Saturday, 1 June 2013

“Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ!”




 Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ Mười Thường Niên Năm C 09-6-2013

Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ!”
Đừng đợi ngày mai, đến lúc tôi qua đời
Đừng đợi ngày mai, đến khi tôi thành mây khói
Cát bụi làm sao mà biết mỉm cười.”
(Đức Huy – Nếu Có Yêu Tôi)
(1Tim 3: 10-18)
            Vâng. Đúng thế. Câu hát này bần đạo lại được nghe Khánh Ly hát thêm lần nữa, vào buổi văn nghệ “Tiếng Hát Bằng Kiều” ở Sydney, hôm 10/5/2013. “Nếu có yêu tôi…” có thể là lời nhắn của ai đó gửi đến mỗi người trong ta. Cũng có thể là lời nhắn gửi của cái-gọi-là “Cầm, Kỳ Thi, Hoạ” được nhân-cách-hoá, cũng không chừng!
Vâng. Đúng vậy. Lời nhắn đây, gồm những câu và những chữ rất hi hữu:“Đừng đợi ngày mai, đến lúc tôi qua đời…” rồi mới hỏi hoặc mới thích, e sẽ muộn.   
            Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức: trong đời người vẫn có những câu hỏi hoặc câu nhắn không khác thế là bao nhiêu. Như thế tức hỏi rằng: trong sống đời đi Đạo, nhiều người vẫn sống bằng con tim hoặc quan năng của mình, rất thức thời! Con tim và quan năng này, được triển khai/diễn tả qua nghệ thuật rất lớn lao của nhà Đạo, ở đâu đó. Câu hỏi và câu nói, hôm nay, còn là câu hối thúc bần đạo lục lọi hầu kiếm tìm một giải đáp cho phải lẽ, dù đôi lúc không đúng với thực tại cuộc sống.
            Có những câu hỏi/đáp tựa hồ như thế. Có những lời hát cũng tương tự như lời nhắn nhủ được nghệ sĩ hát tiếp ở bên dưới:

            Nếu có bao dung, thì hãy bao dung bây giờ.
Đừng đợi ngày mai, đến lúc tôi xa đời.
Đừng đợi ngày mai, biết đâu tôi nằm im hơi.
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.”
(Đức Huy – bđd)

Với một số người, nằm im hơi hay tạ lỗi cùng người vẫn có thể là câu hát tiếp, rất ý nghĩa:

“Có nhớ thương tôi, thì nhớ thương bây giờ.
Đừng đợi ngày mai, lúc mắt tôi khép lại.
Đừng đợi ngày mai, có khi tôi đành xuôi tay.
Trôi dạt về đâu, chốn nào tựa nương?”
(Đức Huy –bđd)

Nói cho đúng, có hỏi và đáp về nhiều thứ hoặc nhiều điều trong đạo, cũng tựa hồ lời thư của người viết có tên là Michael McGirr, tác giả cuốn “Finding God’s Traces” từng đưa ra vài ba thắc mắc gửi đến danh hoạ Rembrandt để nối lên sợi giây liên-kết giữa hội-hoạ và Đạo Chúa, như sau: 

“Thưa ông Rembrandt,

Chắc tôi phải thú thật với ông ngay ở đây, rằng: tôi đã có dịp đọc mẩu quảng cáo đăng trên báo địa phương thấy có người đã dùng tên ông làm thương-hiệu. Riêng tôi, vẫn thích cái cung-cách đầy tự tin đến độ bạo dạn khi ông ký tên lên hoạ-phẩm nổi bật trong giòng sử Tây phương đúng vào lúc có nhiều vị dám in hình vẽ của ông lên thành xe tải, với giòng chữ: “Tranh Rembrandt và những chuyện kỳ quặc”. Kỳ quặc đây, là ở điểm danh hoạ Rembrandt là hoạ sĩ tên tuổi người Hoà Lan sinh năm 1606 và chết năm 1669 có thể cũng muốn thấy xảy ra những chuyện như thế. Và từ đó, tôi đặt giả thuyết: nếu ông còn sống đến hôm nay, hẳn ông cũng sẽ lảng vảng đi quanh quất chiếc xe tải vẽ đầy những hoa hoè hoa sói, giống như thế!

Rembrandt xưa của tôi lại là ông công nhân, con trai của người thợ phay/tiện cùng với anh em mình làm nghề nướng bánh và sửa giày dép. Với ông, nghệ thuật là công việc hằng ngày đầy hấp dẫn của cuộc sống. Ông chẳng bao giờ làm giàu nhờ vẽ tranh để sống, nhưng ông vẫn phải đương đầu với nhiều thử thách gay go trong đó có buồn đau, đơn độc cùng các khó khăn tương tự. Nhưng ông là doanh gia từng làm nên nhiều khác biệt.

Có hai sự việc khiến ông được nhiều người biết đến và cảm kích rất mực, đó là: vẽ chân dung tự thuật và tạo tranh vẽ rút từ truyện Kinh thánh. Đó là hai mặt trên cùng một đồng tiền kẽm phối hợp để triển khai đặc tính linh-đạo súc tích, đầy kiếm tìm.

Thưa ông Rembrandt,

Ông là người đã tạo ra nhiều bức tranh chân-dung tự-thuật nói lên các giai đoạn đường đời với nét vẻ buồn/vui khác biệt. Khác biệt đây, không do tác giả muốn diễn tả sự phù phiếm/vu vơ hoặc tính vị kỷ của con người, nhưng ngược lại mới đúng. Các chân-dung tự-thuật do ông vẽ, có thể đã khởi đầu cho nhiều cố gắng gây ấn-tượng, nhưng thực chất nó là những kiếm tìm không ngừng nghỉ. Kiếm và tìm sự thật về chính mình, về người mình luôn có mặt xấu xí và nhiều khía cạnh giống như thế. Ông là người không biết hãi sợ khi nhìn lại chính mình ở cự-ly rất gần.

Cụ thể thì như thế. Chẳng hạn như, khi ông quyết vẽ lên nhiều cảnh-trí rút từ Kinh thánh của Đạo Chúa, thì chiều sâu tâm-thức mang tính chất rất người nơi bản vẽ đã trở thành nét vẻ tuyệt vời. Có điều lạ, là có lần ông tự vẽ chân dung của chính mình vào năm 1658 cách sao cho nó mang dáng vẻ vương giả một chút, lại chính là lúc căn hộ và tài sản của ông bị người ta đem đi đấu giá bán cho công chúng. Điều đó còn nói cho người xem tranh biết rằng: chân dung tự-thuật của ông chẳng liên quan đến những gì ông sở-hữu.

Về khía cạnh này, có hai bức độc đáo mà theo tôi, ông nên xem chung một lúc là bức “Xuống khỏi thập giá” (1633), còn bức kia là bức “Chúa trên đường Emmaus” (1629). Bức tranh đầu, vẽ hình Chúa trông mềm mại, ủ rũ là thế mà phải mất 4 người mới nâng nổi Ngài. Theo tôi, đây là hình ảnh cuối nói lên tấm thảm-hoạ nơi người phàm. Nhưng, toàn bộ thi hài của Chúa lại đẫm mình trong nguồn sáng rất mãnh liệt. Còn bức “Chúa trên đường Emmaus” lại dựa vào trình-thuật kể về những ngày tháng sau khi Chúa trỗi dậy từ cõi chết, cho thấy Chúa lu mờ dần trong bóng tối đầy ảm đạm. Dù thế, tranh của ông đã chứa đựng một sự thật rất sâu sắc. Sự thật là: Đức Giêsu trên thập-giá đã đưa toàn thể nhân loại vào với ánh sáng, còn Chúa Phục Sinh lại đã hiện thân cho nhiệm-tích sống động của Đức Chúa sống giữa chúng ta.

Thưa ông Rembrandt,

Ông cứ dấn bước về phía trước mà vẽ lên căn hộ của ông trước khi bọn tôi đưa ra thị trường địa ốc. Và tôi đây, tôi những muốn ông vẽ cả phần hậu trường của mọi thứ. Quả thế, ông hãy chú tâm đến những nơi mà ít người để mắt tới. Hãy đem chúng vào với ánh sáng. Bởi, chính đó là tên tuổi của những người cùng họ/cùng tên với ông đã vẽ lên toàn cảnh của thế giới nhân trần này.

Nay kính,
Michael McGirr
            (x. Michael McGirr, A Letter to a Painter, Australian Catholic Easter 2013, tr. 16)

            Thế đó, là tương quan giữa hội-họa và Đạo Chúa, đã phần nào kể hết những điều tương tự cũng rất “chân-thiện-mỹ”. Thế đó, cũng là những điều và những sự khiến ta có thể nói mà không sợ quá đáng, rằng: Đạo mình lâu nay vẫn có quan hệ khá chặt với nghệ thuật, đặc biệt là ngành hội hoạ, rất tượng hình.
            Nếu theo dõi Kinh Sách Cựu và Tân Ước, người đọc hẳn sẽ thấy là: ngay từ đầu, Đạo Chúa đã diễn tả ảnh hình một Đức Chúa theo hình tượng mà các nghệ nhân tưởng tượng. Tưởng tượng đó là thần tượng, tức thần linh được đúc tượng theo hình hài có mầu/có sắc nhưng không chắc. Nhiều lúc và nhiều khi, nghệ nhân trong Đạo ta lại cứ nắn/đúc nên tượng, nên hình đầy mầu sắc rồi tưởng đó là thần tượng chứ sự thật chỉ là tượng thần rất phàm trần, mà thôi.
            Vào thời của Đế quốc La Mã, người Đạo Chúa vẫn thấy sự giằng co giữa lo sợ về thần tượng và lòng ao ước có được ảnh hình đích thực để tạo nên nơi phượng thờ đẹp đẽ mà nguyện cầu. Vào lúc ấy, các tân tòng vừa trở về với Đạo dễ nhào trộn ảnh hình của Thiên Chúa với hình tượng của các thần khi trước mình đã theo. Lại thêm vào sự trộn lẫn này, là ý tưởng về việc Chúa tạo dựng con người theo ảnh hình của Ngài. Do đó, có sự trộn lẫn kéo dài nhiều thế kỷ.
            Lịch sử cho thấy, trong quá khứ, nhiều vị hoàng đế từng cấm con dân đi Đạo tạo ảnh Chúa giống con người rồi đặt ở nhà thờ. Có vị còn nại vào luật Môsê ngăn cấm người Do thái phủ phục trước các ảnh tượng Đức Chúa giống như thế.
            Giòng chảy lịch sử, lại cũng chứng tỏ cho mọi người thấy được hiện tượng cãi tranh, biện luận về sự kiện: đặt ảnh/tượng về Chúa đặt ở nhà thờ, không xứng hợp. Và, đó có thể là một trong các lý do có sự khác biệt và tách bạch giữa Thiên-Chúa-giáo và Đạo chính thống ở phương Đông, hồi thế kỷ thứ 8.
            Cuối cùng ra, tất cả đi tới thỏa hiệp công nhận rằng: nghệ thuật, dù gi đi nữa, cũng phải phản ánh và/hoặc có liên quan đến niềm tin, đúng truyền thống. Nói cách khác, truyền thống dạy rằng: các ảnh/tượng ở nơi thờ phượng phải là những tuyệt-tác thực sự mang tính “chân-thiện-mỹ”, mới được phép. Nói khác đi, nghệ thuật tượng-hình phải là nghệ-thuật tuyệt phẩm, do nghệ nhân có kỹ năng phải rất chuẩn mới được phép đưa vào nhà thờ, để tụng ca vinh danh Chúa, mà thôi.                
            Lại nữa, trong đời người, có nhiều sự việc nhìn qua người người cứ tưởng đó là nghệ thuật rất thật, nhưng kỳ thực vẫn chỉ là sự thật ở đời và trong đời được diễn tả thật ăn khách, mỹ miều, gồm nhiều thứ. Nhiều thứ và nhiều sự, rất giống truyện kể ở dưới cốt chứng minh rằng cuộc đời con người không chỉ mỗi đẹp như nghệ thuật thôi, mà còn mang nhiều ý nghĩa, rất “chân, thiện, mỹ”, nữa:    
         
“Truyện rằng:
Có một cậu học sinh 18 tuổi đang gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Cậu ta là một đứa trẻ mồ côi, và cậu ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền. Thế là anh chàng này bèn nảy ra một sáng kiến. Cậu ta cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

Họ tìm đến người nghệ sĩ dương cầm đại tài Ignacy J Paderewski. Người quản lý của Paderewski yêu cầu một khoản phí bảo đảm $2000 để cho ông ấy được biểu diễn. Sau khi họ thoả thuận xong, hai người sinh viên ấy bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị để cho buổi trình diễn được thành công.

Ngày trọng đại ấy cuối cùng đã đến. Paderewski cuối cùng cũng đã biểu diễn tại Stanford. Thế nhưng không may là vé vẫn chưa được bán hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé lại, họ chỉ có được $1600. Quá thất vọng, họ đến chỗ của của Paderewski để trình bày hoàn cảnh của mình. Hai người sinh viên ấy đưa Paderewski toàn bộ số tiền bán vé, cùng với 1 check nợ $400, và hứa rằng họ sẽ trả số nợ ấy sớm nhất có thể.
- Không! Paderewski nói - Cái này không thể nào chấp nhận được.
Ông ta xé tờ check, trả lại $1,600 cho hai chàng thanh niên và nói :
- Đây là 1600 đô, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn thì còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu thì hãy đưa cho tôi.
Hai cậu sinh viên ấy vô cùng bất ngờ, xúc động cảm ơn Paderewski..
Đây chỉ là một việc làm nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của Paderewski.

Tại sao ông ấy có thể giúp hai người mà ông ấy thậm chí không hề quen biết. Chúng ta tất cả đều đã bắt gặp những tình huống như vậy trong cuộc sống của mình. Và hầu hết chúng ta đều nghĩ: "Nếu chúng ta giúp họ, chúng ta sẽ được gì ?” Thế nhưng, những người vĩ đại họ lại nghĩ khác: "Giả sử chúng ta không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp khó khăn ấy?” Họ không mong đợi sự đền đáp. Họ làm chỉ vì họ nghĩ đó là việc nên làm, vậy thôi.
Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski hôm nào, sau này trở thành Thủ Tướng của Ba Lan. Ông ấy là một vị lãnh đạo tài năng. Thế nhưng không may chiến tranh thế giới nổ ra, và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Có hơn một triệu rưỡi người Ba Lan đang bị chết đói, và bấy giờ chính phủ của ông không còn tiền để có thể nuôi sống họ được nữa. Paderewski không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ. Ông ta bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ sự trợ giúp.

Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy.

Thảm họa cuối cùng cũng đã được ngăn chặn. Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới cảm thấy nhẹ nhõm. Ông bèn quyết định đi sang Mỹ để tự mình cảm ơn ông
Hoover vì cử chỉ cao quý của ông ấy đã giúp đỡ người dân Ba Lan trong những lúc khó khăn.
Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói :
-Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu, thưa ngài Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy.”

            Truyện kể thì như thế. Thật ra, cũng không nói hết được những gì bần đạo muốn nói về câu chuyện nghệ thuật ở nhà Đạo. Nhưng, người kể lại có lời bàn rằng: “Thế giới này đúng thật tuyệt vời, khi bạn cho đi thứ gì, bạn sẽ nhận lại được những điều tương tự.” Đúng thế. Thế giới này vẫn có những chuyện như thế: khi mình cho đi, dù trong nghệ thuật hoặc ở nhà Đạo, thì sẽ nhận lại được những điều tương tự. Nhưng, tương tự là tương tự thế nào? Cũng có thể là lời cuối cùng một bài hát, cũng là thế:

            Có tốt với tôi, thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai, đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai, đến khi tôi phải ra đi
Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn.”
(Đức Huy – bđd)

Cũng có thể là những lời dẫn giải và diễn giải khác, cũng khác hẳn. Và diễn giải của nhà Đạo, vẫn tương tự như lời dẫn rất hạnh đạo, như sau:

Các trợ tá cũng vậy,

phải là người đàng hoàng,

biết giữ lời hứa, không rượu chè say sưa,

không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn;

họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin

trong một lương tâm trong sạch.”

(1 Tim 3: 5-9)

 

            Thật ra thì, bậc thánh-hiền nói rất chung có thể áp dụng trong nhiều trường-hợp. Nhưng trường hợp của nghệ thuật trong Đạo, ta cũng nên hướng về lời căn dặn khác của đấng thánh như:

 

Tôi viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh.
Nhưng nếu tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết
phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên Chúa,
tức Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống,
cột trụ và điểm tựa của chân lý.
Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là:
Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm,
được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính;
Người được các thiên thần chiêm ngưỡng,
và được loan truyền giữa muôn dân;
Người được cả hoàn cầu tin kính,
được siêu thăng cõi trời vinh hiển.”
(1Tim 3: 10-18)

            Là Kitô-khác, tức cũng phải sống như Đức Kitô. Sống rất “chân, thiện, mỹ” không chỉ trong nhà Đạo mà thôi, nhưng là sống Đạo một cách rất “chân, thiện, mỹ” ở đời với người đời, rất ngoài Đạo. Sống như thế, tức sống cùng và sống với mọi người, cả những người vẫn hát những lời nhắn-nhủ rất ý nghĩa, vẫn bảo rằng:

Rộn ràng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau
Ngậm ngùi một nỗi vui.”
(Đức Huy – bđd)

            Vui hay đau, đau nhưng mà vui, vẫn là trạng thái rất tâm-linh lình xình một đời người. Một đời của những người vẫn nghe lời nhắn nhủ phải sống rất “chân, thiện, mỹ” suốt đời, với người đời.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn nghe nhiều lời nhắn và nhủ
            giống như thế suốt một đời
            mà vẫn quên.





No comments: