Tuesday, 19 December 2017
“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”
Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017
“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”
Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên
Bao đêm tôi đã một mình nhớ em
Ðêm nay tôi lại một mình.”
(Thanh
Tùng – Một Mình)
(Mt 14: 26)
Có lẽ,
chính vì bạn cứ hát những câu như: “Bao
đêm tôi đã một mình”, rồi còn thêm: “Đêm
nay tôi lại một mình”, thế nên mới xảy ra những cảnh tượng một mình ngồi
thấy ghê ghê, đến rợn người.
Thế đó,
là tâm-trạng của rất nhiều người từng thắc mắc và hỏi han đấng bậc nhà Đạo
những chuyện tréo cẳng ngỗng như sau, thì làm sao cố Đạo biết đâu mà trả
lời/trả vốn cho ra nhẽ. Quả là, cố Đạo người Tây ở Sydney cũng từng nghe hỏi
rất nhiều những câu hỏi khá là vẩn vơ, khiến đức ngài ơ thờ bèn trả lời/trả vốn
rất huề vốn như câu chuyện hỏi đáp. Thế nhưng, trước khi nghe kể, tưởng cũng
nên nghe người nghệ-sĩ hát thêm đôi ca-từ thấm-thía, như sau:
“Nhớ em vội vàng trong nắng trưa.
Áo phơi trời đổ cơn mưa.
Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ.
Tan ca bố có đón đưa.
Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai.
Gió sương mòn cả hai vai.
Ðôi chân chênh vênh con đường nhỏ.
Nghiêng nghiêng bóng em gầy.
Vắng em còn lại tôi với tôi.
Lá khô mùa này lại rơi.
Thương em mênh mông chân trời lạ.
Bơ vơ chốn xa xôi.
Vắng em đời còn ai với ai.
Ngất ngây men rượu say.
Ðêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ.
Cô đơn, cùng với tôi về.....”
(Thanh
Tùng – bđd)
“Cô đơn”, nhung nhớ
và gì gì nữa, vẫn là và sẽ là những tình-tự ở đời, còn nhớ mãi khôn nguôi. Nói
về chuyện “nhớ”, thì bần đạo bầy tôi đây là cũng nhớ đôi giòng hỏi đáp giữa
thày/trò, cha/con trong Đạo có nhiều nỗi nhớ, rất như sau:
“Thưa Cha,
Nhiều năm qua, con đây vẫn thường nghe nhiều truyện
kể về những người từng thấy “ma”, và có cả những vị bảo rằng mình từng nghe nhiều
âm-thanh “lạ tai” thậm chí còn nói: họ thấy cả đồ vật di-chuyển tuỳ hứng mà
chẳng có duyên-do, cớ sự gì hết. Vậy, người Công giáo nhìn sự việc này như thế
nào? (câu hỏi nghe quen quen từ một
giáo-dân ở huyện nhà, là giáo-xứ).
Và đây,
lại một trả lời cũng rất quen từ một đấng bậc cũng quen thuộc ở Sydney, như
sau:
“Cả tôi nữa, cũng nghe nhiều truyện từ những người
tôi quen biết lại là những người từng nhất quyết bảo rằng họ đã thấy “ma” ở đây
đó; hoặc từng nghe nhiều âm thanh lạ, kể cả giọng nói của những người không xuất
hiện vào lúc ấy. Hiện tượng về những “căn nhà ma” vì thế có lẽ cũng có một vài
nền-tảng, trên thực-tế. Đây thực sự là vụ/việc khi hơn một người đều thấy hoặc
nghe/biết cùng một chuyện.
Hỏi rằng: từ câu chuyện ấy ta làm được điều gì?
Thì, theo thiển ý, Giáo-hội ta cũng từng có những tuyên-bố chính-thức về vấn-đề
này, nên tôi cũng chẳng thấy cần để đưa ra câu trả lời dứt khoát cho vấn đề
này. Ta cũng từ đó nên rút ra điều mà mọi người biết được do kinh-nghiệm và do
từ niềm tin của người Công-giáo.
Tác giả Peter Kreedt có viết trong cuốn sách có
nhan-đề là “Tất cả những gì mọi người cần biết về thiên-dàng, lại đã đề-cập đến
chuyện “ma quái” rất kinh-hoàng. Ông công-nhận rằng có ba chứng cứ đáng kể về
ma quái gặp thấy trong hầu hết mọi nền văn-hoá. Ông phân-biệt ba loại ma từng
xứng-hợp với kinh-nghiệm chung của nhiều người mà tôi từng nói đến.
Thứ nhất, có loại ma được qui về câu hỏi mà anh/chị
đưa ra, đó là: các hồn ma thấy được nhưng khá mờ mịt lại không có thân-xác
thể-chất đột nhiên xuất-hiện hoặc biến mất. Có lúc, hồn ma ấy được bảo là có
dáng dấp đàn ông hoặc phụ nữ, và có độ tuổi nào đó khá đặc biệt, kể cả con nít.
Tác giả Kreeft nghĩ rằng: có thể là, thần-hồn của
người phàm xác thịt vẫn còn tồn tại nơi luyện ngục và vẫn còn một số công việc
chưa hoàn tất trên trái đất. Có thể là, những thần hồn ấy đã sống hoặc chết
ngay tại địa-điểm chúng xuất-hiện. Chẳng có gì gọi được là ác-thần/sự dữ khi ta
nói về các “thần hồn” ấy, dù có làm cho người chứng kiến cảnh-tượng này, thấy
hãi sợ.
Thật ta không thể cắt-nghĩa được tại sao các “hồn”
ấy lại được phép xuất-hiện trên cõi trần này, nhưng có quá nhiều truyện kể để
xua đuổi chúng để đầu óc con người khỏi bận tâm. Cũng có thể, Thiên-Chúa có lý
do nào đó cho phép các “thần hồn” này được xuất-hiện. Một trong các lý-do có
thể hiểu được, đó là: việc cho phép như thế cố để làm người bắt gặp thấy mủi
lòng rồi còn biết đường mà cầu-nguyện cho họ, hoặc dạy cho họ một vài bài học.
Thứ hai nữa, là: các hồn ma mang dáng dữ-tợn có thể
xuất tự hoả-ngục, cũng không chừng. Tôi có nghe một số người bảo rằng họ từng
thấy đám quỉ dữ mang hình-hài rất khác biệt và tôi không có lý-do gì để nghi ngờ
sự thật mà nói ra.
Cùng một loại như thế, có thể gộp chung vào đó các
thần hồn được hiện lên trong các buổi lễ hoặc nghi-thức nào khác rất ngoại
thường. Bởi, Satan có thể dính-dự vào các buổi ấy, nên Giáo-hội từng dựa vào
Kinh thánh (như ở sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 9-13) từng cảnh giác các tín-hữu
mình đừng nên dính-dấp vào buổi ấy.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có dạy rằng: “Mọi
hình-thức bói toán nói tiên-tri đều phải được loại bỏ: chạy đến với Satan hoặc ma
quái, quỉ thần để nhờ cậy, hoặc gọi hồn người chết hoặc “cầu cơ” này khác để bảo
rằng “sức mạnh thần-kỳ ấy có phép thần thông đoán được tương lai con người”
luôn là chuyện sai trái, đầy dối trá.
Lại nữa, tra-cứu, đoán ý tử vi đẩu số, chiêm-tinh,
coi chỉ tay, giải-đoán điềm thiêng dấu lạ, cùng các hiện-tượng giải-đoán tương
lai mai ngày, rồi chạy đến với môi-giới tất cả đều che đậy một khát-vọng có
quyền-phép trên cả thời-gian, lịch-sử để phân tách kết cuộc những người khác, cùng
thu-phục các quyền-uy thế-lực tiềm ẩm ở bên dưới. Tất cả những thứ như thế đều
trái với niềm vinh-dự, sự tôn-trọng và kính sợ những gì ta mắc nợ chỉ mình
Thiên-Chúa, thôi.” (X.
GLHTCG đoạn 2116)
Trường hợp có sự việc các đồ vật di chuyển gây
tiếng động hoặc tiếng ồn lạ lùng mà không có nguyên nhân rõ ràng dứt khoát do
hồn ma phối hợp với Satan tạo ra. Thánh Gioan Vianney, Cha xứ họ Ars, thường
nghe thấy tiếng động của tủ giường/bàn ghế và tiếng động lạ kỳ trong nhà về
đêm, và thánh-nhân biết chắc chắn rằng quỉ dữ đang làm việc để ngài lo ra chia
trí trong công-cuộc thừa-tác đầy kết quả ở toà giải tội.
Nếu ai trải-nghiệm cũng một hiện-tượng như thế
trong nhà mình, thì tốt nhất nên tìm một linh-mục hoặc ngay đến đấng trừ tà ở
giáo-phận mình mà xin chúc lành hoặc làm phép trừ tà cho căn nhà của mình.
Thứ ba là, có những truyện kể về sự xuất-hiện của
các bậc hiển-thánh hoặc người thân đã chết, thông thường là các thành-viên
trong gia-đình mình từng được công-nhận là các vị này có biệt-tài như thế. Nhưng,
các ngài không làm ai hãi sợ, đúng ra là tạo sự ủi-an và hy-vọng cho người thân
của mình, thôi. Đôi lúc, thành-viên gia-đình đã quá cố, các thiên thần hoặc các
bậc hiển-thánh có thể cũng xuất-hiện khi có người thân yêu khác trong gia đình
đang đi dần vào chỗ chết, có lẽ để an ủi người sắp chết hoặc tháp-tùng họ đi
vào cuộc sống đời sau. Đây, lại là vấn-đề của linh-hồn hoặc những vị đang ở
chốn thiên cung.
Nói chung thì, khi các trải-nghiệm của con người
đưa ra quá nhiều truyện kể về bóng mờ của các bản-thể linh-thiêng xuất-hiện,
một số trong đó được gọi là “hồn ma”, thì cũng không có lý-do gì để ngờ-vực
tính chân-thực của các vị này.
Do bởi các sự việc như thế thỉnh thoảng mới xảy ra,
thì cũng không nên sợ họ. Giả như có ai trong chúng ta lần đầu thấy loại “hồn ma”
nói trên xuất-hiện, thì cũng nên cầu-nguyện cho linh-hồn của người vừa hiện
hình và cũng lẽ cũng nên lấy nước thánh rảy lên nơi chỗ vị ấy xuất hiện, thật
mới đúng.” (X. Lm John Flader, Church and ghosts, The Catholic Weekly
18/01/2009, Question Time, tr.10)
“Thần
hồn” hiện ra, lại cũng giông giống lời ca hôm nào, những hát rằng: “Cô đơn, cùng với tôi về”, và cũng có
thể là lời đề-nghị tôi và bạn, ta quay về với vùng trời câu truyện kể khá đáng
kể về tâm-trạng cô đơn nhưng không diệu vợi của cuộc đời, cũng rất người.
“Cô đơn, cùng với tôi về” còn gợi nhớ câu truyện kể về “Ông Lão Kỳ Lạ” đọc
được ở trên mạng thấy có nghĩa, bèn trích lại đây để bạn và tôi cùng
thưởng-thức rồi sẽ tính. Câu truyện được kể như sau:
“Lần đầu tiên tôi nghe về lão là
mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12 năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố
Lausanne. Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho bữa tiệc thân hữu
gặp nhau. Phố xá lạnh lẽo và vắng lặng lắm vì đa số mọi người đã đều đi về đoàn
tụ với gia đình. Trời lất phất đổ tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà
cảm thấy lãng mạn hay cô đơn kinh khiếp.
Với tôi, năm ấy thật buồn, vì ba
mẹ tôi đi Hoa Kỳ thăm bạn, còn tôi vì phải lo học thi cho học kỳ mùa Đông, nên
không đi theo được. Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong mùa Giáng Sinh
lê thê quả là một chuyện cô đơn khó chịu. May mà còn có bạn bè dễ thương. Họ
làm tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm lòng người viễn xứ!
Khi ở phố về, chúng tôi chọn
đường tắt nên đi ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt lẻo trên ghềnh đá,
đứng trên thành cầu nhìn xuống dưới người yếu bóng vía dễ bị xây xẩm vì chiều
sâu hun hút hiểm trở. Người bạn đi chung chợt giật tay tôi chỉ một túp lều vải
được dựng ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, vì mùa này không phải là
mùa để người ta cắm trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20 năm nay, mỗi năm cứ đến
mùa Giáng Sinh lại có ông già đến đây cắm trại.
Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Bạn tôi
cho biết chiếc cầu này là nơi quyến rũ nhiều người cứ đến mùa Giáng Sinh ra
nhảy cầu tự tử. Vì mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá, những người sống cô đơn
thường bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ tìm cái chết. 20 năm qua,
người đàn ông đã cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai một mình đứng trên cầu, lập
tức ông bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều của ông thường có rượu chát,
chocolade và vài món quà nho nhỏ. Người có ý định tự tử thường được ông mời vào
lều cho uống rượu tâm tình, cho đến khi người đó bỏ ý định quyên sinh.
Trước khi rời khỏi lều, thể nào
họ cũng được ông cho món quà có ý nghĩa, với số điện thoại để sau đó cần người
nói chuyện thì tìm ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ hội đoàn nào
giúp sức. Nghe lời kể của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không ngờ giữa cuộc
sống có quá nhiều bon chen, tranh giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn
tôi đi về phía lều của ông lão và tỏ ý muốn nói chuyện. Ông lão mở cửa lều, mời
chúng tôi vào. Đó là một người đàn ông có dáng người khắc khổ, tuổi khoảng trên
dưới 70 tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong căn lều thiết trí rất đơn giản, có tấm
thảm trải cho ấm và một lò than nho nhỏ bên cạnh để sưởi, nấu trà, cafê và thức
ăn.
Ông lão hỏi chúng tôi sao lại
đứng trên cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá lạnh trong buổi chiều Noël?
Tôi kể ông nghe về cảm nhận của mình khi biết chuyện và vô cùng tán thán hạnh
nguyện của ông. Ông lão mỉm cười:
-Thì sống trong đời, ta có thể
làm được việc gì tốt cho người khác thì phải cố gắng thôi!“ Ông cũng cho biết
thêm: có nhiều người oán trách tôi vì tôi bắt họ tiếp tục sống để chịu khổ!
Chúng tôi nói chuyện với nhau
khoảng 1 giờ đồng hồ về nhiều đề tài rất tương đắc, ông lão rất thông thái, rất
tế nhị và khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau đó chúng tôi từ giã
ông để trở về lo bữa tiệc buổi tối.
Từ đó, thỉnh thoảng tôi gọi điện
thoại nói chuyện với ông. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở và trở nên thân thiết.
Ông tên Peter Dupont, tuổi đã 72 và sống một mình cô độc. Tôi cũng ngạc nhiên
không hiểu tại sao ông không có gia đình. Ông bảo:
-Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa,
vì phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia đình, ngày tháng qua đi, trở thành
người già khi nào không biết.”
Ông làm việc tại ngân hàng X với
nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ văn phòng này tới văn phòng khác. Ông không
bao giờ nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại đây. Khi mẹ ông qua đời trong đêm,
ông đến xin phép ban giám đốc cho ông được nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc
nhiên thấy ông xin nghỉ, hỏi lý do mới biết đêm qua mẹ ông qua đời. Ông giám
đốc kêu trời và bắt ông nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông gọi
điện thoại xin cho ông đi làm lại kẻo không ông cũng sẽ „chết“ như bà mẹ của
ông mất, nếu người ta còn bắt ông ở nhà!
Quả thật tôi không thể hiểu được
tại sao có người ham mê công việc đến thế, ông lão trả lời những thắc mắc của
tôi rằng:
-Ta được sống trong xã hội đầy đủ
thế này, ta nợ biết bao nhiêu người, nếu không làm việc để trả lại những ân
nghĩa ta vay, thời ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?“ Tôi giật mình vì lý luận
của ông rất gần với tư tưởng Bồ Tát Đạo của Phật Giáo đại thừa, trong khi ông
là KiTô-Hữu.
Với thời gian, chúng tôi khám phá
ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank nơi bạn tôi làm việc, mặc dù
cũng làm việc cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành quản
trị gia tài, trong khi ông chưa giàu có để có trương mục tại ngân hàng
đó.
Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng
khi có chuyện gì có liên quan đến ngân hàng tiền bạc.
Thời gian trôi đi, đã 14 năm kể
từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù rằng
tuổi ông đã quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều người biết về ông, có những bài
phóng sự hay chương trình truyền hình nói về ông, song chưa bao giờ những thứ
ấy khiến ông để ý! Ông thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới quay phim, phỏng
vấn ông.
Hôm qua, tôi nhận được điện thoại
của bạn tôi, tôi đã lặng người đi khi nghe tin ông đã vừa giã biệt cõi đời! Cảm
động nhất là trước ngày ông mất, ông nhờ người đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng
gặp bạn tôi (sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại được nữa, mà phải
ngồi xe lăn), ông mang tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế đất, bill điện nước
theo và yêu cầu bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo:
-Ta biết ta sắp ra đi, nay nhờ
anh giúp trang trải hết những nợ nần còn sót lại này, ta không muốn còn phải nợ
nần gì khi giã biệt cõi trần.”
Ông không có nhiều tiền trong
trương mục, nhưng sau khi thanh toán còn lại một chút, bạn tôi hỏi ông muốn làm
gì, ông bảo làm gì cũng được, song ông có người cháu họ xa, hiện cũng đã 70
tuổi, nếu số tiền còn lại đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho người cháu
với lời nhắn nhủ là: “Giáng Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng được ra
cầu Lausanne cắm trại cứu người, thì ông sẽ mỉm cười thanh thản ở bên kia thế
giới“
Chỉ vậy, hai ngày sau đó ông ra
đi thanh thản tại bệnh viện gần nhà.
Một vị Bồ Tát bằng xương bằng
thịt đã âm thầm đến và đi, không để lại dấu vết! Tôi không đi dự tang lễ của
ông được, nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có nhiều người được ông cứu từ
30 năm về trước cũng mang gia đình con cháu tới tiễn ông.
Mùa thu … vắng lặng và buồn quá!
Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát bụi … tăng thêm chất màu mỡ cho đất. Một
đóng góp cuối cùng! Ông lão kỳ lạ kia cũng vậy!” (Quảng Diệu Trần Bảo Toàn -
Mùa Vu Lan 2548)
Với tác
giả truyện kể, thì: “mùa thu… vắng lặng
và buồn quá!…” nhưng như thế vẫn chưa hẳn là chuyện ma quái hay ma quỉ, rất
buồn tênh. Lại cũng có những chuyện buồn tênh, nhưng chẳng là ma quỉ hay ma mãnh
gì hết, vẫn nên nghe:
“Học lớp 12, tôi không có thời gian về
nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân
lên đưa cho tôi.
Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15
km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại
nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
- "Có dư đồng nào không
con?".
Tôi đáp:
- "Còn dư bốn ngàn ba ạ".
Ba nói tiếp:
- "Cho ba bớt hai ngàn, để lát về,
xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa".
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng
rưng.” (Truyện về Ba,
do người viết không ký tên là tác giả)
Và một
truyện kể khác, về “má” cũng không tên người viết như sau:
“Ba hay má, vẫn cứ là những ma và quái
âm thầm sống trong đời người làm gì có ma quỉ. Chi có ma, khi “Ba” và “Má”
không chịu sống thân phận của mà, của Ba của con người nhiều phận buồn.
Má hay Ba, vẫn không là “Ma” hay “quái
quỉ” gì, chỉ là con người đích-thực sống cuộc đời buồn như “ma” mà thôi.”
Thế
đó, là chuyện đời cũng nên phiếm hoài, phiếm mãi để rồi sẽ nhận ra rằng: đời
người, chỉ một chuyện phiếm rất sương sương nhưng không “vô thường”, rất xưa
nay.
Thế
đó, là câu chuyện “phiếm” đời người nói mãi không nguôi. Và không hết. Nói gì
thì nói, chớ nên nói chuyện ma quái hoặc quỉ mà để rồi tất cả cũng trở-thành
quái quỉ đến độ “trẻ không tha, già không thương”, là như thế.
Nói
hoài nói mãi một chuyện phiếm, rồi cũng đến lúc ta nên dừng lại để về với ngôi
vườn thượng uyển có những lời vàng rồi theo đó mà sống cùng, sống với nhau, cho
nhau hạnh phúc mien trường, không sợ hãi. Lời rằng:
“Vào khoảng canh tư,
Ngài đi trên mặt biển mà đến với các
môn đệ.
Thấy Ngài đi trên mặt biển,
các ông hoảng hốt bảo nhau:
"Ma đấy!",
và sợ hãi la lên.
Đức Giêsu liền bảo các ông:
"Hãy yên tâm,
chính Thầy đây,
đừng sợ!"
(Mt
14: 26)
Thế
đấy là Ngài, vậy mà môn đệ cứ tưởng là “Ma!” Thế còn, ma kia, quỉ nọ mà người
người lại cứ nghĩ là người. Người hay ma, ma hay người, vẫn chỉ là quan-niệm mà
nhiều người còn nghĩ đến, mãi hôm nay.
Và,
hôm nay xin trở về với đời thường để còn sống những chuỗi ngày còn lại cũng rất
người, như người người, ở trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Chưa từng gặp thứ ma mãnh
hoặc quỉ ma nào hết.
mà chỉ là
những người không thuộc loại
“quỉ tha ma bắt”,
mà thôi.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment