Saturday, 14 June 2014
“Lướt theo chiều gió,”
Chuyện
Phiếm đọc sau Lễ Mình Máu Chúa Năm A 22-6-2014
“Lướt
theo chiều gió,”
Một con thuyền, theo trăng trong
Trôi trên sông thương, nước chảy đôi giòng.”
(Đặng
Thế Phong – Con Thuyền Không Bến)
(Lc 6: 36)
Thuyền
trên sông thương hay sông “mến” có nước chảy đôi giòng, mà lại không bến bờ,
thì chỉ có nước cứ lênh đênh ba chìm bẩy nổi, rất long đong thôi. Thuyền/bè
Giáo hội nhà, lại cũng là bè/thuyền trên sông Yêu-thương xưa nay vẫn có bờ/có bến,
chẳng nghi ngờ một tình-huống long đong rất như thế.
Thuyền/bè
Hội-thánh hôm nay, chắc cũng không giống như câu rày hát tiếp:
“Ðêm nay thu sang
cùng heo may.
Ðêm nay sương lam mờ
chân mây.
Thuyền ai lờ lững
trôi xuôi dòng.
Như nhớ thương ai
chùng tơ lòng.
Trong cây hơi thu cùng heo may.
Vi vu qua muôn cành
mơ say.
Miền xa lời gió vang
thông ngàn.
Ai oán thương ai tàn
mơ màng.”
(Đặng
Thế Phong – bđd)
Vâng.
Thuyền không bến bờ, lại hát rất “ai oán
thương ai tàn mơ màng” như thế, chắc mãi mãi sẽ chẳng thấy bến thấy bờ thương
yêu, mỹ-miều ở đâu hết. Thuyền Hội thánh, tuy chẳng hát hò gì nhiều nhưng vẫn thấy
nhà Đạo khẳng định tình thân-thương/xót xa rất thánh-hội, như ý-kiến của Hồng Y
Kasper qua phỏng vấn báo/đài đặt ra như sau:
“Nhà báo: Thưa Hồng
Y, trong sách do ngài viết có tựa đề là “Mercy: The Essence of the Gospel
and the Key to Christian Life”, ngài có nói:
“Tình Thương Yêu Xót Xa, là bản-chất của Thiên-Chúa. Vậy, làm sao người đọc hiểu
thế nào là Lòng thương-xót của Chúa, chứ?
Hồng Y Kasper: Tín-lý Chúa gửi đến cho ta, là do ta hiểu/biết
về bản-thể Ngài là như thế. Thiên-Chúa, đương nhiên là thế rồi. Và, Ngài còn
hơn thế nữa. Điều này không có gì sai quấy hết. Nhưng, Kinh Sách nhà Đạo hiểu một
cách sâu-sắc và tư riêng hơn. Chẳng hạn: trong chuyện kể về Bụi Cây Bốc Cháy ở
Cựu Ước, thì quan-hệ giữa Giavê Thiên-Chúa và Môsê là ngang qua Lời Ngài
khẳng-định, không chỉ mỗi: “Ta có”, mà còn: “Ta có với ngươi. Ta có là cho
ngươi. Ta cùng đi với ngươi”. Trong bối cảnh như thế, lòng xót thương đã có
cơ-sở rắt triệt-để nơi Cựu-Ước. Thiên-Chúa ở Cựu-Ước, không là Đức Chúa rất
giận-dữ mà là Thiên-Chúa tỏ lòng xót thương, thôi. Và, Thánh vịnh còn cho thấy
rõ điều này nhiều hơn nữa.
Hiểu-biết thâm-sâu về Thiên-Chúa, khi xưa cũng mạnh-mẽ
đến độ Chúa được hiểu là Đấng Công-Chính, chứ không chỉ mỗi Đấng Đầy Lòng Xót
Thương, mà thôi đâu. Thánh Tôma Akinô cũng có nói: tình thương-yêu còn mang
ý-nghĩa căn-bản và triệt-để hơn, là bởi Thiên-Chúa không là lời đáp-trả cho đòi
hỏi từ qui-định do con người đề ra. Lòng Xót Thương, là tính-chất rất đáng tin của
Chúa với bản-thể đầy tính thương-yêu của Ngài. Bởi, Thiên-Chúa là Tình-yêu. Và,
lòng xót thương là Tình-yêu tỏ lộ cho ta qua hành-động và lời nói cụ-thể. Nên,
lòng xót thương trở thành không phải chỉ một “thuộc-tính” trọng-yếu của Chúa mà
thôi, nhưng còn là “chìa khoá” mở cửa lòng Đạo rất hiện-hành, nữa.
Thành thử, hãy tỏ lòng xót thương mọi người như
Thiên-Chúa đầy lòng thương-xót từng tỏ lộ. Và, ta vẫn phải học đòi bắt chước
Lòng Chúa xót-thương như thế mới được.
Nhà báo: Thưa Hồng Y, sao hôm nay, Giáo hội cần nói
cho mọi người hiểu điều đó?
ĐHY Kasper: Thế kỷ thứ 20 là thế-kỷ tăm-tối với 2 cuộc
chiến thế-giới, từng qui-tụ nhiều hệ-thống độc-tài toàn-trị, những là quần-đảo
ngục-tù kiểu “gulag”, những trại tập-trung, rồi đến nạn tiêu-diệt chủng-tộc
Do-thái, vv...
Thế-kỷ thứ 21 đã khởi-sự một cách không tốt đẹp gì mấy so
với thời trước. Chúng-dân cần được xót-thương, tha-thứ. Đó cũng là lý-do khiến
Đức Gioan 23 từng viết trong tiểu-sử linh-đạo trong đó ngài có nói: “lòng xót-thương
là “thuộc-tính” đẹp nhất của Đức Chúa”. Và, trong bài phát-biểu mở đầu Công
Đồng Vaticăng thứ 2, ngài lại nói: “Hội-thánh Chúa luôn chống lại sai-sót của
thời-đại, thường với tính nghiêm-túc cần có, nhưng ngày nay ta cứ phải dùng đến
thang thuốc của lòng xót thương, để làm thế. Đây là bước nhảy rất lớn. Thánh
Gioan Phaolô Đệ Nhị lại đã sống xuyên-suốt ngang qua đoạn cuối Thế Chiến thứ 2
và Ngài cũng đã trải-nghiệm sống với chế-độ Cộng-sản Ba Lan, nên ngài thấy rõ
nỗi oan-nghiệt con dân ngài chịu và đó cũng là nỗi khổ ngài gánh chịu, nhiều
năm trong đời. Đối với ngài, lòng xót-thương là yếu-tố quan trọng của đời
người. Đức Bênêđíchtô thứ 16 lại cũng ra tông-thư đầu tay, qua đó rõ ràng ngài
khẳng định: “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu!” Và nay, Đức Phanxicô, cũng từng
trải-nghiệm sống với chúng dân ở Nam Bán Cầu, nơi đó có đến 2/3 người Công Giáo
vẫn phải sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn. Nên, ngài cũng coi “lòng xót
thương” là trọng-điểm cho triều-đại giáo-hoàng của ngài. Theo tôi thì, đây là
câu trả lời cho các dấu chỉ thời đại ta đang sống...” (xem Matthew Boudway
và Grant Gallicho, Phỏng vấn Đức Hồng Y Walter Kasper, 7/5/14).
Có thể nói mà không sợ sai lầm,
rằng: Đức Hồng Y Kasper nhận-định về “lòng xót thương” mà dân con Đạo Chúatừng am-hiểu
qua năm tháng ngày giờ rất không sai. Nhưng hỏi rằng: nhà Đạo mình có sống theo
cung-cách “xót thương” như Chúa khuyên dạy không, đó lại là chuyện khác.
Và, trước khi tìm-hiểu những gì là “chuyện
khác” ấy, cũng nên về với thi ca mà hát rằng:
“Biết
đâu bờ bến,
Thuyền ơi! thuyền
trôi nơi đâu?
Trên con sông Thương,
nào ai biết nông sâu?
Nhớ khi chiều sương,
cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
Biết bao buồn thương,
thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng.
Bến mơ dù thiết tha,
thuyền ơi đừng chờ mong.
Ánh trăng mờ chiếu,
một con thuyền trong đêm thâu.
Trên sông bao la,
thuyền mơ bến nơi đâu?”
(Đặng
Thế Phong – bđd)
Nói
gì thì nói. Hát gì thì hát, cũng nên hát và nói lời vàng được thánh-sử Luca
từng ghi lại:
"Anh em
hãy có lòng nhân từ
thương xót,
như Cha anh em
là Đấng nhân từ xót
thương.”
(Lc
6: 36)
Nay
lại hỏi, “lòng nhân từ thương xót” được thánh Luca ghi ở trên có là khẳng-định
“ắt và đủ” cho dân con Đạo mình không? Và, trên thực-tế, nhà Đạo mình có
thực-thi điều đó không? Các nhà thần-học cùng các vị chú-giải Kinh thánh, nói
thế nào về điều này?
Và
dưới đây, là ý-kiến của đấng bậc nhà Đạo, từng giảng-giải về “lòng Chúa thương
xót và cho đi trọn hết thân mình Ngài, như sau:
“Chúa
cho đi, không phải chỉ sự sống của Ngài, cho bằng cả “tâm-thân” của Ngài, nữa.
Ngài tặng ban “tâm-thân”, hiểu theo nghĩa “Lytron” tiếng Hy-Lạp, là từ-vựng
chính-xác buộc ta phải so với tự-vựng bên tiếng Aram là ‘hoi polloi”,
tức khối lượng người không mang bất kỳ tên gọi của ai hết. Đây là “tình yêu
tha-nhân” hiểu theo cách không hạn-chế về sự chết của Ngài, nhưng lại bao gồm mọi
thứ nơi con người của Ngài và toàn-bộ tất cả những gì Ngài làm trong đời, kể cả
bản-thể cũng như những gì Ngài làm trong cuộc sống có trỗi dậy. Đây là sự “cho
đi” chính Bản-thể của Ngài, chứ không chỉ mỗi cuộc sống xác-phàm của Ngài mà
thôi. Đó là tính-cách rất “lytron” ban đầu sử-dụng để đưa ra ý-nghĩa về một
“thế-chấp bảo-kê” cho những ai được vào với tương-quan giao-ước rất mien-trường.
Họ là ai? Là chúng dân ở khắp nơi, bất cứ nơi nào cũng thấy họ có ở đó. Họ là
những người bị bỏ rơi, quên lãng, tức những kẻ bị hạ giá, xuống cấp ở bất cứ
xã-hội nào đặt mình dưới hệ-thống quyền-lực hoặc cơ-chế đế-quốc” (xem Lm Kevin O’Shea, CSsR Ơn Cứu Chuộc và nền thần-học lịch-sử từ
Thánh Kinh, www.giadinhanphong.blogspot.com 01-4-2014).
Và, một khi đã nói thì phải nói cho trọn,
cho xuyên suốt ý-nghĩa thần-học về “lòng xót thương” của Chúa, hầu chứng-minh là
Ngài chấp-nhận cái chết cho riêng Ngài, không để đền bù mọi lỗi tội của người
phàm, mà để xác-chứng lòng xót-thương vô bờ bến của Ngài. Về điểm này, linh mục
giảng-dạy được trích tên ở trên, lại viết như sau:
“Hỏi
rằng: Đức Giêsu chết đi có phải để minh chứng Chúa yêu thương loài người không?
Câu
trả lời, là: Đúng! Nhưng, không theo cách chung chung như ta nghĩ. Đức Giêsu
minh-chứng cho thấy tình thương không-thể-tưởng-tượng của Thiên-Chúa đối với loài
người, nhất thứ là với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình
thương-yêu thần-thánh của Ngài, Thiên-Chúa khước-từ mọi quyền-lực, dù để chống
lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, hay gì đi nữa cũng thế. Khi
nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình thương-yêu của Ngài với con người, như
thế không làm giảm-suy những gì Ngài thực-hiện. So sánh với ý-niệm về “tình
yêu” ở đời, thì Tình Thương-yêu của Ngài đây, cần được thăng-hoa trải rộng thật
lớn-lao”. (x. Lm
Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và cuối cùng
một giòng suy-tư, bđd 08/5/2014)
Lại có đấng bậc khác, cũng quan niệm “Lòng
Xót Thương của Chúa” được diễn-tả rất rõ nơi truyện kể về “Người Con Đi Hoang”,
từng nhấn mạnh thêm rằng:
“Điều dễ gây hiểu lầm, là nhiều người vẫn nghĩ
rằng: dù ta có phạm-tệ thế nào đi nữa, thì cuối cùng rồi ra Chúa cũng xót
thương, tha thứ cho ta. Vậy nên, cứ tha hồ làm điều xấu xa, tệ-lậu đi. Trong quan-hệ
với chúa, có hai việc cần minh định rõ; trước nhất là: Chúa yêu thương hết mọi
người. Tình Ngài thương-yêu không đòi điều kiện nào hết. Chẳng cần biết ta là
ai, có làm gì chống Chúa, chống anh em không, Ngài vẫn cứ yêu cứ thương. Tình
Ngài yêu-thương tuyệt nhiên vẫn không bao giờ suy xuyển, hết.
Hai
nữa, có điều chắc chắn là: không phải vì ta hiền lành và thánh-thiện nên Ngài mới
yêu-thương ta hơn; hoặc nếu ta có sơ-xuất lỗi-phạm điều gì đó, thì Ngài sẽ yêu
ít bớt đi. Thiên Chúa là Tình yêu.
Ngài yêu ta rất trọn vẹn, dù tình đó có được thể-hiện ra với các thánh cả như Mẹ
Têrêsa thành Calcutta; hoặc với kẻ độc tài, hình sự này khác đi nữa. Bởi nếu
không, thì Ngài cũng thiên vị, giống như ai đó ở thế-trần. Chính vì thế, Ngài mới
bảo: “Có là người bệnh mới cần đến thầy lang.”
Dầu
sao đi nữa, việc Chúa thứ tha mọi lỗi/tội, là hành xử vô điều kiện. Điều này thấy
rõ nơi dụ ngôn “Người Con Đi Hoang”, tức người con thứ đã có hành-xử dại-khờ “thích
lang thang, ngổ ngáo với đời” hoặc cứ “thích rong chơi phiêu bạt”, như nhiều nhà
thơ từng diễn tả. Dù có là người con khở dại đi nữa, bậc Cha Nhân-Hiền vẫn yêu-thương
đứa con “hoang tàng”, ngổ ngáo ấy. Cha không mang thành-kiến, hoặc kỳ-thị với các
con, nên: “mãi từ xa
trông thấy, Cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ người con, và hôn lấy hôn để…”
Tình yêu của Bậc Cha Nhân Hiền là như thế.
Nhưng tình thương-yêu/tha-thứ của Cha sẽ nên trọn vẹn, khi con biết tỉnh giấc,
quay về lại. Nói khác đi, chỉ mội thứ tha cách trọn vẹn khi có hoà giải, khi vết
thương chia-cách được lành lặn, thôi. Đây chính là ý nghĩa của bí-tích hoà-giải,
thứ tha của ta.
Trong
hòa-giải với Chúa, bước dấn-thân đầu-tiên như “người con đi hoang” những tưởng,
lại là bước quan trọng. Quan trọng, vì biết chắc Bậc Cha Nhân Hiền sẽ giang rộng
đôi tay già chào đón ta trở về. Sẽ chẳng còn chữ “nếu”, hoặc chữ “nhưng” nào hết.
Cũng chẳng điều-kiện này/khác, cũng không mảy may dè chừng, thủ thế gì hết. Và
chắc chắn, sẽ không có hình phạt, đền bù, cũng chẳng đòi bồi thường điều gì cả.
Điều này, thánh Phaolô từng mạnh dạn nói rõ: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi
người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu người tội lỗi, mà kẻ đầu
đàn là tôi”. (1Tm 1: 15)
Cũng
thế, đường lối Chúa đón nhận “người em đi hoang” trở về, phải được chứng xác bằng
tương quan ta có với người khác nữa. Trong lời cầu Chúa dạy, rõ ràng ta vẫn quyết:
“Xin tha cho con mọi lỗi lầm trót phạm, cũng một kiểu như con đã làm cho người
anh em.”
Cuối
cùng ra, khi đã được tha thứ, cũng nên nhớ thêm Lời Ngài đã phán: “Hãy trở nên
trọn lành, vì Cha của chúng ta trên trời là Đấng trọn lành”. Điều này mang ý
nghĩa rất sáng tỏ: hãy yêu thương hết mọi người, một cách vô điều kiện, như
Chúa hằng yêu ta. Và, hãy sẵn sàng tha thứ cũng như hòa giải với từng người như
Ngài đã từng làm như thế, với từng người một.
Việc
này không dễ. Nhưng không phải là chẳng thể làm được. Nhưng với sự trợ giúp của
Cha, ta luôn hy vọng. Vào tiệc lòng mến
hôm nay, ta cứ hân hoan và hy vọng. Hy vọng là Chúa vẫn thứ tha. Hy vọng
là ta cũng sẽ tha thứ hết mọi người. Từ “người em đi hoang” thích phiêu bạt
giang hồ, cho chí người anh “vẫn hầu hạ Cha, chẳng khi nào trái lệnh”, và tất cả
mọi người.” (xem Lm
Richard Leonard sj, Suy niệm Tin Mừng Chúa
Nhật 24 thường niên năm C, www.suyniemloingai.blogspot.com
15/9/2013)
Hiểu
theo ý-hướng thần-học thì như thế. Còn lại, là tâm-tưởng của dân thường ở huyện
thì nghĩ sao? Để trả lời, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên đi vào vùng trời
truyện kể để lắng nghe câu chuyện diễn tả ý-hướng và ý-nguyện của dân thường,
như bên dưới
“Có
người thợ mộc già nọ làm việc rất chuyên cần và hữu-hiệu lâu năm cho hãng thầu
xây cất nọ. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui
thú với gia-đình. Tuy không còn lãnh lương nữa, nhưng ông muốn nghỉ ngơi để
an-hưởng tuổi già. Hãng đề-nghị ông cố-gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà
chót trước khi thôi việc. Ông nhận lời. Nhưng, vì biết mình sẽ giải-nghệ lại bị
miễn-cưỡng làm việc, nên ông làm một cách tắc-trách qua quít, xây nhà bằng vật-liệu
tầm thường kém phẩm-chất, miễn có bề ngoài đẹp là được.
Mấy tháng sau, khi xây dựng xong căn-nhà cuối cùng ấy,
ông được chủ hãng mời tới, đưa cho ông chìa khoá nhà và nói: “Ông đã tận-tụy
phục-vụ hãng rất nhiều năm, để trả công cho những đóng góp của ông cho sự
thịnh-vượng của hãng, nay xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!” Thật bàng hoàng. Nếu người thợ xây như ông
biết là mình sẽ xây căn nhà cho chính mình, thì ông đã làm việc cẩn-thận và
chọn vật-liệu có phẩm-chất tốt hơn. Lối làm việc tắc trách cho căn nhà ấy chỉ
mình ông là biết tới, và nay thì ông đành phải sống trong căn nhà mà chỉ riêng
ông mới biết là nó kém phẩm-chất.” (trích truyện kể từ điện-thư vừa mới
nhận hôm rồi)
Truyện
kể vỏn vẹn chỉ mỗi thế. Không thêm hoa lá cành và cũng chẳng lý-luận, phân bua
gì. Nhưng, người kể hôm nay, lại muốn chia sẻ một bài học rút từ câu chuyện ở
đây: Chuyện kể đây, cũng giống chuyện đời người của mọi người. Mọi người đều
giống ông thợ già ở trên, tạo cuộc sống xa hoa/hào nhoáng, rất tạm bợ, lại đua
đòi nhiều thứ, chứ không chú tâm vào phẩm-chất của mọi sự.
Nhiều
lúc nghĩ về hành-xử của mình trong quá khứ, ta thấy mình cứ phải cam chịu hậu-quả
do việc mình làm. Đời người, là công-trình kiến-trúc do mình tạo. Đời hiện-tại,
là kết-quả mọi tạo-dựng ta làm nên trong quá-trình sống. Cuộc sống tương-lai,
lại là kết quả của những gì ta tạo ra từ hôm nay. Hãy xây dựng đời mình cho
đúng, để rồi không hối-hận gì, cho mai ngày.
Quyết
thế rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên-ngang, đứng thẳng người lên
mà tuyên-bố với mọi người, rằng: lòng Chúa xót thương là gương-lành để ta bắt
chước, chứ không để ta chiêm-ngưỡng theo cung-cách bái lạy, đưa lên bàn mà thờ
phượng, như thần tượng. Một thứ tượng-thần mới, khi xưa ít thấy, nhưng nay lại
thấy ở khắp mọi khung trời mở ngỏ của nhà Đạo.
Chuyện
còn lại, là chọn lựa của tôi, của bạn và của mọi người trong sống đời thương
yêu, thương xót hết mọi người như Lời Chúa từng căn dặn ở nhiều nơi.
Nhận
định thế rồi, sá gì một vài phút giây để tôi cùng bạn, ta lại hát lên câu ca ở
trên làm đoạn kết một cuộc tình, rất xót thương và thương xót, như sau:
“Nhớ khi chiều sương,
cùng ai trắc ẩn tấm lòng
Biết bao buồn thương,
thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng
Bến mơ dù thiết tha,
thuyền ơi đừng chờ mong
Ánh trăng mờ chiếu,
một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la,
thuyền mơ bến nơi đâu?”
(Đặng
Thế Phong – bđd)
Vâng.
Sự thật là thế. Như thế, như thể cuộc đời người cứ như con thuyền không bến
không bờ, nếu thiếu đi tình xót thương vô bến bờ, thiếu đợi chờ và vấn vương.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ nhủ người
Và tự nhủ
Đừng quên sót
Lòng xót thương vô
bến bờ
Với mọi người.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment