi ngay câu trả lời
dài ở bên dưới, mà rằng:
“Tự làm phép lên người mình bằng cách cứ
“vẩy vẩy nước thánh” vào trán và mồm miệng, là có nhiều mục-đích và ý-nghĩa rất
phải lẽ lắm đấy, thưa chị. Trước nhất, là việc ta hãy trở về thời Cựu Ước khi
đó mọi người đều dấn thân vào với chuyện thờ phụng Thiên Chúa theo cung cách
khác nhau, chẳng hạn chuyện rửa ráy chính mình bằng nước để được thanh-sạch cho
sinh-hoạt thiêng-liêng trong đạo.
Ta thấy sự việc này rõ ràng được mô-tả
trong sách Xuất Hành, qua đó Thiên-Chúa ra lệnh cho tổ-phụ Môsê những điều như
sau: “Ngươi sẽ làm một
cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng dùng vào việc tẩy rửa; ngươi sẽ đặt cái vạc
đó giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ. Ngươi sẽ đổ nước vào đó; Aharon và các con ông
sẽ dùng nước đó mà tẩy rửa tay chân.
Khi
vào Lều Hội Ngộ, họ sẽ lấy nước đó mà tẩy rửa để khỏi phải chết; hoặc khi tiến
đến bàn thờ để hành lễ, để đốt của lễ hoả-tế mà dâng Đức Chúa, thì cũng vậy.” Vạc đồng có đế, thật cũng giống như bồn nước
thánh ở mọi nhà thờ. Nó được đặt trước bàn cúng tế cũng giống như việc đặt bồn
nước thánh ngang cửa vào nhà thờ vậy.
Thói quen này vẫn được duy-trì vào thời
Hội-thái tiên-khởi, nơi đó luôn có bồn nước đặt ngay cửa vào đền thánh như thế
mọi người có thể rửa tay cho sạch trước khi bước vào. Vào thế kỷ đầu, các nhà
thờ đều có đặt một chậu thông bằng đồng cao 4 thước, đặt cạnh Pantheon ở Rôma.
Và về sau, quan-chức trong Giáo-hội đã
dời về sân sau của Vương Cung Thánh Đường đầu tiên kính thánh Phêrô. Nay chậu đồng
được đặt tại nơi gọi là “Cortile della Pigna”, tức sân sau chậu đồng ở viện Bảo
tàng Vatican…
Vào các thế kỷ kế tiếp, việc sử-dụng
nước không chỉ để rửa ráy bên ngoài mà thôi, nhưng còn để thanh-tẩy đầu óc và
tâm can nữa. Đến thế-kỷ thứ 9, Đức Lêô IV (847-855) ra lệnh cho các linh-mục rảy
nước thánh ban phúc lành và thanh tẩy mọi người vào trước giờ lễ, một thủ-tục gọi
là rẩy nước thánh được giữ đến ngày gần đây.
Đến thế kỷ thứ 16, thánh Carôlô Bôrômêô,
Giám mục thành Milan đưa ra thông-lệ thiết-lập bồn nước thánh bằng cẩm thạch hoặc
đá chắc không rạn nứt đặt nơi cột nhà thờ, bên trong nhà thờ phía tay phải những
người bước vào nhà thờ để ta rẩy nước thánh ban phép lành cho chính mình để
thanh tẩy đầu óc lẫn tâm-can cốt nhắc nhở ta về ơn rửa tội.
Và, cũng nhắc nhớ ta lập lại quyết-tâm
khi chịu thanh-tẩy. Và, mỗi khi rảy nước lên mình, ta làm dấu thánh giá bằng nước
thánh để nhắc nhở mình về Thập Giá Đức Kitô từng lĩnh nận để cứu-rỗi nhân-loại
và tưởng nhớ thánh-giá ta chịu trong hiệp-thông với Ngài.
Cuối cùng, khi làm dấu thánh giá đọc lời
Nhân Danh Cha Và Con Và Thánh Thần, ta tự nhắc nhở chính mình về Chúa Ba Ngôi
là nền-tảng sự thật niềm tin ta vẫn có. Xem như thế, thì: việc dung nước thánh
rẩy lên mình và làm dấu thánh không chỉ có gốc nguồn từ thói quen của người xưa
nhưng còn mang ý-nghĩa rất phong-phú, khi hành Đạo.” (X. Lm John Flader, From fountains to fonts: the evolution of
Holy Water blessing, The Catholic Weekly 23/4/2017 tr. 21)
Xem thế
thì, cũng là một công đôi việc, để trả lời thắc-mắc của người chị nào đó hỏi
han những thói quen áp-dụng tại nhà thờ, thì đấng bậc nhà mình lại cũng có dịp
giảng thêm một bài về lịch-sử giữ Đạo của người xưa.
Về
thói quen hay tập-tục của người xưa, ta vẫn quen dung mãi đến thời Công Đồng
Vatican 2 năm 1964, là những thói quen dọi lại từ tập-tục ngoài Đạo, ở Babylon.
Thiển nghĩ cũng chẳng cần tranh cãi về lịch-sử Đạo Chúa hoặc thói quen có từ
“dân ngoại”, cũng nên nhìn lại quá-khứ để có thêm một chút sử-tính, rất không
thừa.
Nói
xa nói gần chẳng qua nói thật khi ai đó biểu đồng tinh với người viết chuyện
dã-sử rất như sau:
“Vào thời xưa cũ, Đạo Chúa đã phải
giáp mặt đụng trận với ngoại-giáo Babylon theo nhiều hình thức khác nhau trong
khi chung sống thời Đế quốc La Mã kéo khá dài. Tín-hữu Đức Kitô thời tiên-khởi
từng chối-bỏ rằng mình chẳng có gì chung-đụng hoặc có cùng niềm tin hoặc lề
thói cũ/mới, chút nào hết.
Từ đó mới xảy ra nhiều cuộc bách-hại rất
phi-lý. Rất nhiều vị từng bị kết tội cách sai quấy, bị ném cho cọp beo ăn thịt,
hoặc bị thiêu đốt cho đến chết và nhiều hình-thức tra-tấn khác rất dã man.
Nhưng, kịp đến khi hoàng đế La Mã trở
về lại với Đạo Chúa, nhiều thói-tục đã thay đổi đến tận gốc. Hoàng đế khi ấy ra
lệnh chấm dứt mọi cuộc bách-hại hoặc hành hình trong đế-quốc của ông. Các Giám
mục được tái-tạo quyền-hành và phục-hồi danh-dự. Giáo-hội Chúa bắt đầu được
công-nhận uy-lực và quyền-bính trên khắp thế-giới.
Nhưng, để được thế, Giáo-hội cũng phải
trả giá rất đắt. Một trong những thứ đắt giá ấy là phải nhượng-bộ ngoại-giáo,
chấp-nhận nhiều thói-lệ và tập-tục làm của mình. Và từ đó, thay vì tách-biệt khỏi
thế-gian, Giáo hội Chúa trở-thành một phần của hệ-thống thế-trần, nhiều chuyện
lạ…” (Xem Ralph
Woodrow, Babylon Mystery Religion, Ralph
Woodrow 1981 tr. 11-12)
Cứ mỗi
lần nói về tập-tục nghi-lễ hoặc phụng-vụ trong Đạo, nhiều bạn đạo cứ bảo Đạo
Chúa bắt chước đạo của họ, rất nhiều điều. Chẳng cần biết, xưa rày ai theo ai,
Đạo nào nhượng-bộ tôn-giáo, chỉ biết rằng: muốn đi đến đại-kết tưởng cũng nên
chấp-nhận đôi điều của nhau, và cho nhau.
Vậy
nên, trước khi tiến đến giai-đoạn chung vui, chung sống hài-hoà như thế, tưởng
cũng nên quay về với bà ca hôm trước những hát rằng:
“Hôm
nay đợi chờ anh,
Hái
một cánh hoa thắm.
Ghép
bên lòng trong trắng.
Thơm
ngát hồn thơ xanh.
Thay
cho lời em nhắn.
Hương
thanh bình dài lâu,
Lúa
được mùa mưa nắng.
Gái
trai làng vui sống.
Quang
gánh nối lòng nhau.
Em
thấy mộng ban đầu.
Nhớ
về thăm em nhé!
Đừng
than nỗi đường xa.
Đây
tiếng hát câu hò.
Đang
canh cánh mong chờ.
Anh
nhớ về anh nhé!
Hôm
qua buồn nhìn đâu.
Thoáng
mẹ già nom thấy.
Hỏi
con chờ ai đấy?
Em
níu lấy cành dâu
Che
giấu mộng ban đầu.”
(Hoàng Trọng – bđd)
Mộng
ban đầu “về chung sống thân-thương/hài-hoà”, có gì đâu mà phải che với giấu? Có
che và giấu, cũng chỉ nên giấu và che những rắc-rối xảy ra nhiều tháng ngày
trong tranh-cãi ai đúng ai sai, rồi lại đi đến giết chóc, chém đầu người bị cho
là “rồi rắm” chuyện đạo.
Để minh
hoạ phần cho chuyện rắc rồi/cãi tranh trong đời người đi đạo ta đang bàn, có lẽ
cũng nên thêm một truyện kể ngăn ngắn, có hơi lạ như sau:
“Có vị khách đi mua sữa bò vào buổi
sang cuối tuần. Khi anh đi, thì gặp ngay người bán sữa đang có đó, ở ven đường.
Anh tiến đến gần và hỏi giá sữa.
Người bán trả lời:
-Thư quí khách, 1 chai 3 đồng, 3 chai
10 đồng.
Khách mua, chẳng cần tranh cãii làm gì
cho mất thì giờ, cứ cho tay vào túi rút ra 3 đồng bạc, và rồi anh làm thế đến 3
lần. Mua xong, anh đắc ý rồi cười lớn, nói với người bán sữa rằng:
-Đấy, ông coi: tôi chỉ mất có 9 đồng
cũng đã mua được 3 chai sữa, chứ đâu phải bỏ ra 10 đồng như ông rao đâu!
Người bán sữa chẳng nói chẳng rằng, chỉ
mỉm cười và chào người mua cho xong chuyện. Khi người mua đi rồi, người bán sữa
bèn tự nhủ: Quả thật là hay! Từ ngày áp-dụng chiến thuật tính giá cả theo kiểu
lạ này, chỉ một thoáng chốc là mình cũng bán được 3 chai sữa, thay vì chỉ có một
như mọi ngày…”
Và,
lời bàn của người kể, bao giờ cũng chí lý như sau:
“Câu truyện kể không chỉ đơn giản cho
thấy một thủ-pháp, hay gọi là bùa phép cũng tuỳ người, đơn giản như thế cũng đạ
đạt được chủ-đích để kích-thích người tiêu thụ. Điều đó cho thấy: cả người bán
lẫn người mua đều có ý-tưởng sang-tạo hết…”
Áp-dụng
ý-nghĩa truyện kể vào câu chuyện “rẩy nước thánh vào người”, ta cũng thấy chuyện
gì cũng có nghĩa khác nhau. Khác, ở chỗ là: có người nhìn sự việc “chấm nước
thánh rồi làm dấu mang nghĩa của một bái chào trước khi vào nhà thờ nhà thánh.
Người khác lại nghĩ: đó giống như thể làm bùa phép để tự trấn an khi bắt đầu
làm chuyện gì mà thôi.
Suy-tư
thêm về truyện kể và chuyện bàn luận, đời người cũng lắm thứ chuyện xảy ra, nếu
ta xét nét từng chi tiết. Thành thử, hay nhất là: cứ đơn-giản mà suy-tư và sống
Đạo, hà tất sẽ yên chuyện. Hay nhất, cũng nên về với lời khuyên của đấng bậc hiền-nhân,
hiển-thánh vẫn từng dạy:
“Anh em thân mến,
Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại,
để ngay cả khi họ vu khống,
coi anh em là người gian ác,
họ cũng thấy các việc lành anh em làm
mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng
thăm.
Vì Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài
người đặt ra:
dù là vua, người nắm quyền tối cao, dù là quan, sứ
giả của nhà vua
để trừng phạt kẻ làm điều ác
và khen thưởng người làm điều thiện,
vì ý muốn của Thiên Chúa
là anh em hãy làm điều thiện để bịt miệng những kẻ
ngu xuẩn vô tri.
Anh em hãy hành động như những người tự do,
không phải như những người lấy sự tự do làm màn che
sự gian ác,
nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa.
Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em,
hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.”
(Thư thứ
nhất Phêrô 2: 11-17)
Nghe
những lời khuyên răn như thế, tưởng cũng nên đi vào thực tế mà thực-hiện những
điều vẫn xảy ra cho ta trong thực-tại. Thế đó, là những quyết tâm ta cần có
trong những ngày sống chung và sống cùng bà con các nơi, dù họ có là dân ngoại
hay dân đi Đạo Chúa, rất Nước Trời.
Trần Ngọc Mười
Và những quyết tâm
Tương tự như thế
Đến cuối đời.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment