Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B
21-12-2014
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui”,
Có
vạn lần buồn.
Đôi khi nhầm lỡ, đánh mất ân tình cũ
Có đâu chỉ thế, tiếc thương chỉ thế,
Khi hai mơ ước, không chung cùng vui lối
về.”
(Trúc
Phương – Buồn Trong Kỷ-niệm)
(1Tim 2: 1-4)
Có
thật thế không, mà sao anh lại cứ hát mãi những lời buồn như vậy? Hát mãi những
lời như thế ấy, chỉ khiến cho người nghe bỗng thấy buồn. Đường vào tình yêu,
đâu như thế! Nào mấy ai lại để anh hát tiếp những lời lẽ, rất như sau:
“Mình vào đời nhau, lúc
môi còn non, tuổi mộng vừa tròn.
Hương thơm làn tóc, nước
mắt chưa lần khóc,
đến nay thì đã đắng cay
nhiều quá.
Thơ ngây đi mất trong bước
buồn,
giờ mới hay.”
(Trúc
Phương – bđd)
“Giờ mới hay”, “thơ
ngây đi mất trong bước buồn”, thế đó là tình đời và đời người. Một đời, không
chỉ có những ngày buồn nhiều hơn vui. Một đời, còn có cả những truyện kể ngăn
ngắn gọn nhẹ ở bên dưới, đọc cho vui:
“Ăn
cơm xong, mẹ và con gái rửa chén bát trong bếp, bố và con trai ngồi xem Tivi. Bỗng
nhiên, có tiếng gì đó như vỡ đổ ở dưới bếp. Sau đó bỗng im bặt. Đứa con trai thấy
thế bèn nói:
-Con
biết chắc chắn là mẹ vừa làm bể chén bát, đó bố!
Người
bố hỏi:
-Sao
con lại chắc mẫm đến như thế?
Người
con trả lời:
-Vì
con không nghe tiếng mẹ la mắng ai như mọi ngày!...”
Chẩn
đoán ý-nghĩa của vỡ/đổ, đôi khi không hẳn chỉ như thế. Như thế, tức chỉ muốn
nói: không hẳn “vì không nghe tiếng mẹ la
mắng ai như mọi ngày”, mà thôi. Đôi khi, cũng vì nhiều lý do này/khác không
mấy “khách quan”, khiến nhiều người vẫn kể thêm nhiều điều như bên dưới:
“Vừa qua, Viện nghiên cứu xã
hội Mỹ vừa đưa ra một nghiên cứu, trong đó đưa ra 10 đặc điểm của người Việt mình. Các đặc điểm này có mặt mạnh, đi
liền với mặt yếu của mỗi đặc điểm. Có người cho rằng đó là
chuyện “đáng buồn”, nhưng có người lại cũng cho rằng đó là “tiềm năng” cần phát triển.
Chúng tôi xin đăng lại ở đây để quý vị
tùy nghi định-liệu.
1. Cần cù lao động, song có
tâm lý huởng thụ.
2. Thông minh, sáng tạo, nhưng
thường mang tính chất đối phó.
3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng, ít
quan tâm đến sự hoàn hảo.
4. Vừa thực tế vừa mơ mộng, nhưng
lại nhút nhát.
5.
Ham học hỏi, có khả năng tiếp thụ nhanh, song ít khi học ‘từ đầu cho đến cuối’
nên kiến thức không hoàn hảo, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không là mục tiêu
tạo thân của mỗi người VN (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện và để có công ăn việc làm, ít khi học vì chí khí hay đam mê).
6. Vui vẻ cởi mở với mọi người, song không
bền.
7. Có tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những
việc vô bổ.
8. Có
tinh thần đòan kết, tương thân/tương ái, song hầu như chỉ trong hoàn cảnh khó
khăn, bần hàn. Còn ở vào điều kiện sống tốt hơn hoặc
giàu có hơn thì tinh thần này ít thấy xuất hiện.
9.
Yêu hòa bình nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến/háo
thắng vì tự ái, đành để mất đại cuộc.
10.
Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính đoàn-kết để tạo sức mạnh (ví dụ: cùng một việc, 1 người làm thì tốt, mà 3 người làm thì kém, và 7 người
làm thì hỏng). (x. Luân Nguyên Võ trích từ những sự-kiện theo Viện nghiên cứu xã hội Mỹ, mới đây thôi).
Ấy kià! Nói xấu người Việt mình như thế, e rằng
người kể và nói cũng phải chạy đến toà cáo-giải mà xưng-thú những “tội khiên”, mà
thôi! Thế nhưng, hễ nói đến những lỗi và tội, có lẽ cũng nên nói đến “lương
tâm” con nhà có Đạo, thế mới phải!
Ấy đấy! Nói về người nhà Đạo, đôi khi lại cũng nên
nói đến những sự-kiện mang ý-nghĩa không khác những chuyện cần nhờ đến lương-tâm
giúp mình định-đoạt, nghĩ cũng nên. Cũng nên, hệt như nhận-định của đấng bậc
thày dạy ngày hôm ấy, nhân nói về ý-nghĩa Ơn Cứu Chuộc được Chúa mặc-khải cho
người phàm, cho rõ nghĩa.
Nhưng, trước khi để tâm theo-dõi lời
giảng-giải của đấng-bậc về “lương-tâm”, dân con Đạo mình cũng nên trải-nghiệm
đôi điều về truyện kể ở báo/đài với lời dạy như sau:
“Tối
nay, ngay tại ngã ba Nguyễn Thông - Hồ Xuân Hương, tôi đang đứng nhìn ánh sáng
công-trình sắp hoàn-thành của mình, chợt nghe có tiếng la hét và tiếng rú ga vọt
lẹ. Chắc, lại là vụ cướp giật nữa rồi! Người phụ nữ và đứa bé gái khoảng 5, 6
tuổi ngã lăn ra đường. Thấy thế, người đàn ông đỡ cô bé, còn tôi đỡ vợ anh ta.
Tay chân họ xây xát rất nhiều, máu chảy cũng khá. Đứa bé ôm chặt lấy ba nó,
khóc la inh ỏi. Hai vợ chồng người bị nạn đều thất thần, mặt cắt không còn giọt
máu.
Đó
là gia đình một người Hàn Quốc. Tôi mời họ vào chỗ mình đang đứng, kéo ghế bảo
họ ngồi đợi một lát, rồi chạy qua nhà thuốc kế bên, mua ít đồ sơ cứu. Rửa vết
thương cho họ xong, ôi lạy Trời cũng may đó chỉ là những vết rách sơ sài ngoài da
thôi. Chắc, chỉ cần băng sơ lại là ổn thoả và chỉ một vài bữa sẽ lành lặn.
Gia
đình người Hàn quốc vẫn run lẩy bẩy, kể lại là: họ mới qua Việt Nam du lịch vào
sáng nay, vì nghe nói cảnh ở đây đẹp tuyệt, thức ăn lại ngon và mọi người ở nơi
này đều thân thiện... Tôi càng nghe càng thấy lúng túng, đành thoái thác nói:
"Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, chắc gia đình anh chị gặp lúc không
may nên mới thế, và tôi chắc hai người tệ nạn đó cũng đang túng tiền, nên mới làm
liều". Họ xua tay bảo với tôi là không sao, vì chiếc túi sách họ mang theo
cũng không có gì giá trị, và họ cũng hiểu, là: xã hội nào cũng có vấn đề tệ nạn
cả. Trời! Tôi nghe họ nói mà thấy nhẹ người, thiếu điều muốn nhảy lên cây ngồi
cho yên.
Ngồi
uống nước với nhau cho qua cơn lạc hồn, tôi gọi cho họ chiếc taxi để đi về. Trước
khi lên xe, cả nhà người Hàn Quốc cúi rạp mình cám ơn tôi. Tôi cũng cúi người thật
thấp, để xin lỗi họ thay cho hai tội phạm đồng bào mình...
Người đàn ông bắt tay tôi, rồi nói thêm:
-Ba
tôi đã từng là người lính tham chiến tại Việt Nam, đã từng làm những điều không
hay trên mảnh đất này. Có lẽ tôi đang phải trả cái giá cho việc ông làm khi trước,
chăng?
-Không
đâu, anh đừng nói vậy, chuyện ấy xảy ra đã lâu rồi, ta phải quên đi.
-Ồ
không đâu. Tôi chỉ muốn nói rằng: nếu việc vừa rồi là một sự trả giá cho ba
tôi, thì tôi rất vui lòng để chịu như thế. Nếu ba tôi còn sống mà biết cái túi
đó có thể giúp cho hai người kia bớt khổ sở một chút, chắc ông cũng vui. Tôi
cúi đầu tạ tội với anh, lần nữa.” (trích
truyện kể lấy từ “facebook” của Chris Le)
Truyện kể rồi, nay ta đi thẳng vào ý/lời của đấng bậc
thày dạy nọ ở Úc, từng giảng và dạy nhiều về Tình yêu như sau:
“Chúa
sẵn-sàng để những kẻ mỏng-dòn/dễ-vỡ như ta được đồng-hành với Ngài bằng sáng-kiến
đi bước truớc. Chúa biết rõ tính mỏng dòn/dễ vỡ của ta. Và, ta cũng biết rõ cử-chỉ
lịch-duyệt của Ngài. Đó là căn-bản sự sống và là hoạt-động theo tinh-thần đồng-đội,
tức: tinh-thần hợp-tác hỗ-tương trong mọi lúc. Ta là thọ-tạo có giới-hạn, còn
Ngài là Đấng quyền-uy cao-cả vẫn làm được hết mọi sự. Nhưng giữa ta và Ngài, mọi
khác-biệt vẫn được quên đi, là nhờ vào ân-huệ và nhờ ta và Chúa vẫn tin-tưởng lẫn
nhau. Cả hai bên, Thiên-Chúa và con người đều sống những gì mình có khả-năng thực-hiện,
trên thực-tế. Chúa biết rõ việc Ngài làm. Đó, là sự thực mà những người
bình-thường ở đời hoặc những người không tự đứng-vững vẫn sống theo cách khác,
rất kinh-nghiệm. Quả thật tuyệt-vời, bởi sau những khó-khăn chắc-chắn sẽ có những
kinh-nghiệm đạo-đức để nói về ta và về Chúa, thì: ta và Ngài đều cùng làm công
việc ấy, chung cùng nhau.
Đó,
là ý-nghĩa đích-thực của lương-tâm. Lương-tâm, là từ-vựng có gốc-nguồn xuất tự
tiếng La-tinh, trong đó gồm hai thứ chữ “Con” và “Scientia”, mà tiếng Anh và tiếng
Pháp vẫn gọi là: “Conscience”.
Lương-tâm
còn là: hiểu biết lẫn nhau hoặc cùng thông-hiểu mọi sự. Thiên-Chúa chấp-nhận
quyết-định của ta theo tiếng lương-tâm. Chúa và ta, có trách-nhiệm đồng-đều về
những quyết-định như thế. Kết-quả là, ân-huệ từ đó sẽ đến với ta. Thứ ân-huệ của
sự tự-trọng về đạo-đức. Đó, cũng là phúc-lành Chúa phú-ban lên trên những gì là
khả-thi, bình-dị và thông-thường, theo tính khôn-ngoan của những người con
chân-phương, bé nhỏ.
Lương-tâm,
đích-thị là “lẽ thường” rất phải, vẫn đặt-định những gì là thường-tình rất phải
lẽ đến cho ta và với Chúa, Đấng hiểu biết mọi sự và thông-hiểu hết mọi người.
Một
lần nọ, khi tôi đang giải-thích điều này cho các học-viên một Đại-học nọ, thì
có một học-viên đưa ngay một phản-hồi rồi hỏi tôi: “Thày nói thế, tức là em
cũng…OK, phải không?” “Đúng. Đúng là như thế!” Ngay sau đó, cũng học-viên ấy lại
hỏi tiếp: “Nói như thế, tức là Chúa cũng OK với em chứ?” “Đúng thực như vậy! Thật
thế, Thiên-Chúa vẫn muốn vậy. Và, Ngài vẫn vui lòng đồng-hành với ta, bởi ta có
tự-do làm thế. Và, Chúa vẫn cùng ta sử-dụng tự-do-tuy-có-giới-hạn nơi ta, nhưng
ta vẫn sử-dụng nó một cách có trách-nhiệm. Chúa sẽ rất vui, bao lâu ta và Ngài
vẫn tiếp-tục quan-hệ hỗ-tương mãi muôn đời. Theo tôi thì, Chúa thấy rất vui khi
trở-thành diễn-viên trong câu truyện ta kể. Đồng thời, Ngài vẫn để tai nghe ta
thuật truyện cho Ngài. Ngài vẫn nghe hoài và nghe mãi, đến bất tận.
Nhiều
người lại có những thứ, mà tôi gọi là kinh-nghiệm đạo-đức cũng rất thực, cả khi
họ khám-phá ra Chúa, trong tình-cảnh như thế. Nhưng tiếc thay, những người như
thế lại cũng giống ta, ở chỗ: không tìm ra ngôn-ngữ nào thích-hợp, để nói lên sự
việc này. Thành thử, ta và mọi người vẫn thận-trọng nhiều khi có yêu-cầu, mà
theo tôi, họ rất có lý để yêu-cầu và thường thì: yêu-cầu của họ cũng luôn có
tính hào-hùng, phải lẽ. Tuy thế, nỗi khổ-đau và niềm ưu-tư/khắc-khoải mà họ và
ta đã cảm-nghiệm, đều đưa ra chứng-cứ cho thấy: ta và họ cũng đều yêu Chúa vẫn
rất mực. Vì thế mà, nhiều lúc, họ và ta cũng đánh liều tìm cách làm những điều
Chúa dạy bảo, cho phải đạo. Riêng tôi, vẫn nghĩ rằng: Chúa thấy mọi sự theo
cung-cách tựa hồ như thế.
Thánh
An-Phong đệ Ligôri, đấng sáng-lập Dòng Chúa Cứu-Thế, có lần bị một số vị đưa ra
vấn-nạn, hỏi rằng: “Giả như ai đó đến xưng-tội với cha nhưng lại kể toàn những
truyện đại-để như thế, chứ không nói gì đến tội hoặc lỗi nào khác, thì cha
và/hoặc các linh-mục-ngồi-toà có xá-giải lỗi-tội cho người ấy không?” Thánh
An-Phong trả lời ngay lập tức là: Không! Trừ phi người xưng những “tội thực” của
họ, đó mới là điều. Nói thế, thánh An-Phong muốn bảo: với những người như thế,
ta không cần xá-giải những lỗi hoặc tội mà họ chẳng bao giờ mắc-phạm, họ chỉ cần
vị linh-mục-ngồi-toà lên tiếng chúc-mừng họ cũng đủ, bởi: những người như thế
quả nhiên đã sống cuộc sống đích-thực và rất mực yêu Chúa cũng không ít…
Thêm
nữa, thánh An-Phong có lần lại cũng nói: ta có bổn-phận để cho những người như
thế ra đi trong an-bình. Thiên-Chúa thật sự vẫn làm thế, suốt ngày này qua
tháng nọ, mãi thiên thu. Giáo-hội cũng từng dạy các linh-mục-ngồi-toà, là: ta đừng
nên dính mũi vào địa-hạt lương-tâm thánh-thiêng của những người-con-bé-nhỏ, mà
nơi họ, đã có nhiệm-tích của sự việc họ và Chúa vẫn cùng sánh vai đồng-hành,
cách tư-riêng. Đến cuối đời, khi thánh An-Phong ở vào độ tuổi 90, cụ cũng tỏ
cho anh em trong Dòng và mọi người biết, là: suốt đời cụ, cụ chưa hề từ-khước
việc xá-giải cho ai, bao giờ.”
(x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-chuộc:
Lương-tâm trưởng-thành trong đạo-đức, www.giadinhanphong.blogspot.com)
Nghe đấng bậc thày dạy nói thế rồi,
nay mời bạn và mời tôi, ta hát tiếp bài ca có ý/lời ngụ ý bảo rằng:
“Bao năm qua rồi còn
gối chiếc, nghe lòng nhiều nối tiếc
Thương nhau rồi, xa nhau rồi, một lần dang dở ấy.ong Kỷ Niệm lyrics on
ChiaSeNhac.com
Đêm lạnh vui với ai?
Nụ cười ngày xưa chết trên bờ môi, héo mòn nụ cười
Đi thêm một bước trót nhớ thêm một bước.
Nếu ta còn nhớ, mắt môi người cũ.
Xin mang theo tiếng yêu khi gọi anh với em.”
(Trúc Phương – bđd)
Vâng. Xin mang theo tiếng “yêu”, mỗi
khi ta “gọi Anh với em” ở ngoài đời.
Còn ở trong Đạo, tiếng “yêu” ấy, đâu chỉ mỗi thấy nơi tiếng “Cha-con” giữa đức
thày linh mục và giáo dân. Gọi Cha/xưng con nghe sao được, khi người giáo-dân đã
trọng tuổi và nhiều kinh nghiệm lại có đến “một bồ chữ” đầy những thần-học và
triết-học ở trường lớp, rất khi xưa? Đức thày hôm nay, có còn mang theo tiếng “gọi
Anh với em” vào mọi lúc hoặc vẫn coi nhau như cha và con hay không? Đó là
vấn-đề.
Trả lời cho vấn-nạn này, cũng nên
tạt qua khu vườn nhà, gồm những bài chia sẻ của đấng bậc “trên cao tít” rất
giáo-hoàng, khi ngài nói với các chuyên-gia nhà đạo, rằng:
“Trong
bài giáo lý hôm trước, chúng ta đã xác định rằng: chính Thiên Chúa tiếp tục
chăn dắt đoàn chiên Ngài qua chức thừa-tác của các giám mục và trợ tá cho giám-mục
là các linh-mục và phó tế. Chính nơi các vị, mà Chúa Giêsu hiện diện trong
quyền-năng của Thần Khí Ngài, và tiếp-tục phục-vụ Giáo-Hội bằng việc dưỡng-nuôi
đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội. Như thế, chức thừa-tác này là một ơn
lớn Chúa ban cho mỗi cộng đoàn Kitô-hữu và cho toàn-thể Giáo Hội, theo nghĩa nó
là dấu chỉ sống cho sự hiện-diện và tình yêu của Ngài.
Hôm
nay, chúng ta có thể tự-vấn điều này: Điều gì đòi buộc nơi các vị thừa-tác của
Giáo-Hội, để họ có thể sống thực việc phục-vụ của mình cách đích thật và phong
phú?
Trong
các ”Thư mục vụ” gửi môn đệ Timôtê và Titô, thánh Phaolô đã cẩn thận nhắm đến
gương mặt của các giám-mục, linh-mục và phó tế- cũng như của các tín hữu, già
cũng như trẻ. Ngài phác-họa ra ơn gọi của các vị và đức-tính cần được nhận ra
nơi những người được chọn và trao phó cho họ chức thừa-tác này.
Ngày
nay, những điều được thánh Phaolô phác-họa là biểu-hiệu, cùng với các ơn gắn
liền với đức-tin và cuộc sống linh-đạo -mà
không thể bỏ qua nơi mục tử- có vài đức-tính
rất nhân-bản được liệt-kê ra, là: sự hiếu-khách, tính điều độ, đức kiên nhẫn,
hiền dịu, đáng tin cậy, có tấm lòng quảng-đại. Đó là mẫu tự, là văn-phạm nền-tảng
của sứ-vụ. Nó phải là văn phạm nền-tảng của mỗi giám-mục, linh-mục và phó tế.
Phải, vì nếu không có phẩm-chất xinh đẹp và thật sự này để gặp-gỡ, hiểu-biết,
đối-thoại, trân qúy và liên-lạc với anh em khác cách chân-thành và tôn-kính,
thì không thể cống-hiến phục-vụ và làm chứng-tá đích-thực cách tươi vui và đáng
tin cậy, được…
Thật
thế, mục-tử ý-thức được rằng chức thừa-tác của mình chỉ nảy-sinh từ lòng thương
xót và từ con tim của Thiên Chúa, sẽ không bao giờ có thái độ hống-hách/uiy-quyền,
như thể mọi người phải qùy dưới chân mình và cộng đoàn là của riêng mình và
vương quốc của mình.
Ý thức
rằng tất cả là quà tặng và ân sủng, cũng giúp các mục-tử không bị rơi vào chước
cám-dỗ đặt mình làm trọng-tâm của mọi chú ý và chỉ tin tưởng vào chính mình.
Như thế họ đang ở trong cơn cám dỗ của háo danh, tự phụ, tự mãn, kiêu ngạo.
Thật nguy hại nếu một giám mục, linh mục hay phó tế lại nghĩ rằng mình biết hết
mọi sự, và luôn có câu trả lời thoả-đáng về mọi chuyện và không cần tới ai hết.
Trái lại, ý thức mình là đối tượng đầu tiên của lòng thương xót và cảm thương
của Thiên Chúa dẫn đưa vị thừa tác tới chỗ luôn khiêm tốn và cảm thông với mọi người.
Cũng vậy, bằng vào nhận-thức này, họ được kêu gọi can đảm giữ gìn kho
tàng đức tin (1 Tm 6: 20), người ấy sẽ lắng nghe dân chúng. Thật vậy, họ ý thức
rằng mình luôn luôn học hỏi được điều gì đó, cả từ những người còn xa đức tin
và xa Giáo Hội. Với anh em mình, tất cả phải đưa tới chỗ có một cung cách hành
xử mới, mang dấu-ấn của sự chia sẻ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự hiệp
thông.” (x.
Linh Tiến Khải dịch bài nói chuyện của Đức Phanxicô ở Vatican: Chủ chăn không được độc-đoán, nhưng phải khiêm
tốn và biết lắng nghe, www.chuacuuthe.com, các mục chính, 12/11/2014)
Xem
thế thì, từ nhiều năm trước nhà thơ/soạn nhạc cũng đã đoán trước được nhiều
chuyện trong đời, nên mới hát. Hát những điều tương-tự sự-thể xảy đến ở nhà
Đạo, nên mới có câu hát rằng:
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui,
có vạn lần buồn.
Đôi khi nhầm lỡ, đánh mất ân tình cũ
Có đâu chỉ thế, tiếc thương chỉ thế,
Khi hai mơ ước, không chung cùng vui lối
về.”
(Trúc Phương –
bđd)
Buồn
đến vạn lần, là khi đấng bậc ở trên được huấn dục là thế, nhưng lại vẫn cứ coi
thường các vị thừa-tác rất giáo-dân ở dưới trướng. Coi thường đến độ, cứ tưởng
rằng: một khi đã có chức thánh hơi cao cao, là có thể nắm vững cho riêng mình
quyền-bính, ơn lành thánh và sự thật.
Như
lời huấn-dụ của bậc thày dạy ở trên, thì: ơn lành cứu-chuộc không dành cho
riêng ai, nhưng cho hết mọi người, ở đời bằng giòng chảy sau đây:
“Thật sự, cũng nên hỏi
xem: Ơn Cứu-Chuộc có nghĩa gì đích-thực?
Nói
chung, có thể bảo: đây là việc bao gộp hết mọi người vào sự sống và tình
thương-yêu của Chúa, ngang qua Con Người và Cuộc Sống của Đức Giêsu Kitô, để
coi đó như vấn-đề công-bằng/chính-trực, tức: thứ mà ta vẫn gọi là sự Công-chính
của Thiên-Chúa.
Đồng
thời, đây còn là đường-lối do Ngài tự trói-buộc Ngài vào hành-xử đầy hào-phóng
tặng ban cho ta. Theo cách này, Thiên-Chúa không những chuyển-đổi ta từ loại
ác-thần/sự dữ thường khiến ta lo-lắng, nhưng Ngài còn lôi kéo ta vào với Ngài,
nữa. Xem thế thì, Ơn Cứu Chuộc có ý-nghĩa dồi-dào và đầy-tràn hơn là chỉ xin được
thứ-tha các lỗi lầm ta vướng mắc.
Phần
đông nhiều người lại không nhận ra rằng: làm sao mình hết bận-tâm/lo lắng về những
gì Chúa muốn mình sống theo ý-định của Ngài từ ngàn xưa. Mà thật ra, là người,
ta luôn được Chúa cứu-chuộc và Ngài vẫn luôn lôi kéo ta về với Ngài.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc trải rộng nơi sự việc con người
làm, nxb Hồng Đức cuối năm 2014)
Xưa
nay, mỗi lần nói đến quyền-hành, quyền-uy hay quyền-lợi, mọi người người đều
nói đến bổn-phận nhiều hơn ơn mưa móc. Mà, bổn-phận của người nhà Đạo chừng như
không chỉ tập-trung vào các đấng-bậc có chức thánh thôi, thì phải? Bởi, dù có
chức hay không chức, có là thánh hay không, người nhà Đạo vẫn nhớ tự nhủ lòng
mình về Lời dạy từ Kinh Thánh có những lời như sau:
“Trước hết, tôi khuyên
ai nấy dâng lời cầu xin,
khẩn nguyện, nài van, tạ
ơn cho tất cả mọi người,
cho vua chúa và tất cả
những người cầm quyền,
để chúng ta được an cư lạc
nghiệp
mà sống thật đạo đức và
nghiêm chỉnh.
Đó là điều tốt và đẹp
lòng Thiên Chúa,
Đấng cứu chuộc chúng ta,
Đấng muốn cho mọi người
được cứu chuộc
và nhận biết chân lý.”
(1Tim
2: 1-4)
Nghe
lời vàng nhắn nhủ như thế rồi, hẳn mọi người trong Đạo/ngoài đời lại càng quyết-tâm
đi vào công-cuộc thừa-tác có Chúa ở cùng và tháp-tùng. Để rồi, hết mọi người
không trừ ai, sẽ ở trong và ở cùng cộng-đoàn lành thánh có Chúa trải rộng Ơn Cứu-Chuộc
của Ngài với mọi người.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn hiểu Ơn Cứu Chuộc đơn
giản như thế,
nên sẽ quyết-tâm nhiều
hơn thế.
Trong công việc hằng ngày.
No comments:
Post a Comment