Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ Mười Một Thường Niên Năm C 16-6-2013
“Em lo gì trời gió!”.
“Em lo gì trời mưa!
Em lo gì mùa hè,
Em tiếc gì mùa thu.”
(Đức
Quỳnh/Nguyễn Bính – Thoi Tơ)
(1Ga 2: 8-11)
Hôm ấy, thêm một
ngày đẹp trời, bần đạo/bầy tôi đang lang thang trong khuôn viên chùa chiền, chợt
nghe đứa cháu nội mới lên 5 đã biết ngâm nga câu hát do ông ngoại dạy mà không
hiểu. Chẳng cần biết cháu đang tư-duy những gì với câu hát, ông nội cháu đây bèn
hát tiếp đôi câu, như sau:
“Ta cứ yêu đời đi.
Như lúc ta còn thơ,
Rồi để anh làm thơ,
và để em dệt tơ.”
(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)
Vâng. Đúng thế!
Khi xưa, lúc bầy-tôi-bần-đạo còn ấu thơ, ở đâu đó, vẫn có cảnh tình của cuộc
sống, rất tốt đẹp. Cảnh tình đó, có những giờ phút êm ả mà người anh/người chị
của chúng ta vẫn cứ đặt nhạc với những câu như “dệt tơ”, “làm thơ” cả vào
mùa thu rồi nhắn nhủ: “Ta cứ yêu đời đi!”
Yêu, như lúc ta “còn thơ”, và rồi
chẳng còn “lo gì trời gió”, với “trời mưa”, rất ban tối. Và khi ấy, bần-đạo bầy-tôi đây chẳng tiếc
nuối những “mùa thu”,hoặc “mùa hè” vẫn cứ lâm li, những lời như:
“Thơ anh làm, em hát,
tơ em dệt, anh may.
Ta xây đời bằng mộng,
như tiễn biệt con thoi.”
(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)
Vâng. Hôm nay đây, ở nơi này, người người vẫn sống trong phúc hạnh
cũng chẳng vì đã “dệt tơ” hay làm thơ hoặc viết nhạc rất tiền chiến, nhưng vẫn
ngồi đó hỏi han những vấn nạn nghe rất quen, mỗi khi có cuộc bầu bán Giáo
Hoàng, cũng rất mới. Hỏi han, những câu nghe hoài không biết chán và cũng chẳng
lạ, như:
“Theo anh chị và quý vị, có phải là Đức Giáo Hoàng tân cử của ta
rồi ra sẽ cho phép Hội thánh tấn phong nhiều nữ phụ đạo đức nếu không được làm công
việc của linh mục, thì ít ra cũng sẽ được vinh thăng thành “chị Sáu” hoặc “cô Sáu”, cũng chóng thôi, phải không? Hoặc, có khi còn tiến
nhanh/tiến mạnh hơn nữa để đốt giai đoạn cho phép linh mục ta có vợ như giáo
hội bạn, thật cũng tốt, phải thế không?”
Hỏi han/vấn nạn huỵch toẹt như thế, thì người nghe có là ai đi
nữa cũng sẽ tự ý xung phong kiếm tìm lời giải đáp cho hợp lý. Có nghe có nói
hoặc có gạn hỏi cho nhiều, thì bần-đạo-bầy-tôi đây chỉ xin tình nguyện gửi về
người hỏi đôi câu đáp trả tuy hèn mọn cũng chỉ để khỏi hát đi hát lại mãi câu ở
trên vẫn cứ nhủ: “Em lo gì trời gió”,
“Em lo gì trời mưa”, lưa thưa, ọp ẹp cho
đỡ mệt. Cũng may là, bần đạo chưa kịp vấn nạn những chuyện nắng/mưa đã được bầu
bạn chuyển cho thông tin khá mới mẻ vốn dĩ bao hàm vài tư tưởng khá “thời
thượng”, như sau:
“Vừa qua, đấng bậc vị vọng thuộc tầm cỡ chóp bu của giáo hội Công
giáo Đức-quốc là Tổng Giám Mục Robert Zollitsch đã kêu gọi Hội thánh ta nên cho
phép nữ giới được trở thành các vị “nữ phó tế” trợ giúp cử hành bí tích rửa tội
hoặc hôn phối bên ngoài thánh lễ, tức: một giải pháp mới mẻ khả dĩ giúp phụ nữ
mình tham gia xây dựng Hội thánh thời buổi này. Chuyện này, là thể theo báo cáo
của tờ “The Local”, tờ báo địa phương, ở bên ấy.
Tổng Giám mục giáo phận Fribourg, đương kim Chủ tịch Hội đồng
Giám Mục Đức lại đã kêu gọi hội thánh ta hãy có một vài đổi thay về cấu trúc, vốn
dĩ từng là yêu cầu của nhiều người đã được đưa ra làm đề tài thảo luận vào buổi
kết thúc 4 ngày hội thảo bàn về công cuộc cải tân, rất cần thiết.
Đây
là buổi Hội thảo đầu tiên được tổ chức theo thể loại này, đã mời 300 chuyên gia
Công giáo có kèm theo một đề nghị là: hội thánh ta cũng nên thực hiện cải tổ bao
quát, lớn rộng. Đề nghị của Tổng Giám Mục người Đức trước đây từng vang vọng một
đòi hỏi có từ nhiều năm nhằm cho phép nữ-giới trở thành phó tế, đã không còn là
điều huý-kỵ nữa.
Đức
Tổng Giám-mục Zollitsch có nói: Giáo hội Công giáo ta chỉ tái tạo được niềm tin
và sự ủng hộ tcủa mọi người nếu quyết tâm cải tổ, tận gốc rễ. Ngài Giám mục lại
cũng mô tả sự việc khác xảy đến với buổi hội thảo được như thành-tựu rất mới,
đó là: bầu khí cở mở, tự do. Vai trò của các phó tế chỉ để giúp linh mục trong các
nghi tiết phụng vụ ở nhà thờ và các vị này cũng chỉ có quyền thực hiện nghi
thức thanh-tẩy và hôn phối bên ngoài thánh đường thôi. Tuy nhiên, vai trò hàng
đầu của các vị này là để phục vụ những người có nhu cầu trong cộng đoàn kẻ tin
của mình, và trách nhiệm của các vị chỉ mang tính thế trần hơn là mục vụ.
Ngoài
ra, còn đề nghị khác phát xuất từ hội thảo này là việc triển khai quyền của các
vị từng ly dị nay quyết định tái giá được có chân trong cơ chế của hội thánh,
như: hội đồng giáo xứ, ban thừa tác-viên thánh-thể, thế thôi. Các vị trong phần
phần buổi hội thảo lại đã bàn thảo về việc cho phép các vị ấy được rước lễ và
gặp cha để xưng tội.
Đức
Tổng Giám Mục Zollitsch còn phát biểu: “Điều quan trọng đối với riêng tôi, là: dù ta không chủ
trương hủy hoại tính thánh thiêng của hôn phối, những người nam và nữ này cũng
nghiêm chỉnh đủ để ta cho phép họ được ở trong Hội thánh và cảm thấy mình cũng
được trân trọng, ở cùng nhà.” Cho đến
này, mọi canh cải vẫn còn ở tầm kích suy đoán hoặc biện bạch chứ chưa có gì là
thực tiễn hết. Và, cũng chưa có đề nghị nào được đưa ra cho khung thời gian
thực hiện những chuyện như thế ấy. Và, chuyện về các vị phối ngẫu nam nữ từng
ly dị nay muốn tái giá, đã trở thành câu chuyên gây nhiều tranh cãi khá ồn ào,
trong Hội thánh.” (x. CathNews, A Service of Church Resources, German arbishop calls for women deacons, 30/4/2013)
Thật ra thì, thắc mắc với vấn nạn về
quyền được ngang bằng nam giới cả trong địa hạt phụng vụ hoặc chức thánh, với
người ngoài đời, cũng như thể lời nhắn của nghệ sĩ, khi ông viết:
“Thơ
anh làm em hát,
tơ
em dệt anh may.
Ta
xây đời bằng mộng,
như
tiếng dệt con thoi.”
(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)
Kỳ thực thì, vấn nạn của nghệ sĩ xưa
nào khác gì đề nghị của đấng bậc vị vọng ở nước Đức, cũng chỉ là: hãy thử để
cho nữ-giới thực thi công việc của nam-nhân, hà tất sẽ có nhiều thuận lợi cho
Hội thánh, rất hôm này. Thuận và lợi, không chỉ theo nghĩa kinh doanh hay thực
tế ở ngoài đời, cho bằng chứng tỏ mình cũng biết sống hợp thời hợp buổi, rất
đúng phép.
Kỳ thực thì, có đề nghị hay không,
đâu chỉ mỗi đấng bậc vị vọng là ủng hộ ý kiến hoặc đề xuất/đề bạt mọi chuyện
trên nguyên tắc, mà còn có ý kiến phản hồi của các vị từng sống thực tế ở ngoài
đời, rất kinh nghiệm như sau:
Trước hết, là ý kiến của John Francis
Collins:
“Là
thừa-tác-viên lâu năm ở nhà thờ họ Baden-Wurttemberg bên Đức, tôi cũng có chút
kinh nghiệm để đưa ra đây mà chia sẻ. Ở nơi tôi, các vị nữ thừa tác-viên từng
thực thi công tác phụng vụ với đủ tầm cỡ cả về phẩm cách lẫn nét đẹp mà tôi
nghĩ không có rào cản nào về ngôn ngữ hết.
Tôi
còn nhớ rõ sự kiện này từng dấy lên vấn đề về phong chức cho nữ-phụ, mà tôi vẫn
giữ mãi trong đầu. Thế nên, cũng chẳng có gì lạ khi thấy Đức Tổng của tôi lại
đã dấy lên vấn đề phong chức sáu cho phụ nữ ở Đức và đặc biệt là ở xứ họ của
chúng tôi ở Baden-Wurttemberg. Có thể nói mà không sợ sai lầm là: các nữ
thừa-tác-viên mục vụ có nền giáo dục ở cấp cao, rất thành thạo về công tác này
lâu nay vẫn cố duy trì Giáo hội Đức sống mãi trong lòng dân tộc.”
Và, dưới đây là kinh nghiệm của một nữ phụ
tên Irena Mangone:
“Đã
có một thời, Hội thánh ta cũng có khá nhiều nữ thừa-tác-viên hoặc gọi họ là
“Chị Sáu” hay sao đó cũng tùy người. Ta thấy nhiều vị như thế trong sách Công
Vụ khá năng nổ đến độ các thánh nam khó mà quản lý/điều động. Theo tôi, hãy giữ
các vị này trong bếp hoặc Dòng tu thật cũng phải. Bởi, ngay ở những nơi như
thế, các vị này cũng đã khó mà thấy an toàn trong hệ cấp toàn những nam nhân
hết cầm cân nảy mực lại đe nẹt, doạ dẫm. Tôi chỉ muốn nói rằng: nay ta đang ở
vào niên biểu 2013 chứ không còn sống vào thời Trung cổ nữa rồi, Giời ạ.
Và, một ý kiến của nữ phụ khác có tên
Margaret M. Caffey:
“Ôi
chao! Sao Đức Tổng Zollitsh của tôi lại can đảm đến thế, dám nêu vấn đề gai góc
này lên ở đây! Như thế là ngài cũng công nhận vai trò quan trọng của các Nữ
thừa-tác-viên trong Hội thánh thời tiên-khởi rồi đấy. Và, thật sự thì ta cũng
đang có nhu cầu cảm thông cho những vị từng có vấn đề gãy đổ trong gia đình.
Có
điều khiến tôi ngạc nhiên khi thấy rằng hiện thời ta đang bị mang tai tiếng rất
nhiều trên khắp toàn cầu, vậy mà hàng giáo sĩ của ta chưa nhận ra được nhu cầu
cần có được ảnh hưởng của nữ-giới trong công tác; và, các cụ vẫn chưa biết cách
sử dụng món quà quý giá mà các phụ nữ từng đóng góp cho Hội thánh, trong công
cuộc thừa tác rất cần thiết.”
Và, ý kiến của một giáo dân mang tên
Phillip Turnbull ở Úc, cũng không tệ:
“Tôi
thường tự nhủ: sao nhiều người lại cứ cho rằng thật khó cho phụ nữ được hoạt
động trong Giáo hội, mà sự thật thì lâu nay lại có rất nhiều vị nữ-lưu từng
điều hành Giáo hội Công giáo ở Úc với tầm cỡ tuyệt vời như cội rễ cho các tổ
chức tôn-giáo như thế. Thật sự, thì các vị nữ lưu này từng thống lĩnh môi
trường giáo dục ở nhiều nơi và chắc từng gây ảnh hưởng trên nền giáo dục mang
tính chất rất Công giáo.
Ngay
ở lĩnh vực giáo xứ cũng thế, rất nhiều phụ nữ từng có công gầy dựng công tác
mục vụ có chất lượng và tạo ảnh hưởng lên nền phụng vụ của xứ sở. Kinh nghiệm
của riêng tôi về công tác phụng vụ ở nhiều giáo xứ mà tôi có dịp ghé viếng thì
hầu hết lực lượng thừa-tác ở nơi đó đều do phụ nữ đảm trách, đặc biệt là về âm
nhạc và văn hoá. Vậy thì, ta còn chờ gì nữa mà không cho các vị ấy chức năng
lành thánh hoặc vai trò gì đáng kể nữa cơ chứ?”
Ý kiến phản hồi tương đối là thế, tuy chưa
gọi được là “rộng đường dư luận”, nhưng nếu có ai muốn truy tầm một chút Kinh
Sáchccủa đấng bậc thánh hiền trong Giáo hội, tưởng cũng nên đọc thêm đôi giòng
sau đây:
“Anh
em thân mến,
tôi
viết cho anh em, điều ấy thật là thế
nơi Đức Giêsu và nơi anh em,
bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.
Ai
nói rằng mình ở trong ánh sáng
mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.
Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng,
và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”
(1Ga 2: 8-11)
Điều mà
đấng thánh hiền viết ở trên, vẫn là lời nhắc nhở về điều răn mới rất yêu
thương, ta xử sự với mọi người. Điều mới ấy có là lời răn bảo hay không, vẫn cứ
là: “không có gì nên cớ vấp phạm”, cho
mọi người. Điều mà đấng bậc ở trên đã đề nghị, chưa hẳn là “cớ vấp phạm” cho ai
hết, mà chỉ là một chắc nhở ta xem lại chức năng và ý nghĩa của cụm từ Hội
thánh, như đấng bậc vị vọng khác cũng từng đề cập khi ngài nói về Lễ Hiện Xuống
có Thần Khí Chúa đã đến, rất như sau:
“Lễ
Hiện Xuống nhắc ta chuyện tương lai, ta dựng xây. Đôi lúc ta cứ nghĩ mình hoạt
động trong tình huống có khuôn thước lịch sử có giới hạn, nên cũng chỉ vội vã
thông qua với người Do-thái ở Cựu-ước, và tập trung nhiều vào Đức Kitô của thời
ấu thơ, vội nhảy vào thời điểm Ngài công khai hoạt động, chú trọng nhiều đến sự
chết và sống lại của Ngài, rồi thêm vào đó chuyện Ngài về Trời và gửi Thần Khí
đến với muôn người trong ngày Hiện Xuống, chỉ thế thôi. Còn lại một việc, là:
ta chỉ tìm đường về quê trời, sau đoạn kết của câu chuyện đời.
Khuôn
thước lịch-sử vẫn ra như thế, nếu là lịch-sử cứu độ, e rằng cũng bức bách, hạn
hẹp. Thật sự, thì: ta cần khuôn thước lớn rộng, bao gộp nhiều công đoạn để thực
thi việc Hiện Xuống của Thần Khí trong tất cả lịch sử hay tiểu sử của mỗi
người. Không chỉ quan tâm mỗi khuôn thước thánh-sử của Giáo hội mà thôi, nhưng
của mọi nhóm hội/đoàn thể trong đó người người vẫn cứ làm mọi việc nhưng không
nói ra, nhưng để Chúa tỏ cho ta thấy Ngài muốn ta làm gì vào Lễ Hiện Xuống, rất
Ngũ Tuần. Ta đang ở trong tình huống có Hiện Xuống thời hiện tại, có bối cảnh
một đại lễ đang bày cho ta việc để làm.
Nhìn
vào thánh Hội hôm nay, lúc này, ta thấy rằng Hội thánh đang bận bịu rất nhiều
việc, nhưng đã chắc gì Hội thánh là ta đang theo khuôn thước của Hiện Xuống, có
Thần Khí chỉ dẫn. Hội thánh ta cũng đang hoạt động thật đấy, nhưng vẫn đẩy lùi
thế giới và con người ra bên ngoài. Hôm nay, mừng ngày Chúa Hiện Đến, có lẽ Hội
thánh, tức toàn thể các kẻ tin chứ không chỉ là hệ cấp giáo quyền mà thôi cũng
nên nhớ, rằng: mọi sự ở trần gian là một phần của tổng thể có Chúa, có ta, có
cả Thần Khí cùng hoạt động trong Chúa và với Chúa. Hội thánh hôm nay cũng cần
một nền giáo dục mới cho công tác ấy. Hội thánh cần mời mọi người lâu nay bị bỏ
rơi ở bờ rìa, hãy cùng tham gia công việc chung của mọi người. Công việc
thánh-hoá toàn thể thánh hội, như đã từng xảy ra trong ngày Chúa Hiện Đến.
Làm
được thế, ta sẽ có cuộc di dân khá lớn rộng không phải từ nước này qua nước nọ,
mà từ vai trò này qua chức năng khác, trong tổng thể. Và hiện nay đang có dấu
hiệu cho thấy sự việc như thế đang dần dà tỏ hiện một lễ Hiện Xuống và Hiện Đến
với muôn người.” (xem Lm
Kevin O’Shea CSsR, Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống năm C 19-5-2013, www.suyniemloingai.blogspot.com)
Là người sống trong/ngoài thánh hội hoặc
xã hội, bạn và tôi, vẫn là người cần dựng xây nhóm hội ấy cho phải phép, đúng
cách. Dễ thực hiện. Giáo Hội và xã hội hôm nay không phải và không còn là thể
chế rất cứng ngắc, vị luật và cố chấp. Nhưng, là một tổng thể gồm những con
người sống cho phải đạo, và đúng lẽ đạo. Đạo làm người. Đạo của Chúa.
Để minh hoạ những điều nói trên cho
nhẹ nhàng, thư giãn như chuyện đời sau đây:
“Vua Arthur vị vua trẻ
tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và bắt giữ. Lẽ ra vua nước Pháp sẽ
giết ngài, nhưng vẻ trẻ trung dễ mến của Arthur đã làm cho vua Pháp cảm động.
Ông ta hứa sẽ trả tự do cho Arthur nếu ngài giải được một câu đố cực khó. Thời
hạn để Arthur đưa ra câu trả lời là một năm. Nếu sau một năm không tìm ra lời
giải, Arthur sẽ phải chết.
Câu đố là: Phụ nữ thật sự muốn gì? Đó
là câu đố mà có lẽ đến nhà thông thái nhất thế gian này cũng phải bó tay. Và
với Arthur câu đố này quả là một thử thách quá lớn. Nhưng dù sao nó vẫn tốt hơn
là cái chết. Arthur đành chấp nhận mạo hiểm.
Khi trở về Anh Quốc, ngài hỏi tất cả
mọi người từ các công chúa, các cô gái mại dâm, các vị cha xứ đến cả các quan
toà, nhưng không ai có thể đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Điều mọi người
khuyên vua là đến hỏi bà phù thuỷ già bởi vì có lẽ chỉ còn bà ta mới giải được
câu đố hóc búa này.
Những ngày cuối năm cũng đã tới gần.
Arthur không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Bà ta đồng ý
sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là bà ta muốn lấy Garwain hiệp
sĩ dũng cảm của Hội bàn tròn, người bạn thân nhất của vua.
Arthur thất kinh. Bà ta vừa xấu vừa bẩn
thỉu. Ngài chưa từng bao giờ thấy một ai đáng tởm như mụ ta. Không, ngài sẽ
không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi như vậy.
Khi biết chuyện, Garwain nói với Arthur
rằng sự hi sinh đó của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của vua,
sự tồn tại của hội bàn tròn và vương quốc Anh. Và chàng hiệp sĩ quyết định hy
sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và vua Arthur cũng nhận được câu trả lời.
Điều phụ nữ thật sự muốn đó là “Có toàn
quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống của mình”.
Ngay lập tức ai cũng nhận ra rằng mụ ta
vừa thốt ra một chân lý. Vua của họ nhất định sẽ được cứu. Quả thật vua nước
láng giềng rất hài lòng với lời giải đáp và cho Arthur khỏi cái án tử hình.
Lại nói về đám cưới của mụ phù thuỷ và
chàng hiệp sĩ. Tưởng chừng như không có gì có thể khiến Arthur hối hận và đau
khổ hơn nữa. Tuy nhiên chàng hiệp sĩ Garwain của chúng ta vẫn cư xử hết sức
chừng mực và lịch sự. Mụ phù thuỷ thì trái lại, trong tiệc cưới, mụ ta làm nháo
nhào mọi thứ lên. Thỉnh thoảng mụ lại lấy bàn tay bẩn thỉu của mụ nhón cái này
một chút, bốc cái kia một tý. Thật chẳng ra làm sao cả. Mọi người thì hết sức
khó chịu.
Đêm tân hôn, Garwain thu hết can đảm
bước vào động phòng hoa chúc. Nhưng, gì thế này? Trên giường không phải là mụ
phù thuỷ già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ.
Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt
chàng hiệp sĩ, cô gái từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với cô lúc cô là
phù thuỷ, nên để thưởng cho chàng hiệp sĩ, cô sẽ trở thành một người xinh đẹp
dễ thương đối với chàng trong một nửa thời gian của 24 giờ một ngày.
Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh
đẹp của nàng vào ban ngày hay là ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Garwain bắt
đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể tự hào
cùng nàng đi khắp nơi, nhưng ban đêm làm sao mà ta chịu cho nổi? Hay là ngược
lại nhỉ, ta đâu cần sỹ diện với bạn bè cơ chứ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt
mọi người đi, nhưng khi màn đêm buông xuống, ta sẽ được tận hưởng những giây
phút chồng vợ với thiên thần này.
Sau đó Garwain đã trả lời “Nàng hãy tự
quyết định lấy số phận của mình. Nàng muốn đẹp hay xấu vào lúc nào cũng được”.
Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ
phù thuỷ đội lốt cô gái xinh đẹp kia hài lòng và nàng nói với chàng rằng nàng
sẽ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp suốt đời cho chàng.
Đó là phần thưởng cho người biết tôn
trọng ý kiến của phụ nữ.....khà ...khà ...
Nói cho cùng, thì: có cho phụ nữ làm
phó tế vĩnh viễn hay không, hoặc có giúp vua Arthur tìm được hạnh phúc với người
mình yêu hay không, cũng chỉ là vấn đề rất thực của người sống trong đời. Dù,
đời ấy có là đời đi Đạo hay đời người sống đạo làm người cho phải lẽ, xin hãy
như cháu nhỏ nọ cứ ngâm ngay câu hát, dù chưa hiểu hoặc chưa biết, như sau:
“Em lo gì trời gió!”.
“Em lo gì trời mưa!
Em lo gì mùa hè,
Em tiếc gì mùa thu.”
(Đức
Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)
Hát thế rồi, ta lại sẽ hát thêm câu ca
đầy ý nghĩa, trong mọi chuyện, rằng:
“Ta cứ yêu đời
đi.
Như lúc ta còn thơ,
Rồi để anh làm thơ,
và để em dệt tơ.”
(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)
Hãy cứ yêu đời đi, rồi thì các nữ
phụ trong đời rồi cũng sẽ thực hiện được điều mà Hội thánh ta phải nghĩ tới,
rất ở đời.
Trần
Ngọc Mười Hai
Vẫn
quan niệm:
kitô-hữu
cũng như người đời
vẫn
luôn có tự do
sống
ở đời, như mọi người.
No comments:
Post a Comment