Chuyện
Phiếm đọc trong tuần 28 Thường niên năm B 14-10-2018
“Chiều thơm, ru hồn người bồng bềnh”
“Chiều không, im gọi người đợi mong
Chiều trông cho mềm mây ươm nắng
Nắng đợi chiều nắng say
Nắng nhuộm chiều hây hây.”
(Vũ Thành
An – Bài Không Tên Số 8)
(2 Thessalônikê 3: 3)
Mùi
thơm của buổi chiều vàng, cũng “ru hồn
người bồng bềnh” được thế sao? Thế còn, các hiện-tượng ở đời lâu nay vẫn ru
hồn người vào chốn phù du, khó thấy thì thế nào?
Thế
đó, là hiện-tượng của cái gọi là “fake
news”, tức: tin dỏm, tin giả, hoặc tin ngụy-tạo toàn những chuyện nhảm-nhí trong
đời người, rất chán ngán. Vừa qua, có một nhận định cũng “cháng ngán” được diễn-tả
bằng các ngôn-từ như sau:
“Fake
news” = tin giả, tin
dỏm, tin đồn, tin nhảm, tin ngụy tạo… – đang
bùng nổ trong kỷ nguyên thông tin không biên giới. Fake news đang như một đại dịch
toàn cầu. Khi có thể ảnh hưởng cả cuộc bầu cử tổng thống thì vấn đề fake news
không phải là chuyện nhỏ vô hại như bề ngoài nhảm nhí của nó…
Vượt
phạm vi gây nhiễu xã hội với những tin đồn mua vui vô thưởng vô phạt, “fake
news” còn đang được sử dụng cho mục đích chính trị. Có thể nói đây là biến tướng
mang tính xu hướng của thời đại thông tin nằm dưới những ngón tay lướt chạm màn
hình.”
Thế
đấy, là những sự-kiện trải dài trong đời người, hệt như lời nghệ sĩ từng
phát-biểu ở nhạc-bản được hát tiếp, sau đây:
“Ngày đi
qua vài lần buồn phiền.
Người quen với cuộc tình đảo điên.
Người quên một vòng tay ôm nhớ.
Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay.
Vắng nhau một đêm, càng xa thêm nghìn trùng.
Tiếc nhau một đêm, rồi mai thêm ngại ngùng.
Mai sau rồi tiếc, những ngày còn ấu thơ.
Lần tìm trong nụ hôn lời nguyện xưa mặn đắng.
Về đâu, tâm hồn này bềnh bồng.
Về đâu, thân này mòn mỏi không.
Về sau và nhiều năm sau nữa.
Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay”.
(Vũ Thành An – bđd)
Hôm
nay, ngồi buồn theo dõi những lời ca, tiếng hát của người nghệ sĩ đã “ru hồn”
tôi, hồn người vào chốn miền rất nhung nhớ. Nhớ, cả khung trời kỷ niệm từng hằn
in nơi ký-ức nhiều người, mãi đến hôm nay.
Hôm
nay và mai rày, vẫn còn đó niềm vui/nỗi buồn làm lung-lạc cả người nghe lẫn người
hát, rất khủng khiếp. Mai ngày hoặc hôm nay, còn thấy mãi khung trời kỷ niệm
miên man ấy. Cũng một “lũ kỷ niệm” từ
đâu đó, giờ đây về “ru hồn người” chốn
phù du xuyên suốt. Bềnh bồng, nhưng không nhiêu khê, khó tả. Hôm nay và mai ngày,
người người sẽ còn ru như thế đến muôn đời, rất khôn nguôi.
Hôm
nay đây, lại đã thấy một thứ “ru hồn người” cũng khá “chuẩn” qua một số câu chuyện
hoặc sự việc khiến lòng người tỉnh-táo với những lời từng được trích-dẫn như sau:
“Ngày
xưa, có nhóm 138 học giả đạo Hồi từ 43 nước trên thế giới có thư ngỏ gửi cộng đồng
tín hữu Đức Kitô vốn đề cập và đề nghị đưa tình thương yêu vào vị trí ưu tiên
cao nhất cho hai Đạo.
Và,
các vị đã đồng thuận ký thư trên để tỏ bày rằng tình thương yêu vẫn là và phải
là mẫu-số-chung cho sinh hoạt của hai Đạo. Mẫu-số-chung ấy, là nền tảng và mục
tiêu để hai đạo đặt ra cho mình thực hiện. Mẫu-số-chung, là mẫu số rất chung về
lòng mến Chúa và yêu người đồng loại, cả hai gộp lại làm một. Một mục tiêu, một
điểm nhấn ngõ hầu ta phụng thờ chỉ một Chúa, thôi.
Bởi,
Ngài là Tình Yêu đích thật để ta biến nó thành hiện thực, với mọi người. Chính
đó, là lòng mến mà tỏ ra với Chúa và với nhau để tôn vinh, kiến tạo cùng một
chí hướng. Đức Chúa của Tình Yêu luôn đi bước trước trong sáng tạo và trao ban
Tình Yêu cho ta theo cung cách cả hai Đạo đưa ra cho mọi người. Các học giả đạo
Hồi ở trên lâu nay nới rộng vòng tay thân thương/hợp tác để cùng với cộng đoàn
tín-hữu Chúa Kitô, coi đó như sáng kiến quả cảm, đặc biệt.
Để
phúc đáp, nhóm đối-tác bên Đạo là các học-giả từng đặt cơ-sở ở đại học Yale,
Hoa Kỳ cũng nới rộng vòng tay yêu thương của Đạo, với người anh em bên đó.
Nhưng, trước khi hồi đáp bằng động-thái thương yêu, các vị trong nhóm nói đây đã
yêu cầu anh em đạo Hồi “hãy thứ tha các động-thái mà tiền-nhân mình xử sự trong
quá-khứ. Các đấng bậc trên cũng xin cộng-đồng người Hồi và các vị trong tổ chức
“Xót-Xa-Tình-Nên-Một” hãy thứ tha cho các lầm lỡ mà anh em bên Đạo Chúa mắc phạm.
Điều
mà tiền-nhân xưa từng sơ-xuất, người thời đó gọi là “Thánh chiến”, nay đổi lại
bằng tên gọi rất mới và cũng rất thời thượng, đó là: “Chiến tranh chống khủng bố”,
nhưng thực sự chỉ nhắm vào anh em Hồi giáo, mà thôi. Bằng việc này, các học-giả
Đạo Chúa đã xưng thú lỗi lầm mình sai phạm với người anh em đạo Hồi và mong là
những việc như thế sẽ không tái-diễn.
Học-giả
Đạo Chúa công-nhận rằng: ngay từ đầu, sự xung-đột giữa hai đạo, dù được gán cho
cái tên nào thánh thiêng đi nữa, vẫn không mang tính đạo-giáo và hàm-ẩn tầm-kích
chỉ biết chống/phá thương yêu, mà thôi. Và, các vị lại cũng công-nhận, rằng: vấn-đề
gây ưu-tư, trăn trở ở nhiều thời, đã tạo ảnh hưởng xấu lên phân nửa số dân trên
thế giới. Và, các ngài lại khẳng định: việc này ảnh-hưởng không ít lên viễn-tượng
hoà-bình và công-chính, cho thế-giới.
Từ
đó, các học giả nói trên đã dùng mẫu-số-chung “yêu thương” với lời lẽ làm nền
cho mọi hành-xử để các vị không còn đặt nặng tính cá-biệt giữa hai đạo, mà chỉ
tập-trung lên mấu-số chung căn-bản của Đạo. Bởi, cuối cùng thì: trọng-tâm của mọi
nhóm/hội đoàn-thể vẫn nhắm vào tình thương yêu trải dài với mọi người. Thương
yêu, là lòng kính-sợ Chúa, mến mộ Đạo và cảm thông với hết mọi người bằng mẫu-số-chung
của hai đạo.
Thương
yêu, là lòng sủng-mộ ta có với Chúa và với người đồng-loại, bất kể người đó là
ai? Theo tôn giáo nào? Về điểm này, hai nhóm trên đều cố lướt thắng hết mọi sự,
ngõ hầu đạt cùng đích là cảm-thông/yêu thương, xoá bỏ mọi khác biệt dễ gây hận
thù.
Nhóm
anh em đạo Hồi cũng nói đến tình thương yêu từ Đấng Thánh Vô Giới Hạn luôn xót
thương mọi người. Trong khi Đạo Chúa, dưới tầm nhìn của người Do thái giáo,
cũng nói nhiều về Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu, Đấng làm cho mặt trời toả sáng trên mọi
thứ tốt/xấu. Ngài là Đấng khiến cho mưa rơi trên đầu người công-chính cũng như những
kẻ bất-lương, chia rẽ. Mưa vẫn rơi, cho thế giới đạo Hồi và Đạo Chúa, suốt mọi
thời.
Hai
bên đã tôn trọng nhau qua kinh-nghiệm về Thiên-Chúa-Đầy-Lòng-Yêu-Thương đã đi
bước trước trong việc thương yêu loài người, dù người đó là nam hay nữ, già hay
trẻ, Công giáo hay đạo Hồi. Không thể nói: mình tin Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu cho
đến khi nào mình nhận ra rằng: mọi người đều đã xích gần nhau bằng tình thương-yêu
Ngài ban tặng ta, cùng một kiểu. Điều này sẽ cải biến ý-tưởng về “người đồng loại”.
Ta thương yêu người đồng-loại như Chúa dạy rằng: tất cả phải nên một, gom gộp lại.
Không thể nói là mình thật sự tin vào Chúa mà lại không ưa thích những gì mà đồng-loại
mình mong ước hoặc không thực-thi hành-động những gì mình muốn cho đồng-loại của
mình có được.
Ngày
4/11/2008, một nhóm các lãnh-đạo và thần-học-gia từ các nước theo đạo Hồi đã đến
Rôma để đối-thoại với thủ-lãnh và các thần-học-gia Công giáo về “Giới Lệnh”
Chúa ban. Mỗi nhóm gồm 24 vị đã đích-thân hội-kiến Đức đương-kim Giáo-Hoàng nhằm
tái-lập mẫu-số-chung thương-yêu từng để lạc mất.
Ngay
ngày đầu, các vị trao đổi về nền-tảng Giới Lệnh thương-yêu theo truyền-thống của
cả hai bên. Những ngày sau đó, các vị cũng bàn về phẩm-giá con người, về việc
tôn trọng phẩm-giá đã nẩy mầm từ nền-tảng yêu thương Chúa tạo cơ-sở cho hiệp-nhất.
Ngày
cuối cùng mở ra cho mọi người, cả chúng dân ngoài nhóm nữa. Tất cả như một, đều
nguyện-cầu để mọi người trở nên một trong Yêu-thương do Chúa đề xuất. Đây là bước
ngoặc lịch-sử sẽ dẫn dắt cả hai đạo tiến xa/tiến mạnh đem hoà-bình đến cho thế-giới.
Điều thú-vị, là các thần-học-gia Công giáo cũng nhấn-mạnh sự quan-ngại về hành-xử
của tín-đồ Đạo Chúa đối với đồng loại, nói chung. Trong khi đó, các thần-học-gia
đạo Hồi tập-trung nhiều vào Tình thương yêu Chúa.
Cách
đây 150 năm, chức sắc nọ trong chính quyền Hoa-Kỳ đến gặp Joseph, một lãnh tụ
Da Đỏ có tên là “Lỗ Mũi Xỏ” của Hoa Kỳ. Chức sắc này, nói nhiều về lợi-ích ban tặng
người sắc-tộc nếu họ chấp-nhận mở trường học tại khu-vực họ sinh-sống. Ngay lúc
ấy, tộc trưởng Joseph nói: “Chúng tôi thật chẳng muốn có trường học nào ở đây hết”.
Khi được hỏi lý-do sao lại thế, thì trưởng tộc Joseph cho biết đơn-giản chỉ vì:
“Làm thế, người Mỹ sẽ chỉ lo mỗi chuyện dạy con em chúng tôi cách xây nhà thờ
mà thôi.”
Chức
sắc kia lại hỏi: “Vậy thì, các ông không muốn có nơi phụng thờ sao?” Câu trả lời
thật dễ hiểu: “Không! Chúng tôi không muốn nhà thờ! Tại sao ư? Thì, có nhà thờ
rồi, bọn tôi chỉ mải mê tranh-cãi về Thượng Đế, đến độ không bao giờ chấm-dứt.
Và chúng tôi chẳng muốn cãi nhau về Thượng Đế, bởi con người chúng ta chỉ rành rẽ
cãi tranh những gì thuộc con người, thôi. Chúng tôi chẳng muốn học và biết những
chuyện như thế!”
Ai
giỏi vi-tính, hãy vào “Google” mà đánh chữ “linh thiêng” sẽ thấy hơn một chục
trang diễn-giải từ-ngữ này. Có trang, còn nói cả tuồng vọng cổ do nghệ-sĩ Hương
Lan thủ vai nữa. Có trang, lại bàn về tính thánh-thiêng cao cả, nơi con người.
Có trang, cũng đề-cập đến cách sống mật-thiết với Tình Yêu “lành thánh” vẫn rất
thực.
Sống
mật thiết với Chúa bao gồm ba lãnh-vực. Thứ nhất, về bản-chất của kinh-nghiệm,
tức: bản-chất niềm-tin đích-thực, của con người. Thứ hai, gợi kinh-nghiệm của con
người về tôn-giáo vốn diễn-giải sự thể lâu nay gọi là triết/thần. Một khi con
người tìm ra ngôn-ngữ chung cho lãnh-vực thứ nhất, sẽ không cần gì hơn cho hai
lãnh vực kia.
Tóm
lại, chỉ một lĩnh-vực duy-nhất cần-thiết cho mọi người, là “yêu thương người đồng-loại”,
mà thôi.” (X. Lm Kevin O’Shea
DCCT, Suy niệm Lời Ngài Chúa Nhật 22 Thường
Niên năm B 2/9/2018)
Thật
ra, nếu bảo rằng các linh mục Đạo Chúa lại cứ giảng rao Tin Mừng bằng lời lẽ hoặc
tư-tưởng hệt như kiểu “ru hồn người bồng
bềnh” với sóng dồn, thì chắc chắn người nghe cũng đi vào Nước Trời im ắng, chẳng
cần thưa thốt.
Thật
ra thì, giảng rao Tin Mừng ở đâu đi nữa, cũng chẳng là chuyện “ru hồn người” theo cách sao đó, mà chỉ là
chuyển-tải cho nhau, đến với nhau bằng một tình huống êm-ru bà rù, rất nghe
quen.
Quả
thật, có nhiều cách “ru hồn người” vào chốn miền nào đó, nhưng vẫn không làm
người được ru cứ thế đắm chìm trong chốn tối tăm mịt mù “đợi nắng nhuộm chiều hây hây” đâu. Quả thật, đời người cũng có nhiều
tình-huống rất “ru hồn người” bằng
câu truyện kể cũng đáng nể nhưng khá buồn như câu truyện ở bên dưới còn giữ lại:
“Truyện rằng,
Tại trước khu chợ
Phúc Lộc Thọ, CA, Phuc Jean cũng đã gặp một bà già Việt Nam lụ khụ ngả nón ăn
mày. Không biết bà sang Mỹ đã lâu hay bây giờ mới qua? Tại sao bà lại phải ăn
mày ở cái xứ người già có tiền trợ cấp xã hội đàng hoàng? Ôi, vì sao? tại sao?
làm sao?
Trong giờ lễ Chủ
Nhật, tại nhà thờ Saint Columban, linh mục T. đã làm nhiều người nghe
phải nhỏ lệ khi ông kể một câu chuyện về một người Mẹ đã nuôi cả mười đứa con
thành công về tài chánh, đứa bác sĩ, đứa kỹ sư, dược sĩ, nhưng rồi cả mười đứa
con ấy, không nuôi nổi một bà Mẹ già. Đứa nào cũng có lý do để từ chối không
muốn ở với Mẹ.
Linh mục T. cũng kể
lại lúc ông còn ở Chicago, có một lần trong thời tiết lạnh giá, đến thăm một bà
Mẹ, thấy căn nhà rộng mông mênh, không có ai, vì hai vợ chồng đứa con đi làm
cả. Điều ông quan tâm là thấy trong nhà rất lạnh, bà Mẹ phải mặc hai áo nhưng
vẫn lạnh cóng. Ông có hỏi bà mẹ tại sao không mở máy sưởi, thì bà Mẹ cho biết
là không dám mở vì sợ khi con đi làm về, sẽ càm ràm là “tốn tiền điện quá!”
Những đứa con sang trọng kia, có thể chờ đến ngày Lễ Mẹ, thì đưa mẹ ra ăn tô
phở, hoặc gọi điện thoại về nhà, nói: “I love you, mom!” Thế là đủ bổn phận của
một đứa con thành công ở Mỹ đối với người mẹ yêu dấu của mình.
Những Bà Mẹ ở đây
là hiện thân của Mẹ Việt Nam đau khổ, đã hy sinh cả cuộc đời cho con cái, nhưng
khi con cái phụ rẫy, bỏ bê, cũng im lặng chấp nhận cho đến hết cuộc đời.
Có biết bao nhiêu
trường hợp như thế trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại? Biết bao nhiêu bà mẹ âm
thầm, lặng lẽ chịu đựng tất cả những đau khổ từ khi lấy chồng, sinh con, rồi
ráng nuôi dạy con nên người, sau đó lại chấp nhận những đứa con bất hiếu như
một định mệnh mà không hề thốt lời than vãn?
Một bà mẹ đã dành
dụm bao năm buôn gánh bán bưng để cho con vượt biên một mình, sau đó, khi qua
đến Mỹ, thằng con sợ vợ quá, không dám để mẹ ngủ trong phòng, mà bảo mẹ phải
ngủ dưới đất trong phòng khách. Một lần, con chó xù của hai vợ chồng đứng đái
ngay vào đầu mẹ. Bà mẹ kêu lên, thì đứa con dâu cười, trong khi chồng đứng yên,
chẳng dám nói gì.
Bà mẹ khác, không
được ở chung với con trai, phải thuê một phòng của người bạn, vì sức khoẻ yếu,
lúc nào cũng lo là chết không có ai chôn. Khi nghe nói về bảo hiểm nhân thọ, bà
có năn nỉ thằng con trai đứng tên mua giùm, để bà bớt chút tiền già và đóng
hàng tháng để mai sau, con có tiền lo hậu sự cho bà, nhưng đứa con dâu nhất
định không chịu, cho rằng “tốn tiền vô ích, chết thì thiêu, liệng tro xuống
biển là xong, chôn làm gì cho mất thời giờ đi chăm sóc.” Bà cụ uất quá, phát
bệnh và qua đời. Không biết rồi bà có được chôn cất đàng hoàng theo ý muốn, hay
lại bị cô con dâu vứt tro ra biển.
Không thiếu những
bà mẹ khi đến thăm con trai, phải ngồi nhìn vợ chồng ăn uống ríu rít với nhau,
vì con dâu không chịu dọn thêm một chén cơm mời mẹ. Một bà mẹ nhớ con nhớ cháu
quá, đến thăm con, nhưng sợ con dâu sẽ nhiếc móc thằng chồng, nên vừa vào tới
cửa đã vội thanh minh: “Mẹ không ăn cơm đâu! Mẹ vừa ăn phở xong, còn no đầy
bụng. Mẹ chỉ đến cho thằng cháu nội món quà thôi!”
Không thiếu những
bà mẹ vì lỡ đánh đổ một chút nước trên thảm mà bị con nhiếc móc tơi bời. “Trời
đất ơi! Cái thảm của người ta cả vài ngàn bạc mà đánh đổ đánh tháo ra thế thì
có chết không?”
Có bà mẹ bị bệnh
ung thư, biết là sắp chết, mong được con gái đưa về Việt Nam, nhưng con đổ thừa
cho chồng không cho phép về, rồi biến mất tăm, sợ trách nhiệm.. Mẹ phải nhờ
người đưa ra phi trường, nhờ người dưng đi cùng chuyến bay chăm sóc cho đến khi
về tới nhà. Từ lúc đó đến lúc mẹ mất, cả con gái lẫn con rể, cháu chắt cũng
chẳng hề gọi điện thoại hỏi thăm một lần.
Một bà mẹ già trên
70 tuổi rồi, có thằng con trai thành công lẫy lừng, bốn năm căn nhà cho thuê,
nhưng bà mẹ phải lụm cụm đi giữ trẻ, nói đúng ra là đi ở đợ vì phải lau nhà,
rửa chén, nấu cơm, để có tiền tiêu vặt và để gộp với tiền già, đưa cả cho… con
trai, một thanh niên ham vui, nhẩy nhót tung trời, hai, ba bà vợ. Mỗi khi gặp
bà con, chưa cần hỏi, bà đã thanh minh: “Ấy, tôi ngồi không cũng chả biết làm
gì, thôi thì đi làm cho nó qua ngày, kẻo ở nhà rộng quá, một mình buồn lắm!”
Trong một cuộc hội
thoại, một bà mẹ đã khóc nức nở vì chỉ đứa con gái phụ rẫy, bỏ bà một mình cô
đơn. Bà chỉ có một đứa con gái duy nhất, chồng chết trong trại cải tạo. Trong
bao nhiêu năm, bà đã gồng gánh nuôi con, rồi cùng vượt biên với con, tưởng mang
hạnh phúc cho hai mẹ con, ai ngờ cô con chờ đúng 18 tuổi là lẳng lặng xách vali
ra đi.. Nước mắt bà đã chảy cho chồng, nay lại chảy hết cho con.
Tại những nhà dưỡng
lão gần trung tâm Thủ Đô Tị Nạn, có biết bao nhiêu bà mẹ ngày đêm ngóng con đến
thăm nhưng vẫn biệt vô âm tín. Một bà cụ suốt ba năm dài, không bao giờ chịu
bước xuống giường, vì biết rằng chẳng bao giờ có đứa con nào đến thăm. Bà đã
lẳng lặng nằm suốt ngày trên giường như một sự trừng phạt chính mình vì đã
thương yêu con cái quá sức để đến tình trạng bị bỏ bê như hiện tại..
Sau ba năm, bà mất
vì các vết lở, vì nỗi u uất, mà những người chăm sóc bà vẫn không biết gia cảnh
bà như thế nào, vì bà không hề nhắc đến. Có điều chắc chắn là khi bà còn là một
thiếu nữ, bà phải là một mẫu người làm cho nhiều người theo đuổi, quyến luyến,
tôn sùng. Chắc chắn bà đã trải qua bao năm tháng thật tươi đẹp, vì cho đến khi
mất, khuôn mặt bà, những ngón tay bà, và dáng dấp bà vẫn khoan thai, dịu dàng,
pha một chút quý phái. Nhưng tất cả những bí ẩn đó đã được bà mang xuống mồ một
cách trầm lặng.
Một buổi chiều
tháng 5, tại một tiệm phở Việt Nam, một mẹ già đứng tần ngần bên cánh cửa. Khi
được mời vào, mẹ cho biết mẹ không đói, nhưng chỉ muốn đứng nhìn những khuôn
mặt vui vẻ, để nhớ đến con mình, đứa con đã bỏ bà đi tiểu bang khác, để mẹ ở
với đứa cháu là một tên nghiện rượu, đã hăm doạ đánh mẹ hoài. Hắn đã lấy hết
tiền trợ cấp của mẹ, lại còn xua đuổi mẹ như cùi hủi. Hôm nay, hắn lái xe chở
mẹ đến đầu chợ, đẩy mẹ xuống và bảo mẹ cút đi! Mẹ biết đi đâu bây giờ?
Trong một căn phòng
điều trị tại bệnh viện Ung Thư, một bà cụ đã gào lên nức nở khi người bệnh nằm
bên được chuyển đi nơi khác. “Bà ơi! Bà bỏ tôi sao? Bà ơi! Đừng đi! Đừng bỏ tôi
nằm một mình! Tôi sợ lắm, bà ơi!” Những tiếng kêu, tiếng khóc nấc nghẹn đó lặp
đi lặp lại làm người bệnh sắp chuyển đi cũng khóc theo. Người y tá cũng khóc
lặng lẽ. Anh con trai của người sắp đi xa, không cầm được giọt lệ, cũng đứng
nức nở. Cả căn phòng như ngập nước mắt. Mầu trắng của những tấm trải giường,
mầu trắng của tấm áo cánh của bà cụ như những tấm khăn liệm, tự nhiên sáng lên,
buồn bã. Bà cụ nằm lại đó đã không có đứa con nào ở gần đây. Chúng đã mỗi đứa
mỗi nơi, như những cánh chim không bao giờ trở lại.
Trên đại lộ Bolsa,
thỉnh thoảng người ta thấy một bà mẹ già, đẩy chiếc xe chợ trên chứa đầy đồ
linh tinh. Mẹ chỉ có một cái nón lá để che nắng che mưa. Khuôn mặt khắc khổ của
mẹ như những đường rãnh bùn lầy nước đọng, đâu đó ở chợ Cầu Ông Lãnh, Thủ
Thiêm, gần bến Ninh Kiều, Bắc Mỹ Thuận hay ở gần cầu Tràng Tiền, Chợ Đông Ba?
Mẹ đi về đâu, hỡi Mẹ? Những đứa con của mẹ giờ chắc đang vui vầy…” (Chu Tất Tiến – trích gia đình
NAZARETH)
Cuối
cùng thì, có “ru hồn người” cách êm ả thế nào đi nữa, thì hồn người/lòng người
vẫn “tỉnh như sáo sậu”, đến khôn nguôi.
Cuối
cùng thì, “ru hồn người” theo cách nào đi nữa, cũng chỉ ru bằng những câu ca rất
ư êm ả qua các hát ở trên, vẫn thêm thắt một đoạn kết, những hát rằng:
“Chiều
thơm, ru hồn người bồng bềnh”
“Chiều không, im gọi người đợi mong
Chiều trông cho mềm mây ươm nắng
Nắng đợi chiều nắng say
Nắng nhuộm chiều hây hây.
Ngày đi
qua vài lần buồn phiền.
Người quen với cuộc tình đảo điên.
Người quên một vòng tay ôm nhớ.
Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay.
Vắng nhau một đêm, càng xa thêm nghìn trùng.
Tiếc nhau một đêm, rồi mai thêm ngại ngùng.
Mai sau rồi tiếc, những ngày còn ấu thơ.
Lần tìm trong nụ hôn lời nguyện xưa mặn đắng.
Về đâu, tâm hồn này bềnh bồng.
Về đâu, thân này mòn mỏi không.
Về sau và nhiều năm sau nữa.
Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay”.
(Vũ Thành An – bđd)
Và,
dù tôi/dù bạn có hát những lời ru miên-man như thể bảo: “Về sau và nhiều năm sau nữa, có buồn nhưng vẫn chưa
bao giờ bằng hôm nay”, câu hát
này vẫn không thể nào sánh kịp lời đấng thánh hiền từng bảo ban, như sau:
“Nhưng Chúa là Đấng trung tín:
Ngài sẽ làm cho anh chị em được vững mạnh,
và bảo vệ anh chị em khỏi ác thần.
Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào
anh chị em:
anh chị em đang làm
và sẽ làm những gì chúng tôi truyền.
Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh chị em,
để anh chị em biết yêu mến Thiên Chúa
và biết chịu đựng như Đức Kitô.”
(2Thess
3: 3)
Xem thế
thì, niềm tin của tôi và của bạn cũng sẽ chắc-nịch hơn “lời buồn thánh” những
hát lên câu “Chiều thơm, ru hồn người
bềnh bồng”… mỏi mòn, mãi về sau.
Trần
Ngọc Mười Hai
Và
những điệu ru hơi buồn
về
cuộc đời người.
Rất
hôm nay.
No comments:
Post a Comment