Friday, 15 February 2019
“Em ơi! Phương xa nào em có biết”
Chuyện
phiếm đọc trong tuần thứ 6 thường niên năm C 17/02/2019
“Em ơi! Phương xa nào em có biết”
Có hay tình ta nhớ
thương vơi đầy.
Em ơi! Em ơi! Ở nơi
xa đó
Có khi nào em tiếc
thương ngày cũ.
Đắm đuối xa xưa khi
sống gần nhau hay em quên mau.
Như cơn mơ trở về
bến cũ khiến ai chờ mong héo hon đêm ngày…”
(Nhạc ngoại: Christophe
“Oh Mon Amour”
Lời Việt Phạm Duy:
Tình Yêu! Ôi Tình Yêu!)
(2Côrintô 1: 3)
Hôm nay, trong giây phút im-ắng của những ngày đầu niên-lịch 2019, bần
đạo lẳng-lặng xục-sạo, lục tìm trong đống hồ-sơ khá cũ ghi vội ít câu truyện kể
để mào đầu bài phiếm mà viết lách, bỗng bắt gặp một loại-hình “kể lể” ở mục “phiếm
đạo” cho đỡ bận.
Trong một thoát chốc rất ngắn, bần đạo thấy xuất-hiện một câu truyện
từng hơn một lần được kể, nhưng không buồn. Buồn sao được, khi trong đầu bần
đạo không có ý tưởng nào vụt sáng để kể thêm. Và thế là, bần đạo bèn chép lại
câu truyện nên nghe thêm một lần nữa, ở bên dưới:
“Roddick
là một tù nhân chiến tranh người Anh. Anh bị bắt trong một lần kém may mắn và
giống như nhiều tù nhân khác, Roddick bị áp giải đến một trại tập trung ở Đức.
Trong trại tập trung có gần 1000 tù binh, toàn bộ đều là người Anh. Họ
bị đối đãi thậm tệ đến mức khó có gì lột tả hết, không khác gì loài vật và phải
làm những công việc vô cùng nặng nhọc..
May mắn là, Roddick là một binh sĩ huấn luyện kỹ năng lái xe tải trong
quân đội Anh. Trong trại tập trung của Đức, vị trí này lại thiếu rất nhiều nên
tại đây, anh được chiêu mộ làm lái xe.
Tất nhiên, trong số những tù binh Anh ở trại tập trung đó, không ít
người có kỹ năng lái xe nhưng chẳng ai tình nguyện làm công việc đó, bởi nhiệm
vụ của việc lái xe là chuyên vận chuyển những chiến hữu chết đói và bị sát hại
mỗi ngày đến nơi chôn cất.
Tuy nhiên, Roddick lại tỏ ra rất nhiệt tình với công việc này. Anh nói
mình sẽ vui vẻ làm tốt công việc được giao. Và như vậy, Roddick cuối cùng đã là
một lái xe của Đức quốc xã và cũng kể từ đó, anh trở nên thô bạo và tàn nhẫn
với chính đồng bào mình. Không chỉ quát tháo, lớn tiếng với các tù nhân, anh còn
dùng bạo lực, nắm đấm hướng về phía họ. Thậm chí, có tù nhân rõ ràng chưa chết,
anh vẫn cố tình vứt lên xe.
Lẽ dĩ nhiên, tất cả những tù binh đều tỏ ra căm hận con người này, đồng
thời dùng nhiều cách khác nhau để cảnh cáo Roddick. Nghe xong, anh vẫn bỏ ngoài
tai, việc mình mình làm. Các tù binh không tiếc lời mắng nhiếc Roddick là tên
cẩu tặc, kẻ bán nước, loài chó săn…
Nhưng cũng chính nhờ đó, quân Đức quốc xã càng lúc càng thích thú và tín
nhiệm Roddick. Ban đầu, khi anh lái xe ra khỏi trại tập trung, binh sĩ Đức quốc
xã đều chặn xe lại kiểm tra, giám sát từng cử động nhưng về sau, anh có thể ra
vào thoải mái mà không hề bị kiểm soát.
Chiến hữu của Roddick cũng ngầm công kích anh, không ít lần thiếu chút
nữa thì bị họ đánh cho mất mạng. Sau một lần bị đánh thừa chết thiếu sống,
Roddick vĩnh viễn mất đi một cánh tay, đồng thời, anh cũng mất đi giá trị lợi
dụng. Không còn có thể tiếp tục lái xe, Roddick như chiếc bị rách bị quân Đức
quốc xã vứt ra bãi rác.
Không còn được quân Đức bảo hộ, Roddick nhanh chóng rơi vào trận địa báo
thù vô tình của các tù nhân chiến tranh Anh. Một ngày mưa, trong một hoàn cảnh
cô độc đến thê lương, anh chết cạnh một góc tường ẩm ướt trong trại tập trung
của người Đức.
60 năm đã trôi qua, người dân ở quê hương Roddick dường như sớm đã quên
mất anh còn những người trong gia tộc cũng cố tình né tránh tất cả những việc
làm liên quan đến con em mình.
Cứ như thế, Roddick bị chôn vùi trong cát bụi của thời gian.
Thế nhưng bỗng nhiên có một ngày, một tờ báo có lượng phát hành không
nhỏ của nước Anh đã đăng tải một bài viết có tựa đề "Người cứu tôi, là
người tôi hận nhất" ở ngay vị trí bắt mắt nhất trang nhất.
Nội dung bài báo viết như sau:
“Trong tại tập trung của Đức quốc xã có
một tên phản đồ tên Roddick, cam tâm bán mạng cho tụi Nazi (ám chỉ Đức quốc
xã). Ngày hôm đó, tôi ốm nhưng chưa chết, thế nhưng anh ta vẫn vất tôi lên xe
tải và nói với bọn Đức là đem tôi đi chôn.
Tuy nhiên, điều khiến tôi không thể ngờ
đến, là: khi xe chạy được nửa đường, Roddick dừng xe, nhấc tôi đang thoi thóp
ra khỏi xe và đặt tôi xuống dưới gốc một cây cổ thụ, để lại vài mẩu bánh mì đen
và một bình nước, vội vã nói với tôi: Nếu như anh có thể sống, hãy đến
thăm cái cây này rồi cấp tốc lái xe đi mất.
Sau khi câu chuyện ngắn ngủi này được đăng không lâu, tòa soạn báo liên
tục nhận được điện thoại gọi đến và không một ai ngoại lệ, tất cả đều là cựu
binh chiến tranh Thế giới thứ hai và đều là những chiến binh già không may từng
bị bắt làm tù binh.
Một điều nữa càng khiến người ta không tưởng tượng được, là không một ai
ngoại lệ, 12 cựu chiến binh gọi điện đến đều từng ở cùng nhau trong một trại
tập trung của Đức – đó là trại tập trung mà Roddick đã ở.
Những câu chuyện do chính 12 cựu quân nhân kể ra, dường như đều là bản
sao của câu chuyện đã được đăng tải trên mặt báo: Họ đều được Roddick đặt xuống
dưới gốc cây và nhờ đó mà thoát chết.
Điều khiến người ta chú ý hơn là, mỗi lần Roddick lái xe ra khỏi trại
tập trung, anh đều nói với các chiến hữu rằng: Nếu anh
có thể sống, hãy quay lại thăm cái cây này.
Người biên tập và giới thiệu bản thảo của bài viết là một cựu biên tập
từng tham gia chiến tranh. Dựa vào trực giác nghề nghiệp, ông phán đoán một
cách nhạy cảm, rằng cái cây mà Roddick nhiều lần nhắc đến, nhất định phải chứa
đựng nội dung gì đó.
Và ông lập tức tổ chức các cựu binh, hợp thành nhóm 13 người, men theo
con đường năm xưa họ trốn chạy để tìm cái cây vốn không thể phán đoán liệu nó
tồn tại hay không.
Khi đoàn người đến được điểm đến, rừng núi vẫn như xưa, cái cây cổ thụ
vẫn ở đó.. Một cựu binh không kiềm chế được cảm xúc, chạy về phía trước ôm thân
cây, khóc lớn. Trong một cái hộc ở gốc cây, người này phát hiện một cái hộp sắt
đã hoen rỉ từ bao giờ.
Khi mọi người xúm lại lấy và mở chiếc hộp ra, họ phát hiện một cuốn nhật
ký nhiều trang đã loang lổ và trong đó là một tấm ảnh đã mốc theo thời
gian. Nhẹ nhàng lật giở cuốn nhật ký, cựu biên tập viên bắt đầu đọc:
Hôm nay mình lại cứu được một chiến
hữu, đây đã là người thứ 28 rồi… cầu mong anh ta có thể sống được…
Hôm nay, 20 chiến hữu của mình đã chết…
Đêm qua, các chiến hữu lại một lần nữa
mạnh tay với mình… Nhưng mình phải kiên quyết đến cùng, cho dù thế nào đi nữa
mình cũng không được nói ra sự thật, như thế, mình mới có thể cứu được thêm
nhiều người khác…
Các chiến hữu thân yêu, tôi chỉ có một
hy vọng, nếu các bạn còn sống, xin hãy quay lại thăm cái cây này.
Giọng của vị cựu biên tập ứ nghẹn lại, những cựu binh khác đã rơi nước
mắt tự khi nào không hay. Những mái đầu hoa râm đứng dưới tán cây cổ thụ, cho
đến lúc đó mới hoàn toàn nhận thức thật rõ ràng, rằng Roddick đã cứu tất cả 36
tù binh của Anh Quốc.
Hôm nay, những người còn sống trên đời, có lẽ không chỉ có 13 người đi
tìm lại gốc cây năm xưa. Cuốn nhật ký và tấm ảnh liên quan đến trại tập trung
được lưu lại ở hộc cây, đó là bằng chứng thép vạch trần tội ác của Đức quốc xã
với thế giới, nó cũng là bằng chứng thép cho thấy Roddick không tồi tệ như các
chiến hữu năm xưa đã đánh giá về anh.
Roddick đã chấp nhận mọi đau khổ, thậm chí là chấp nhận cả cái chết dù
anh biết mình đã bị hiểu lầm. Chia tay với các cựu binh, vị cựu biên tập nhanh
chóng cho đăng tất cả những câu chuyện đủ hay, đủ sức lay động hàng triệu triệu
trái tim trên khắp thế giới trên trang bìa của tờ báo mình đang cộng tác.
Vì được báo chí đưa tin mà khung rừng già cùng gốc cây lưu lại dấu tích
của Roddick kia bỗng trở nên náo nhiệt. Không ít người đã tự tìm đến đây, cúi
đầu trước người chiến binh thực sự vĩ đại, thể hiện sự tôn kính của họ dành cho
anh.
Lẽ đương nhiên, Roddick trở thành anh hùng của nước Anh. Một tác giả đến
thăm khu rừng này, bó một bó họa rừng không rõ tên đặt trước bia kỷ niệm mộc
mạc và ngồi lại dưới gốc cây thật lâu. Về sau, ông ta lấy bút ra viết một đoạn
cảm xúc ra cuốn sổ của mình. Ông cảm giác, mình có trách nhiệm phải nói với mọi
người:
Sự hoàn mỹ luôn cần có cái giá để đánh đổi, không có tinh thần trách
nhiệm lớn lao, không có sự hy sinh bất khuất, không có một tinh thần thép,
tuyệt đối không thể làm được! Khát vọng hoàn mỹ là quyền của mỗi con người. Có
những lúc, sự hoàn mỹ đó vì bị môi trường thúc ép mà hình thức biểu hiện của nó
trở nên khác với nguyện vọng ban đầu, vì thế mà tạo nên sự hiểu lầm, dẫn đến
những ánh mắt thù địch.
Điều này nhất định sẽ hình thành nên một loại áp lực xã hội vô cùng lớn.
Thế nhưng người có thể vì sứ mệnh cao cả của sự hoàn mỹ, từ đầu đến cuối chấp
nhận mọi oan ức, đau đớn, hiểu lầm… tên tuổi của anh ta sẽ trở thành một lá cờ
luôn đương giương cao, cao mãi.
Roddick là một người như thế.
Và trên thế giới này, tôi kính phục nhất một kiểu người mà trong hoàn cảnh ác liệt và tồi tệ, họ thà chấp nhận gánh nặng trên
vai và bước tiếp thay vì sống vô trách nhiệm, để mặc đời muốn trôi đến đâu thì
đến!” (Truyện
do bạn bè gửi qua điện thư trên mạng)
Với
tôi, và có lẽ với cả bạn bè của tôi nữa, câu truyện về anh Roddick chỉ là câu truyện để kể, thế thôi. Chứ thời buổi này làm gì
có những người như thế. Có như thế đi nữa, cũng chẳng có ma nào chịu để ý rồi
suy nghĩ viển vông cho nó vận vào người.
Hôm
nay nữa, nhà đạo mình cũng có đôi ba chuyện lỉnh kỉnh khiến bạn và tôi ta cứ
suy và nghĩ lỉnh kỉnh cho dài thêm những tháng ngày cuộc đời, rồi thôi.
Nghĩ
thế rồi, bầy tôi đây bèn đi vào vười hoa truyện kể ‘xuc sạo’ đôi ba chi-tiết khá
lỉnh-kỉnh mà suy thêm về những điều mà bọn trẻ thời nay ít chịu nghĩ. Chuyện cần
suy và nghĩ mà người thời nay nên để tâm thực hiện trước tiên, đó là: NGHE. Về
chuyện này, một đấng bậc vị vọng ở Úc từng khuyên đám học trò linh-mục Dòng
mình như sau:
“Sách luật Torah ghi lại tất cả gồm 613
điều luật. Thời tác-giả Tin Mừng Mátthêu, và kể từ ngày đền thờ Giêrusalem bị
tàn phá, người Sađuxê và Kinh-sư cuồng-tín không còn tạo ảnh-hưởng gì trên bất
cứ ai, duy chỉ mỗi nhóm Pharisêu là không còn cảm-tình gì với tín-hữu thời
tiên-khởi và nhóm này đà khơi dậy phong-trào chống tín-hữu.
Một trong số những người này, có lẽ là
bậc thày chuyên về luật Torah đã đưa ra câu hỏi bảo rằng: “Trong sách Torah, giới-lệnh
nào lớn hơn cả?”
Cho đến nay, ta không có đủ bằng chứng
để quyết xem có phải chính tác-giả Hillel, một trong các học-giả Do-thái-giáo
tài ba lỗi lạc đã trả lời câu hỏi này theo cùng một kiểu như Đức Giêsu từng nói
ở Tin Mừng hay không?
Cũng có thể, đây là câu nói do tác giả
Tin Mừng Mátthêu đặt nơi miệng Đức Giêsu để trả lời câu hỏi xuất từ nhóm
Pharisêu theo ngôn-từ do nhóm này sử-dụng.
Nhưng điều quan-trọng hơn cả, là: ta
cũng nên suy về câu trả lời của Đức Giêsu khi Ngài bảo: Nghe đây, Israel! Đức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là một. Ngươi hãy kính mến Đức Chúa, Thiên- Chúa
của các ngươi trọn tâm can, linh-hồn và đầu óc. Đó là giới lệnh cao cả nhất
trong các giới-lệnh. Còn, giới-lệnh thứ hai là: “Ngươi phải thương yêu người
lân cận như chính mình vậy!”
Giới-lệnh tiên-quyết ở đây là: “Nghe
đây! (tiếng Do-thái là: “Shema”).
Đây là lời đầu tiên hiện trong câu kinh
căn-bản của dân-tộc Israel được người theo Do-thái-giáo lặp đi lặp nhiều lần
trong ngày.
“Nghe đây!”, tức: Hãy nghe và chú ý, cố
gắng vươn về phía trước và tin-tưởng vào đôi điều mà ngươi không đạt đến mà
không chịu để tâm. Hay còn nói: “Cả đến việc đừng suy nghĩ gì về lề luật trừ
phi các người thực-hiện luật ấy trước nhất…
Thoạt vào lúc Đức Giáo Hoàng
Bênêđíchtô 16 viếng thăm New York vào độ tháng Tư năm 2016, ngài vào một hội đường
và được người Do-thái-giáo ở đó hát lên câu kinh Shema. Israel từng nói (đúng
hơn là hát) cho Đức Giáo Hoàng của Công Giáo mà bảo rằng: “Hãy lắng nghe!”
Vậy, hỏi rằng bạn nghe được gì khi lắng
tai nghe? Đó là khẳng định: Đức Chúa, Thiên-Chúa của ngươi là Một. Ta đang nói
về Đức Giavê, Thiên Chúa của Israel. Chính dân-tộc Israel không được phép xướng
lên danh-tánh của Thiên-Chúa. Họ phải dùng lối nói dài dòng mà diễn-tả ‘Đức Chúa’ (Adonai).
Khi các ngươi lắng nghe, các ngươi
khám phá ra Đấng nên Một là Đấng khó mà xướng tên ở đây. Và điều căn-bản mà các
ngươi phát-giác ra được -đó là Đức Chúa
Đấng không thể xướng Tên lên được chính là Đấng NÊN MỘT. Đó không chỉ có nghĩa
“Duy nhất chỉ có một Thiên Chúa”.
Đúng hơn, Thiên Chúa Duy Nhất có sự
Nên Một ngay trong chính tâm thân của Ngài là Đấng Duy nhất, và đó là bí mật của
mọi thực-tại. Hãy Nghe Đây, các ngươi có thể nghe được điều ấy. Hãy Nghe đây,
và các ngươi sẽ làm được điều ấy như trọng tâm cuộc đời mình…” (X. Lm Kevin O’Shea, CSsR “Where to from here”, The Catholic
University in Strathfield Sydney 27/8/2016
tr. 4)
Đọc chuyện
chia sẻ ở trên, chắc hẳn bạn đọc cũng như bầy tôi đây, ta lại sẽ liên-tưởng đến
lời vàng trong Kinh Sách, có những giòng chảy na ná, hệt như sau:
“Chúc tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta.
Ngài là Cha giàu lòng từ-bi lân-ái,
và là Thiên-Chúa hằng sẵn-sàng nâng-đỡ
ủi-an.
Ngài luôn nâng đỡ ủi an chúng ta
trong mọi cơn gian nan thử-thách,
để sau khi đã được Thiên Chúa nâng-đỡ,
chính chúng ta cũng biết an ủi
những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.
Vì cũng như chúng ta
chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức
Kitô,
thì nhờ Ngài,
chúng ta cũng được chứa-chan niềm an-ủi.”
(2Corinthô
1: 3)
Nói
cho cùng, tất cả chỉ là những tư-tưởng nền-tảng giúp ta có thêm đôi ba phút
thư-giãn nhập thiền hầu thoái sống nốt cuối đời còn lại, mỗi thế thôi. Nghĩ thế
rồi, bần đạo lại cứ hiên ngang ngẩng đầu về phía trước mà cất lên lời ca tiếng
hát được trích-dẫn, để rồi dùng đó làm kết-luận cho bài phiếm không dài, hôm
nay. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta cứ hát:
“Em ơi! Phương xa nào em có biết,
Có hay tình ta nhớ thương vơi đầy.
Em ơi! Em ơi! Ở nơi xa đó
Có khi nào em tiếc thương ngày cũ.
Đắm đuối xa xưa khi sống gần nhau
hay em quên mau.
Như cơn mơ trở về bến cũ
khiến ai chờ mong héo hon đêm ngày…”
(Nhạc ngoại quốc Lời Việt - bđd)
Hát thế rồi, ta lại hiên ngang tiến về phía trước mà thực hiện những gì
cần hiện-thực, trong đời mình.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những điều cần hiện-thực
cứ lởn vởn mãi
trong đầu.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment