Chuyện
Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 6 mùa Thường niên năm A 12/02/2017
“Vời vợi sáng, một trời hương gió vàng”
Ngàn sao bâng khuâng trên bên sông Ngân.
Lời suối réo đàn lệ hoen tà áo.
Đôi mắt giai nhân tìm đâu giữa trời sao.”
(Lê Trọng
Nguyễn – Sao Đêm)
(Cv 15: 8-9)
Sao đêm, mà sáng thế sao? Mắt
giai-nhân, tìm đâu giữa trời sao ư? Quả thật lạ, một điều lạ ở chốn gian trần
này. Điều lạ đây, là điều ít thấy ở đâu đó, mà chỉ có ở thi-ca/âm-nhạc, như
nghệ sĩ nhà mình lại diễn tả nhiều hơn nữa, như sau:
“Đồi lạnh
vắng!
Lạc loài
ta với đàn.
Hồn thơ lâng lâng theo áng mây hoang.
Lời gió hú buồn.
Biển sao gợn sóng.
Thuyền trăng đưa khách lạc giữa đại dương.
Ôi cánh sao đẹp xa cuối trời di về đâu.
Đêm quá sâu hồn ta rã rời trong trời nâu.
Tìm em không gian hồ đồ vỡ theo tinh cầu bay.
Thời gian tím ngắt như đêm nay.
Vội vàng hái cả trời sao chín mọng.
Mà ôi thiên thai sao tắt mây vương.
Lạc bước thiếu tài nhạc lôi rượu cuốn.
Người yêu xa mãi tìm gió ngàn phương.
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Đó, mới là
chuyện lạ ở đời, rất con người. Thế còn chuyện lạ ở nhà Đạo thì sao? Nhà Đạo,
nay lại thấy đôi điều cũng rất lạ, chỉ mới xảy ra thôi nhưng cũng đã có lời nhỏ/to
to/nhỏ vẫn cứ hỏi đấng bậc trong Đạo. Hỏi, là hỏi về một sự lạ ít thấy ở nhà
Đạo, nay xuất-hiện trên báo chí như sau:
“Thưa Cha,
Mới đây, trên cột 8 của báo này, con thấy có đến 4
Đức Hồng Y nhà Đạo mình lại đã gửi thư lên Đức Phanxicô bày tỏ đôi điều mà xem
ra các ngài không đồng ý cho lắm. Con thấy đây là hiện-tượng ít thấy xảy ra
trong giới lãnh-đạo Công giáo của ta. Vậy, xin hỏi cha: trong trường hợp này,
con phải suy-tư nghĩ ngợi sao cho phải lẽ, khi con thấy ngay như Hồng Y/Giám
mục mà còn bất-đồng với nhau nữa, thì nói chi là giáo-dân! Xin cho con đôi lời giải-thích
để con còn biết đường mà tôn-trọng các ngài, chứ.” (Người viết thư quên ký tên nên không biết là nam
hay nữ).
Có ký tên
hay không ký, miễn là anh hay chị cứ bày tỏ những điều mình nghĩ, thế thì tốt.
Tốt hơn nữa, nhờ có anh/chị hỏi nên cha đạo mới giải-thích theo kiểu “huề vốn”
cho đỡ “bận lòng tướng quân” cũng rất đạo. Thôi thì, ta cứ mở rộng vành tai ra
mà nghe những lời “huề vốn” huề cả làng, cho được việc.
Đấng bậc vị vọng ở Sydney, nay đã
sẵn sàng trả lời rất như sau:
“Hãy cho phép tôi trở về với nguồn gốc của cuộc tranh-luận
xuất tự câu nói của Đức Phanxicô viết trong Tông-thư ‘Amoris Laetitia’, chương
8 nói về việc giúp đỡ các cặp phối-ngẫu đang sống trong tình-cảnh khá bất
thường. Các cặp này, gồm cả những người từng ly-thân/ly-dị và nay sống với
đối-tác mới nhưng không có bí-tích hôn-phối, và cả những người chưa từng lấy
nhau, nhưng vẫn ở với theo kiểu “sự đã rồi” có tương-quan xác thịt. Nhưng, các
cặp như thế có được phép rước Mình Máu Chúa không? Cho đến nay, truyền-thống
cho biết: họ không được phép lên rước lễ, như thế.
Thật ra, trong Tông Thư ‘Amoris Laetitia’ Đức Giáo
Hoàng Phanxicô không viết điều gì đi ngược lại truyền-thống giáo-huấn của
Hội-thánh, hết. Thế nhưng, một số thần-học-gia cũng như Giám-mục ở đây đó, lại
đã giải-thích lời lẽ viết trong Tông-thư này khiến người đọc hiểu theo cách khác
nhau và trái-nghịch rằng trong tình-cảnh nào đó, các cặp này có thể rước Mình
Thánh Chúa vào lòng, trong khi một số vị khác cho rằng không thể thế được. Điều
nguy-hiểm là các nguyên-tắc nền-tảng về thần-học luân-lý vững chắc hằng nhiều
thế-kỷ, nay bị xét nghiệm.
Trong nỗ-lực phá bỏ sự lầm lẫn về vấn-đề quan-trọng
như thế, 4 vị Hồng y đã viết thư xin Đức Giáo Hoàng và Thánh-bộ Giáo-lý Đức tin
ban lời giải-thích hầu làm sáng-tỏ sự việc. Như đã biết, đây là sự việc
hoàn-toàn chính-đáng, bởi lẽ Giáo hội ta vẫn từng làm như thế trong rất nhiều
trường-hợp. Giả như Đức Giáo-hoàng hoặc thánh-bộ Giáo-lý Đức Tin chọn cách trả
lời cho các ngài, thì sự việc sẽ kết thúc mọi tranh-luận có thể có. Trong khi
đó, thì sự việc nói ở đây vẫn tiếp tục diễn tiến.
Cũng nên biết là các tranh-luận/bàn cãi trong Giáo
hội không phải là chuyện mới xảy ra. Ngay từ thời đầu của Giáo hội, ta đọc sách
Tông Đồ Công Vụ cũng thấy rõ là có sự bất-đồng quan-điểm về chuyện người ngoại
trở lại Đạo có buộc phải chịu phép cắt bì hay không. Có một số vị thuộc
Giáo-hội Antiôkia vẫn chủ-trương buộc phải như thế; nhưng sách Công Vụ lại kể rằng:
“Ông Phaolô và ông Banaba chống đối và
tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba
và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn
đề đang tranh luận này.” (Cv
15: 2, 7)
Kể từ đó, mỗi lần có Công đồng Đại-kết,
các Giám-mục lại bày-tỏ ý-kiến khác nhau về nhiều vấn-đề này. Đây là chuyện tự-nhiên và bình thường bởi lẽ
mỗi vị Giám mục nhìn sự việc theo tầm nhìn riêng của các ngài. Sau khi lắng tai
nghe các quan-điểm rất khác-biệt, các Giám-mục đi đến quyết-định chung. Đây là
lề-lối Giáo-hội của ta thực-thi mọi chuyện dưới sự hướng-dẫn của Chúa Thánh Thần.
Trong Tông thư Amoris Laetitia, Đức
Giáo Hoàng có nói là vấn-đề đặt ra tại Thượng Hội Đồng Giám-mục thật phức-tạp để
rồi các ngài cùng đưa ra một tài-liệu “bộc-lộ nhu-cầu cần tiếp-tục thảo-luận
cách cởi-mở về một số vấn-đề mang tính-chất tín-điều đạo-đức, thiêng-liêng và mục-vụ.
Tư-duy của các vị mục-tử và thần-học-gia , nếu là tín-hữu trong Đạo, đều chân-phương,
thực-tế và sáng tạo, sẽ giúp ta có tầm nhìn sáng-sủa và cao-cả hơn.
Vào lúc đó, Đức Giáo-Hoàng lại đã mô-tả
sự đa-dạng về quan-điểm/lập-trườngkhi đề-cập đến vấn-đề này, rằng: “Các cuộc
tranh-luận còn được cung-cấp cho giới truyền-thông và một số cơ sở còn phổ-biến
trên báo/đài ngay đến các vị thừa-tác-viên cũng bày-tỏ niềm ao-ước có sự thay đổi
toàn-bộ nhưng chưa suy-nghĩ đủ hoặc không có lý-do chính-đáng, hoặc có động-thái
muốn giải-quyết hết mọi sự bằng việc áp-dụng luật chung hoặc xuất tự những kết-luận
do lập-trường thần-học không phải phép.”
Vâng. Giáo-hội ta buộc phải thảo-luận
một cách cởi mở, nhưng vẫn trung-thành với giáo-huấn của Hội-thánh với lòng
bác-ái và tôn-trọng người khác chính-kiến. Đây không hẳn là trường-hợp xảy ra,
Vậy thì, là giáo-dân bình-thường, ta phải
xử-sự ra sao khi các cuộc bàn-cãi gay-gắt vẫn tiếp-tục? Câu nguyện và cầu-nguyện,
là điều tốt nhất. Câu chuyện bàn-luận ở đây là vấn-đề nền-tảng. Thế nên, điều
quan-trọng là các mục-tử phải áp-dụng nguyên-tắc đạo-đức của Giáo hội Công giáo
và giáo-huấn về các bí-tích một cách thích-đáng.
Thế nên, cũng giống thời trước, việc cần-thiết
đối với các tín-hữu trong Hội-thánh là ta phải cầu nguyện sao để các vị có
trách-nhiệm trong sự việc này, biết lắng tai nghe tiếng Chúa và hành-xử cho phù-hợp
với nguyên-tắc đặt ra. Hệt như Giáo-hội thời tiên-khởi vào lúc thánh Phêrô đấng
Chủ-quản đầu tiên của Giáo-hội bị Hêrôđê giam-giữ, đã được toàn thể Giáo-hội cầu
nguyện để ngài xứng-đáng với chức vụ mà Hội-thánh Chúa giao-phó.” (X. Lm John Flader, Differences of opinion in the Church? It is nothing new or unusual, Question
Time, The Catholic Weekly 18/12/2016 tr. 28)
Nghe giải-đáp
những lời trên, bần đạo bầy tôi đây lại suy-nghĩ cũng hơi khang-khác. Khác ở
chỗ, lâu nay vẫn hiểu rằng: tín-hữu nhà mình xưa giờ vẫn quan-niệm chuyện
thần-thiêng thánh-hoá vẫn thể-hiện ở nhiều nơi, nhiều đạo-giáo, có khi ở
Cựu-Ước có Môsê, Êlya và các ngôn-sứ mà người xưa cứ gọi là tiên-tri biết trước
mọi sự và báo trước mọi điều xảy đến với Giáo-hội.
Hơn nữa,
tín-hữu thời nay lại vẫn hiểu: các đấng bậc thánh-thiêng hiền lành vẫn hiện-diện
ở tôn-giáo bạn chứ đâu chỉ mỗi Công-giáo và Do-thái-giáo mình, thôi. Xem thế
thì, nhiều khi thành-viên Giáo-hội ta có bất-đồng chánh-kiến hay sao đó, vẫn
nên hiểu rằng: Đức Chúa của ta vẫn ở với và ở cùng chúng ta, là những con người
thực bất kể có khác nhau về chánh-kiến hoặc về bất cứ điều gì.
Cứ hỏi và
đáp theo kiểu trên, thì đến khi nào mới hết chuyện. Chi bằng, hãy mời bạn/mời tôi,
ta cứ nghe thêm câu truyện kể ngăn-ngắn nhiều ý-nghĩa, để có hứng mà bàn tiếp.
Truyện kể, là truyện như thế này:
“Có gã thanh niên còn trẻ đến gặp một ông già để
hàn huyên, cho quên buồn. Đang huyên-thuyên khoe trình-độ hiểu/biết của mình
hơn nhiều người thấy rất rõ, gã thanh niên bèn rủ ông cụ già mà nói rằng:
-Tôi với ông, ta hãy so kiến-thức xem ai hơn ai
nhé. Chỉ mỗi việc, là: tôi đố ông, ông đố tôi qua lại, là xong. Thấy ông cụ già
còn đắn-đo, gã thanh-niên bèn đưa thêm điều kiện cho thêm phần hung tráng, rất
kịch tính:
-Nếu ông thắng, ông sẽ được 10 đô. Nếu ông thua,
thì chỉ mất có 1 đô thôi. Dễ quá chứ nhỉ?
-NhẤt trí! Anh ra câu đố trước đi.
-Câu đố là thế này: tay nào lên vũ trụ đầu tiên?
Ông giả không trả lời, cứ lẳng lặng rút tờ 1 đô trả
cho gã trẻ tuổi. Được việc, hắn ta bèn đố tiếp:
-Thế ai là người đầu tiên phát-minh ra luật
bảo-toàn khối-lượng?
-Đành chịu! Lại tờ 1 đô nữa, ông già giơ ra cho anh
ta.
-Thôi anh đố nhiều rồi, để tôi đố anh một câu có
được không?
-Đồng ý hết mình.
-Con gì lên đồi bằng 2 chân, còn xuống đồi bằng 3
chân?
Suy nghĩ một hồi lâu, gã thanh-niên quyết định rút
tờ 10 đô ra đưa cho đối thủ và hỏi lại:
-Không biết. Thế đó con gì thế hả ông?
Ông già lẳng lặng rút tiếp tờ 1 đô ra đưa cho gã
trẻ tuổi…” (Truyện kể lượm lặt ở trên mạng)
Đúng thế.
Cứ đưa ra tờ 1 đô xong là vui cả làng. Chẳng ai khiếu nại hoặc vấn-nạn ai đúng
ai sai, dù đó là hồng y, giám mục hay giáo-hoàng. Bởi, có là giáo hoàng đi nữa,
rất nhiều chuyện cả ngài và đầy tớ hoặc vua quan lãnh chúa ở quanh đó, cũng đâu
rành rẽ, hết mọi chuyện. Chi bằng các vị cứ trao nhau tờ 1 đô, suốt đời để tới khi
gặp gỡ thánh Phêrô ở đâu đó, sẽ không có gì mà hối tiếc với hối hận.
Chuyện
đời ở đâu cũng thế, kể cả nhà Đạo, cũng vẫn có những điều khó hiểu, dù đã nói
ra bằng lời hoặc còn giữ kín trong bụng. Hay nhất, là làm như nghệ sĩ viết
nhạc, cứ ngước mặt nhìn trời nhìn ngắm “Sao đêm” rồi ghi lại những tiết điệu
cùng ý/lời như sau, là hay nhất. Ý và lời, những hát rằng:
“Còn gì
nữa?
Tuổi vàng qua mất rồi
Làn môi khô khan câm nín đau thương
Và tóc rối bời hồn đang lạnh trống
Đôi mắt mơ xanh mờ theo ánh tà dương
Chờ gì nữa?
Nửa trời sao úa rồi
Vì sao em quên câu hát yêu thương?
Tìm ít gió lành còn trong cuộc sống
Dìu nhau qua bến vượt sóng đại dương
Em, cánh sao mờ xa cuối trời đi về đâu?
Em biết chăng hồn ta rã rời trong sầu đau?
Tìm em không gian hồ đổ vỡ, theo tinh cầu bay
Rồi đêm gối sách mơ trăng sao
Còn gì nữa?
Bầu trời rạn nứt rồi
Đường lên thiên thai sao tắt mây vương
Lạc bước, thiếu tài, nhạc lôi rượu cuốn
Người yêu xa mãi tìm gió ngàn phương
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Hát thế
rồi, nay đề nghị bạn và tôi, ta phiếm thêm bằng giòng chảy truyện kể cũng đáng
nể, để rồi sẽ không còn bối rối với người đời thường hoặc thắc mắc chuyện trên
trời/dưới biển, mà chẳng ưu-tư gì cho lắm chuyện đời có những người trẻ ở đây
đó, vẫn sống mà chẳng bận-tâm xem người khác có “nhiều kiến thức hơn mình”
không.
Nghĩ thế
rồi, nay mời bạn và tôi, ta bắt đầu kể câu truyện “Cô Bé Bán Diêm” như sau:
“Đây là truyện do văn-hào người Đan Mạch có tên
là Andersen được nhiều người biết đến. Song, ít người biết rằng cô bé ấy
thật sự đã có mặt trên đời này và từng đi qua cuộc đời của chính Andersen.
Vào một buổi tối mùa thu, tại một khu phố thuộc thành phố Copenhagne – Danmark
-Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm!
Một tiếng
nói khàn khàn, mệt mỏi chợt vọng đến tai Andersen. Đằng kia, trước mặt
chàng hơn mươi bước là một người đang ngồi co ro trên thềm của một ngôi nhà cao
ráo. Ánh sáng đèn từ trong nhà chiếu ra cho chàng thấy đó chỉ là một đứa bé
con. Hẳn nó đã phát ra những lời vừa rồi.
-Tối lắm
rồi sao cháu còn chưa về nhà ngủ?
Andersen
bước đến, ái ngại. Đấy là một cô bé khoảng hơn 10 tuổi, run rẩy trong bộ
quần áo vá víu bẩn thỉu. Vai áo rách để lộ đôi vai gày còm. Nhìn gương
mặt hốc hác của nó, có thể đoán nó đang chịu cảnh thiếu ăn, thiếu uống từ lâu.
-Chú ơi,
mua hộ cháu bao diêm!
-Tay cầm
bao diêm, cô bé chỉ vào chiếc túi con căng phồng bên cạnh, khẩn nài - Cả ngày cháu
chẳng bán được gì, cũng chẳng ai bố thí cho cháu đồng nào.
Cô bé rơm
rớm nước mắt. Thân hình tiều tụy ốm yếu của em run lên khi gió lạnh thổi
qua.
-Thế
sao? Andersen động lòng.
Chàng khẽ
vuốt mái tóc dài xoăn thành từng búp trên lưng cô bé.
-Gia đình
cháu đâu cả rồi? Không ai
lo cho cháu sao?
Cô bé
buồn bã lắc đầu. Em bùi ngùi kể lại những năm xưa khi còn sống trong ngôi
nhà xinh đẹp với những dây trường xuân leo quanh. Từ khi bà em qua đời, gia sản
lụn bại, gia đình em phải lìa bỏ mái nhà thân yêu đó để chui rúc trong một xó
xỉnh lụp xụp, tối tăm.
-Không có
tiền cháu đâu dám về nhà vì bố sẽ đánh chết thôi!
Cô bé
nhìn Andersen, đôi mắt cầu khẩn.
Thực vậy,
em có một người cha ác nghiệt. Hơn nữa về nhà cũng chẳng hơn gì. Hai cha
con chen với nhau trên một gác xếp tồi tàn, gió rét vẫn lùa vào được dù đã bít
kín những lỗ thủng trên vách. Lúc này, đôi chân cô bé đã lạnh cóng, em mang đôi
giầy vải mòn cũ do mẹ em để lại.
-Cháu
đừng lo!
Andersen
cho tay vào túi lấy ra một số tiền đặt vào bàn tay bé bỏng của em
-Còn bấy
nhiêu chú cho cháu cả. Cháu về nhà mau kẻo chết cóng mất. Ôi, lạy
Chúa!
Vẻ đầy
mừng rỡ, cô bé hôn tíu tít lên tay chàng:
-Từ ngày
bà cháu mất đi, chú là người thương cháu nhất trên đời này. Với món tiền
này, bố con cháu sẽ được nhiều bữa no. Nhưng... cô bé bỗng đăm chiêu… Nếu chú
cho cháu hết thì tiền đâu chú sống, hở chú?
-Sao cháu
khéo lo thế?
Chàng mỉm
cười, nụ cười đầy hiền dịu:
-Chú sẽ
còn cho cháu nhiều thứ nữa. Chú sắp đi xa, đầu năm tới mới trở lại nơi
này, khi ấy chú sẽ tặng cháu một món quà đặc biệt.
-Ồ, thích
quá! Còn cháu, cháu cũng sẽ tặng chú một món quà. Mà chú tên gì
nhỉ?
-Chú là
Andersen.
Chàng âu
yếm nắm đôi vai gầy của cô bé
-Có bao
giờ cháu nghe đến tên ấy chưa?
-Tên chú
nghe quen lắm. Cô bé nhìn đăm đăm gương
mặt trầm tư có chiếc mũi khoằm của chàng:
-Chú có
phải là thợ mộc không?
-Không
phải! Andersen
mỉm cười lắc đầu.
-Thợ may?
-Cũng
không.
-Hay chú
là bác sĩ?
-Ồ, không
phải đâu. Thế này này...
Chàng đưa
ngón tay trỏ viết viêt vào không khí, vẻ hơi đùa cợt.
A! Cô bé
reo lên.
-Cháu
hiểu rồi, chú làm nghề bán bút!
Andersen
chỉ tủm tỉm cười. Chàng thấy yêu cô bé quá. Em khiến chàng, một nhà
văn thề suốt đời gắn bó với tuổi thơ, nhớ đến thời thơ ấu của mình và thành phố
Odense cổ kính, nơi tuổi thơ của chàng êm ả trôi qua.
Là con
một trong gia đình nên dù cha chỉ là một bác thợ giày nghèo, cậu bé Andersen
hầu như chẳng phải mó tay đến bất cứ một việc gì ngoài mỗi việc là mơ mộng liên
miên. Cậu bé lắm khi chỉ thích bầu bạn với chiếc cối xay già nua đứng run rẩy
trên bờ sông hiền lành của thành phố quê hương. ...
Sau đó
Andersen đi du lịch đâu đó... và chàng đã quên luôn lời hứa với cô bé bán diêm.
Khi về thăm lại khu phố năm nào, chàng tự trách mình đã quá mải mê với chuyến
viễn du đến nỗi quên khuấy đi lời hứa với cô bé bất hạnh mà giờ này hẳn đang
lang thang đâu đó với chiếc túi đựng đầy diêm.
Phải mua
ngay cho em một chiếc áo len, một chiếc áo lông cừu dày và thật ấm để em qua
được cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông... Và Andersen sau những lần dò hỏi tin
tức của em bé bán diêm, được ông chủ hiệu quần áo cho biết:
-Con bé
chết rồi còn đâu. Ngày đầu năm mới người ta nhìn thấy em bé chết cóng tự
lúc nào ở một góc đường giữa hai ngôi nhà. Cái chết cứng đờ của nó ngồi giữa
những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Có lẽ nó muốn sưởi cho
ấm. Có điều lạ là hai mà nó vẫn hồng và miệng nó như đang mỉm cười.
-À này,
ông ta tiếp tục trước khuôn mặt chết lặng của Andersen, khi mang xác nó đi
người ta thấy trong túi nó rơi ra vật gì giống như một chiếc quản bút làm bằng
những bao diêm. Hẳn nó để dành tặng ai, vì trên chiếc quản bút có ghi giòng
chữ: tặng chú Andersen. Andersen quên khuấy món quà ông định tặng cho cô bé bán
diêm. Nhưng cô bé, cô bé vẫn nhớ tới lời hứa của mình với vị khách tốt
bụng của buổi tối mùa thu.
Hơn nửa
thế kỷ qua, hàng triệu con người trên trái đất đã nghe tim mình thổn thức mỗi
khi đọc câu chuyện về cô bé đáng thương của văn hào Đan Mạch. Phải chăng
Andersen đã viết câu chuyện ấy như một món quà để tặng hương hồn cô bé bán
diêm?“ (Truyện kể của Hans Andersen)
Câu truyện ở trên
không chỉ là chuyện để phiếm cho qua ngày/đoạn tháng; mà là, truyện kể để mọi
người tặng cho nhau làm quà, ngày kỷ niệm. Thời buổi hôm nay, người ta chỉ muốn
kiếm tìm những câu truyện kể “nghe quen quen“ rất vô thưởng vô phạt, chẳng đụng
chạm gì ai.
Thế nhưng, có những
câu truyện kể càng “đụng“ nhiều càng tốt. Bởi, có đụng nhiều mới đạt, và có đạt
nhiều mới thích-thú. Chứ, cứ kể những chuyện nhạt-nhẽo, chán phèo cũng không
hay.
Vậy thì, hôm nay
đây, thay vì kể thêm nhiều chuyện nghe-mãi-không-chán, xin mời bạn mời tôi, ta
nghe nghệ-sĩ làng nhạc Việt hát thêm đôi lời rất “Sao đêm“ để rồi còn suy-tư
nguyện cầu ngày buồn chán, rất hôm nay, sau đây:
„“Còn gì
nữa?
Tuổi vàng qua mất rồi
Làn môi khô khan câm nín đau thương
Và tóc rối bời hồn đang lạnh trống
Đôi mắt mơ xanh mờ theo ánh tà dương
Chờ gì nữa?
Nửa trời sao úa rồi
Vì sao em quên câu hát yêu thương?
Tìm ít gió lành còn trong cuộc sống
Dìu nhau qua bến vượt sóng đại dương
Em, cánh sao mờ xa cuối trời đi về đâu?
Em biết chăng hồn ta rã rời trong sầu đau?
Tìm em không gian hồ đổ vỡ, theo tinh cầu bay
Rồi đêm gối sách mơ trăng sao
Còn gì nữa?
Bầu trời rạn nứt rồi
Đường lên thiên thai sao tắt mây vương
Lạc bước, thiếu tài, nhạc lôi rượu cuốn
Người yêu xa mãi tìm gió ngàn phương
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Hát thế rồi, nay
mời bạn và tôi, ta đi vào vùng trời Lời Vàng Ngọc của Đấng Thánh-hiền mà tìm
cho ra những câu nói đậm-đà, tình-tiết rất thân-thương như sau:
“Thiên Chúa là Đấng thấu
suốt mọi tâm can
đã chứng tỏ Ngài chấp nhận
họ,
khi ban Thánh Thần cho họ
cũng như đã ban cho
chúng ta.
Ngài không phân biệt
chút nào giữa chúng ta với họ,
vì đã dùng đức tin để
thanh tẩy lòng họ.”
(Cv 15: 8-9)
Quả-quyết của đấng
thánh hiền-lành vào thuở trước, sẽ là và vẫn là động-lực thúc-đẩy tôi và bạn,
ta sẽ đi hoài và đi mãi trong chốn dân-gian hiền hoà mà kiếm-tìm những người
bạn chưa quen nhưng vẫn biết. Bởi, bạn cũng như tôi, ta vẫn biết rằng
Thiên-Chúa tạo-dựng nên ta là để ta sống hài-hoà với hết mọi người, dù họ có
bất-đồng hoặc chống-đối tôi, chống-đối bạn cách nào đi nữa.
Quyết thế rồi, nay
mời bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang tiến về phía trước mà hát lên những câu ca dù
buồn bã, những viết rằng:
“Vời vợi sáng, một trời hương gió vàng
Ngàn sao bâng khuâng trên bên sông Ngân.
Lời suối réo đàn lệ hoen tà áo.
Đôi mắt giai nhân tìm đâu giữa trời.”
(Lê Trọng
Nguyễn – bđd)
Đôi mắt
ấy, sẽ tìm thấy ở mọi nơi, mọi thời. Cũng rất chóng.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn không cần tìm đôi mắt giai-nhân
cho bằng con mắt của tình thương yêu cũng thật gần
như bao giờ.
No comments:
Post a Comment