Chuyện
Phiếm đọc trong tuần 10 Thường niên năm B 10-6-2018
“Anh yêu em, vì em vì em biết nói,”
Đã
biết thưa: Thưa anh em còn biết gọi,
Sáng trời mưa, khiến cho anh nhớ em.
Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều.”
(Phạm
Duy/Đỗ Quý Toàn – Mùa Xuân Yêu Em)
(Thư Rôma 5: 4-9)
“Mùa Xuân Yêu Em” ư? Quả, có như thế. Một khi đã yêu Em
hay yêu Anh rồi, thì tôi và bạn nay cũng thấy mùa Xuân hiện đến, rất miên trường.
Bởi, mùa Xuân là mùa của “yêu đương” đối với những người “đương yêu” và cứ yêu
mãi, suốt nhiều năm trên con đường trường cuộc sống “có chim hót”, có “trời trong
như mắt say”, có “hai đứa ngồi đó,
như hai hòn bi!” Không tin là như thế ư? Nếu vậy, mời bạn và mời tôi ta
nghe câu hát tiếp, rất như sau:
“Ngồi
xuống đây nghe chim là chim đang hót
Đồng cỏ như bàn tay trời trong mắt say
Ta ngó nhau ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi ngồi đó như hai hòn bi.
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Rồi anh sẽ khóc liên miên suốt ngày
Ôi chẳng bao giờ buồn như bữa nay.
Này em yêu quý em nào có nghe
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu "bò bò" và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao yêu em hỡi gió.”
(Phạm Duy/ Đỗ Quý Toàn –
bđd)
Vâng.
Đúng, là như vậy. “Này Em yêu quý em nào
có nghe trên cánh đồng cỏ, có con bò kia nó kêu bò bò”… Vâng. Đúng vào hôm
“Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney đêm ấy, khi hai hát sĩ ca đến câu này, thì mọi người
cười rộ vì ca từ nghe đến là vui.
Vâng.
Đến là vui, vì vẫn nghĩ rằng: khi đã nói chữ “Yêu” rồi, thì cả người nói lẫn
người nghe đều thấy thích. Thấy thinh thích, vì luôn nhận ra là mình đã có mặt ở
trong đó, cả vào lúc trời mưa/trời nắng có người anh vẫn hát câu: “nhớ em nhiều”.
Vâng.
Thế đấy, là lời “yêu đương” của những người “đương yêu”, suốt buổi chiều, đầy
thương yêu.
Thế nhưng,
những người chưa biết yêu hay đã yêu nhiều, nhưng nay lại cứ thấy có vấn đề này/khác,
nên mới lừng khừng, chịu khựng lại trong giây phút để tư-duy đôi điều, về tình
yêu.
Viết
đến đây, bần đạo lại nhận được tờ rời rất mới cứng của nhóm “Nhân Chứng Giêhôva” vừa kịp nhét vào
thùng thư ở tận nhà, có lời lẽ như sau:
“Đâu là bí-quyết giúp gia-đình hạnh-phúc?
Theo bạn, đó là…
*tình yêu thương?
*tiền bạc?
*hay điều gì khác?
KINH THÁNH NÓI GÌ?
‘Những người nghe và giữ lời Đức Chúa
Trời thì hạnh phúc!’ (Lu-ca
11: 28)
ĐIỀU NÀY CÓ NGHĨA GÌ VỚI BẠN?
Nếu làm theo lời khuyên trong Kinh
Thánh, gia đình bạn sẽ có được…
*tình yêu thương chân thật. (Êphêsô 5:
28,29)
*sự tôn trọng lẫn nhau (Êphêsô 5: 33)
*bình yên thật sự (Máccô 10: 6-9)
CHÚNG TA CÓ THỂ TIN KINH THÁNH KHÔNG?
Có, ít nhất vì hai lý do:
*Đức Chúa là Đấng lập nên gia đình. Kinh
thánh nói: ‘Nhờ Ngài mà mọi gia đình được đặt tên’ (Êphêsô 3: 14-15). Nói cách
khác, chính Đức Chúa, danh là Giêhôva, đã lập nên gia đình trên đất. Tại sao ta
biết điều này là quan trọng?
Hãy cứ tưởng tượng: Bạn đang thưởng thức
món ăn ngon và muốn biết món đó được chế biến từ từ nguyên liệu nào, nấu ra sao
thì hỏi ai đây? Tất nhiên, là hỏi người nấu chứ ai vào đây, nữa.
Tương tự như thế, để biết rõ yếu-tố
nào giúp gia-đình hạnh-phúc, điều hợp lý hơn cả là hãy hỏi Đức Giêhôva, Đấng sáng-lập
mọi gia đình (Sáng thế ký 2: 18-24)
*Đức Chúa quan tâm đến bạn và gia-đình
bạn. Thế nên, mọi gia đình hãy rốt ráo tìm lời khuyên bảo của Đức Giêhôva được
ghi trong Kinh Thánh. Tại sao thế? Bởi vì Ngài quan tâm đến bạn (1 Phi-e-rơ 5:
6,7). Đức Giêhôva muốn điều tốt đẹp nhất cho bạn, và lời khuyên lành của Ngài
luôn tỏ ra hữu ích! (Châm ngôn 3: 5, 6; Ê-sai 48: 17, 18)
Nói
về tình yêu người nhà Đạo, là nói về một số điều có liên-quan đến chuyện yêu
đương cho những người đương yêu nghe và hiểu. Nhân lúc có sự-kiện yêu đương của
cặp bạn trẻ đương yêu ở đời thường, như nhà báo có bài viết về cuộc hôn-nhân giữa
hoàng-tử Harry và cô bé “lọ lem” Meghan Markle như sau:
“Về lễ cưới vừa rồi của Hoàng-tử Harry
nước Anh, có rất nhiều điều phù-hợp với dân thường ở ngoài đời. Những chuyện,
như việc cầm cương điều khiển cỗ xe bốn ngựa hoặc chiếc “Jaguars” nổi cộm hoặc
chiếc vương-miện vô-giá, tất cả là chuyện không thể kể hết về đám cưới của ông
hoàng trẻ ở nước Anh…
Hệt như các cặp vợ chồng từng có mặt
vào hôm ấy, việc tham-dự tiệc cưới vẫn luôn là sự-kiện mang nhiều ý-nghĩa hơn là
dõi xem cặp uyên-ương này quyết-tâm ra sao để chung sống. Đám cưới quí-tộc lại vẫn
tạo điều-kiện cho các cặp vợ chồng có cưới hỏi đàng-hoàng, lại có cơ-hội đưa ra
lời thề-thốt chung sống với nhau cho đến khi bạc đầu/râu. Đây, còn là cơ hội để
đôi trẻ của hoàng-tộc nhớ lại cuộc tình mà họ cảm-ứng vào ngày cưới của họ và cũng
là dịp để họ tái lập lời thề trong âm-thầm, nhiều hứng thú.
Tôi cũng thế, tôi cũng chẳng có luật
trừ nào hết. Có nghĩa là, tôi cũng thấy mắt mình mờ dần khi từng bước và từng
bước dõi theo đám cưới rềnh-rang ấy. Và rồi, tôi cũng từ từ đi lấy đôi bông tai
đẹp do chồng mình tặng vào hồi trăng mật để đeo vào tai như cho anh ta biết là:
mọi tình-cảm trong tôi vẫn không thay đổi…” (Ashley McGuire, The
royal wedding is a reminder of public nature of marriage, MercatorNet
28/5/2018)
Nói theo kiểu nhà Đạo, là cứ nói cho dài rồi còn đặt vấn-đề về tất cả những
chuyện có thể xảy ra trong Đạo, rất xục-xạo. Thế nhưng, ở ngoài đời, mà lại nói
chuyện yêu-đương trai/gái chắc chắn không thể nào đẹp cho bằng nói lời bình thường
kiểu văn xuôi, hoặc bằng lời ca tiếng hát rất nên thơ, như sau:
“Trên
đỉnh đồi cao có cây to tướng
Trên một cành ngang có một tổ kiến
Có con đi ra và có con đi vào
Trời hôm nay nắng yêu em xiết bao.
Này em yêu quý em nào có hay
Ban nãy trên trời có đôi chim uyên
Có đôi chim trắng bay trên nền trời
Trời xanh xanh quá đôi mình lứa đôi
Trời xanh xanh quá đôi mình lứa đôi.”
(Phạm Duy/Đỗ Quý Toàn – bđd)
Nói
chuyện yêu đương ở đời, không chỉ nói những lời văn hoa, thi-tứ; mà chỉ nên nói
qua truyện kể dù truyện ấy đã được kể đi kể lại khá nhiều lần, ngõ hầu khắc ghi
tâm can mình, như ở dưới:
“Ngày xửa ngày xưa, có đôi vợ chồng nọ sống với nhau êm ấm rất nhiều
năm. Vào cuối đời, bà phải nằm trong viện dưỡng lão, sống buồn tẻ. Một
hôm, biết rằng bà sắp chia tay mọi người, ông chồng liền hỏi bà xem có điều gì cần
dặn dò không.
Bà liền đáp:
-Ông vào trong phòng
lấy hộp giày tôi để dưới gầm giường, trong đó có một món mà lâu nay tôi vẫn giấu
kỹ không cho ông biết!”
Ông chồng bèn khệ
nệ bưng hộp giày lên, rồi hỏi:
-Trong đây có gì
mà lâu nay tôi thấy bà luôn kè kè bên hông mình thế? Vì tôn trọng bà, nên tôi mới
không tọc mạch mở nó ra xem, đấy!
Bà nọ liền đáp:
-Trong đấy có
búp bê nhỏ và số tiền tôi dành dụm bấy lâu nay.
Ông chồng
tiếp-tục hỏi:
-Sao bà lại có
búp bê và số tiền nhiều như thế?
Bà ấy trả lời:
-Trước khi về
nhà chồng, mẹ tôi dặn: hễ khi nào giận dỗi với chồng, thì đừng nói gì chỉ cần
đem cuộn len để trong hộp ra mà đan búp bê, thôi.
Nghe xong, ông chồng
tự tay mở hộp ra và thấy có búp bê ở trong đó. Mắt mũi đầm đìa, ông nói
với vợ mình rằng:
-Hóa ra mấy chục
năm chung sống với tôi, bà chỉ giận tôi có một lần thôi sao?
Ông hỏi tiếp:
-Còn số tiền
này, bà nói là đã dành dụm được phải không? Thế thì, làm cách nào mà bà lại có
số tiền to lớn đến thế?
Bà cứ thế lạnh
lùng đáp:
-Thì, đó là số
tiền tôi bán mấy con búp bê do tôi đan khi tôi giận ông chứ tiền gì!
Nghe thấy thế,
ông chồng hiểu ra ngay là bà đã giận ông rất nhiều lần, nhưng vì nghe lời mẹ
dạy, nên bà đã không làm sứt mẻ hạnh-phúc gia-đình”. (Truyện kể được lập đi lập lại rất
nhiều lần rồi cũng xong!)
Và người kể, lại vẫn có lời bàn rất Mao Tôn Cương như sau:
“Câu truyện trên,
dạy ta nhiều điều cốt để học hỏi cuộc sống hằng ngày. Khi ta giận dữ, nếu
không có việc gì khác để làm, ta sẽ dồn hết tâm sức để “chăm bón” nỗi giận/dữ
ấy. Làm thế chẳng khác nào ta tự đầu độc hay tự sát. Bởi thế nên, khi các hành-động
xuất tự tâm can mang tính tiêu-cực, như: lo-âu, phiền-muộn xảy đến, ta hãy nên
tìm công việc nào khác mà làm. Đây, là pháp-tu thể-hiện sự trân-quý cuộc
sống của mình bằng cách không gieo thứ gì tiêu cực vào tâm thức, và không tạo
điều-kiện cho tâm-hành tiêu-cực xuất-hiện, tàn phá đời sống của ta và của người
thân.
Nói
chuyện yêu đương nhà Đạo, lại cũng có nhiều người giống bần đạo, cứ xục xạo các
vấn đề xảy ra ở khu xóm, giáo xứ có các bậc trưởng thượng cứ kể truyện những
chuyện “yêu đương” qua việc “sùng kính Đức Nữ Trinh Maria” nhưng lại không coi
đó là chuyện phụng thờ, mà chỉ như chuyện “yêu đương” của người đương yêu và được
bằng lời lẽ rất “Đạo” sau đây:
“Về sùng kính Đức Mẹ, có ba điều cần
minh-định cho rõ nghĩa. Trước nhất, chúng ta là người Công giáo giống như tín-hữu
các giáo-phái khác, thường lập nhiều buổi tôn-sùng Nữ Vương không phải để phụng
thờ Mẹ. Tự-vựng “sùng kính” nói lên việc tôn sùng và kính yêu, không có nghĩa
là việc tôn-thờ, phụng-vụ.
Sách Giáo ly Hội thánh Công giáo có trích
lời Công Đồng Vatican 2 dạy mọi người, rằng: Giáo hội có lý khi tôn-vinh Đức Nữ
Đồng Trinh Maria qua việc sủng-ái Mẹ cách đặc-biệt.
Từ ngàn xưa, Đức Nữ Đồng Trinh Maria được
tôn-vinh như bao giờ qua danh-xưng Mẹ là “Mẹ Thiên-Chúa”. Bằng vào những việc
như thế, Giáo-hội muốn chứng-tỏ rằng: Mẹ luôn gìn-giữ tín-hữu khi các người con
của Mẹ đang gặp cơn nguy-biến, kêu cầu Mẹ….
Tôn-sùng đặc-biệt như thế, khác với việc
tôn-thờ Ngôi Hai Nhập-thể cùng bản tính, đồng hàng với Ngôi Cha và Thánh Linh,
nên Giáo-hội mới cổ-vũ việc tôn-sùng này.” (sách GLHTCG đoạn 971/Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân đoạn 66).
Theo truyền-thống, Giáo hội luôn dạy mọi
người, rằng: có tất cả ba loại tôn-vinh sủng-mộ, là: Thứ nhất là “Latria”, tức phụng-thờ duy-nhất chỉ một Thiên-Chúa mà thôi. Thứ hai, là: “Dulia”, giống như việc tôn-kính sủng-mộ, tức tôn-sùng
và kính yêu các thánh nam nữ. Và thứ ba, là: “Hyperdulia”, tức một hình-thức tôn sùng và kính mến theo
cách cao cả hơn các thánh nam nữ tựa hồ như việc ta vẫn hằng làm với Đức Mẹ là
Đấng trổi-trang hơn các thánh; do bởi Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa” đồng thời Mẹ còn là
là Nữ Vương các thánh nam nữ, là như thế.
Việc sùng kính/ái mộ Đức Mẹ còn cao cả
hơn các thánh nam nữ, lại không giống như khi ta tỏ bày sự phụng-thờ duy nhất
chỉ dành cho một Thiên Chúa mà thôi.
Ở nhà thờ, ta trưng-bày đủ mọi ảnh/tượng
Đức Mẹ, và cũng lập các trung-tâm làm việc sùng-kính Mẹ hoặc dựng đài tưởng-niệm
khác nhau dành cho Đức Mẹ, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ ta lại bái gối/quì lạy
trước ảnh/tượng Đức Mẹ như ta vẫn làm khi đi qua “Nhà Tạm” có sự hiện-diện của
Đức Kitô ở trong đó. Ta có thể cũng cúi đầu tỏ dấu kính-trọng Mẹ, nhưng tuyệt
nhiên không làm cử chỉ bái chào/quỳ lạy như ta làm đối với Thiên-Chúa.
Công đồng Vaticăng 2 còn nói: “Đọc Sách
Thánh, ta thấy các thánh tổ-phụ, tiến-sĩ Hội-thánh và ta còn được Hội-thánh hướng-dẫn
thực-hành nghi-thức phụng-vụ có chỉ-dẫn cũng như để cho các bậc thày thần-học và
đấng bậc chuyên dẫn dắt giải-thích cho ta biết phần-vụ cùng các đặc-quyền/đặc-lợi
của Đức Mẹ là Đấng luôn hướng về Đức Kitô là Nguồn mạch sự thật, vốn dĩ lòng-lành,
thánh thiện và đạo hạnh vô cùng.
Ta cũng xa lánh những thứ và những sự,
bằng lời nói hay việc làm, gia dĩ đưa ta đến với đồng-đạo hoặc các việc lầm lạc
hiểu sai tín-điều đích-thực của Giáo-hội. Lại nữa, ta cũng nên giúp-đỡ bạn đồng-đạo
nhớ rằng: việc tôn-sùng thực các đấng bậc, không chỉ bao gồm mỗi tình-cảm thân-thương
khô-khan hoặc nhất thời, lại không ngang qua hành-xử cả tin nhưng rỗng-tuếch, vốn
xuất tự lòng thành-kính/tin yêu, qua đó ta được dẫn giải cho rõ ràng để hiểu được
đặc-trưng của Mẹ Thiên-Chúa và nhờ đó, ta mới có lòng yêu thương của những người
con luôn hướng về Mẹ mà học đòi bắt chước tính Mẹ.” (X. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân đoạn
67)
Điều khác nữa, là: ta nói để trả lời
cho bạn-đạo ly-cách của ta rằng: việc sùng kính Đức Mẹ là xuất tự sự-kiện
Thiên-Chúa đã làm cho Mẹ; chính vì thế, nên mới đốc thúc ta biết cảm-kích mà
yêu-thương Chúa nhiều hơn.
Cuối cùng thì, chính Chúa đã chọn Mẹ
là thân mẫu của Ngài và bạn cho Mẹ tràn đầy ơn lành thánh, như: biến Mẹ thành Đấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội, đời đời đồng trinh sạch sẽ, không tì vết, lại đã ban cho Mẹ
ơn Thăng thiên cả hồn lẫn xác…
Thành ra, sùng-kính Mẹ đúng phép còn
có nghĩa là vinh-danh Thiên-Chúa cao cả là Đấng đã tạo-dựng nên người Mẹ trọn
lành, lại rất thánh. Việc sùng-kính sủng-mộ Đức Mẹ không làm cho ta xa rời
Thiên-Chúa, nhưng đúng hơn, lại dẫn đưa ta đi vào tình thương yêu Chúa hơn mọi
thứ.
Thứ ba, là: chính Mẹ đã dẫn đưa ta về
với Chúa, Chính Mẹ đem Chúa đến với ta bằng việc chấp-nhận Ngôi Hai Thiên Chúa
trong Ba Ngôi lòng lành vào cung lòng của Mẹ rồi sinh hạ Ngài tại thôn làng
Bét-Lê-hem nhỏ bé, khi xưa.
Mẹ còn đem Chúa đến với thế-giới, đồng
thời Mẹ cũng muốn cho mọi linh-hồn tôn-thờ Ngài hệt như các mục-đồng và Ba Vua khi
xưa từng làm tại Bét-lê-hem, thôn làng nhỏ bé ở Do-thái.
Mẹ cũng đã chịu-đựng mọi khổ-đau/sầu
buồn với Đức Kitô trên núi Calvary để tất cả mọi người được cứu rỗi và chính Mẹ
từng muốn cho ơn cứu-độ xảy đến với muôn dân nước, khắp địa cầu. Mẹ là Đấng
Trung-gian cầu bầu mãnh-lực nhất đối với mọi linh-hồn đặc biệt là các linh-hồn ở
nơi xa-xôi hầu đưa họ về với Chúa.
Một kinh-nghiệm tư-riêng trưng dẫn ra
đây để minh-họa; đó là: nhiều năm trước, khi tôi làm tuyên-úy cho một trung-tâm
đại-học nọ, có một sinh-viên lâu năm lạnh-lẽo chẳng còn biết giữ đạo là gì đã
chạy đến yêu cầu tôi ngồi tòa giải-tội cho anh ta. Khi xưng xong, anh hỏi tôi
làm thế nào giúp anh tìm mua một chuỗi hạt Mân Côi.
Anh giải-thích: nhiều năm trước, anh vẫn
sống trong trường nội-trú ở đó mọi người có thói quen vẫn lẫn chuỗi Mân Côi hằng
ngày và anh cũng muốn quay về làm như thế giống mọi người. Và xảy ra là, hôm ấy
là ngày Lễ Mẹ nên tôi có hỏi anh là anh có biết chuyện ấy không, anh trả lời là
anh chẳng hề biết ngày nào là ngày Lễ dành cho Đức Mẹ hết.
Khi ấy, tôi bèn nói với anh rằng: theo
tôi nghĩ, chính Đức Mẹ đã đem anh về lại với Chúa vào ngày lễ của Mẹ do bởi khi
xưa anh từng sùng-kính yêu thương rất hết mình. Thành thử, ta không thờ Đức Mẹ
chút nào hết, nhưng do bởi sự việc ta sủng-ái Mẹ chỉ làm gia-tăng lòng mến ta
có đối Chúa, mà thôi.” (X. Lm John Flader, “Marian devotion is not worship – but it is
love”, The Catholic Weekly 20/5/218 tr. 21)
Kể
chuyện “yêu đương” theo đủ mọi cách, tưởng cũng nên quay về với lời “kể” của bậc
thánh-hiền nhà Đạo từng có lời khuyên như sau:
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài
vào lòng chúng ta,
nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng
ta.
Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm
được gì
vì còn là hạng người vô đạo,
thì theo đúng kỳ hạn,
Đức Kitô đã chết vì chúng ta.
Hầu như không ai chết vì người công
chính,
hoạ may có ai dám chết vì một người
lương thiện chăng.
Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta,
ngay khi chúng ta còn là những người tội
lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương
chúng ta.
Phương chi bây giờ chúng ta đã được
nên công chính
nhờ máu Đức Kitô đổ ra,
hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.”
(Thư Rôma
5: 4-9)
Quan-niệm
thế rồi, nay ta lại sẽ hướng cao tầm nhìn về phía trước, mà hát những lời như
sau:
“Anh
yêu em vì em vì em biết nói,”
Đã biết thưa: Thưa anh em còn biết gọi,
Sáng trời mưa khiến cho anh nhớ em.
Bây giờ nắng anh nhớ em nhiều.
Ngồi
xuống đây nghe chim là chim đang hót
Đồng cỏ như bàn tay trời trong mắt say
Ta ngó nhau ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi ngồi đó như hai hòn bi.
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Rồi anh sẽ khóc liên miên suốt ngày
Ôi chẳng bao giờ buồn như bữa nay.
Này em yêu quý em nào có nghe
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu "bò bò" và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao yêu em hỡi gió.”
(Phạm Duy/ Đỗ Quý Toàn –
bđd)
“Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều” không chỉ là lời trần-tình của ai đó với người yêu
thôi, mà còn là và sẽ là quyết-tâm của mọi người đối với nhau, trong cõi đời
rất nắng. Và cũng mưa liên miên như mọi ngày.
Trần Ngọc Mười Hai
Dù nắng hay mưa
Vẫn quyết tâm yêu em, yêu anh
Yêu hết mọi người
Trong đời.
1 comment:
This website is mostly a walk-by way of for all the info you needed about this and didn’t know who to ask. Glimpse right here, and also you’ll undoubtedly uncover it. slots for real money
Post a Comment