Chuyện Phiếm đọc
trong tuần thứ 3 Phục Sinh năm B 15-4-2018
“Hầy
Hô Hây Hồ Hây Hô
Nhịp nhàng khoan thai bước khẽ”
Đi trong mưa nhè nhẹ
Gà chuồng le le gáy rõ
Ta nghe ta đợi chờ
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Ngoảnh nhìn bên ta vẫn nhớ
Ôi êm ru ngày mùa.”
(Phạm
Duy – Dã Ca Ngày Mùa)
(Mát-thêu
20:18-19)
Ngày
mùa có “Dã Ca Hây Hồ” hoặc “hầy hô/hây hồ” thế nào đi nữa, cũng đâu
êm ả một ngày mưa hay ngày mùa nào đâu chứ? Ngày mùa hay ngày mưa, đâu có là
ngày dân ta hát những là: “hây hồ/hầy hô”
mà thôi đâu. Nghe qua
câu này, người người có lẽ sẽ
tưởng tượng như 7 chú lùn hát vang rền câu ca nào đó ở trong rừng rất
yêu đời, đầy sức sống.
Thôi
thì, có là ngày gì cũng được, bạn và tôi, ta cứ nghe thêm âm-điệu reo vui ở câu
tiếp:
“Hây
Hố Hây Hô Hây Hô Ngày mùa
Hây Hố Hây Hô Hây Hô Êm ru...
Hây Hồ Hây Hô Hấy Hố
Ta đi qua cầu này
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Nhịp cầu tre soi nước soáy
Ta nghe ta lạnh đầy
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Và dòng sông con nhấp nháy
Đi
quanh quanh hoài hoài
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Ngoảnh nhìn bên ta vẫn thấy
Ôi êm ru ngày dài.
(Phạm Duy – bđd)
Quả
thật, đời người lúc nào cũng nghe và thấy những “hây hồ/hầy hô” toàn những lời như
sau:
“Hây
Hồ Hây Hô Hấy Hố
Ta đi qua vườn ngoài
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Dạt dào dăm ba gốc chuối
Cây không cao buồng dài
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Ôm ộp oang oang ếch nói
Ta nghe ta nguôi ngoai
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Ngoảnh nhìn bên ta vẫn đấy
Ôi êm ru ngày dài
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Hầy hồ Hây hô Hấy Hố
Ta đi trong vườn đời
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Lòng mình ươm cây kết trái
Ươm hoa ươm cỏ dại
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
Ngọt nhạt hay chua cũng khoái
Ta yêu khu vườn này
Hây Hô Hây Hô Hây Hô
(Phạm
Duy – bđd)
Vâng.
Phải công nhận tài nghệ của “nhạc sĩ già” họ Phạm thật đa dạng. Đa dạng, cả về
âm nhạc lẫn ý-tứ và ý-từ nhiều thể-loại tuyệt vời, rất con người.
Và
cũng công-nhận, rằng: đời người thật lắm nhiêu khê, ê chề nhiều nhận-định tuyệt
vời. Có đặt vấn đề gì ở đây nữa cũng chỉ để giới thiệu với bạn và tôi, những
chuyện xảy ra ở đời người. Một đời, có nhiều truyện kể rất đáng nể như truyện
“Cậu Bé và người nhặt rác” của tác giả Lê Quang Sinh ở Garland, Hoa Kỳ như
sau:
“Ngày 13
tháng 3 năm 1991, gia đình chúng tôi qua định cư tại Sacramento, thủ phủ Cali,
Hoa Kỳ dưới diện “Hát Ô” (H.O.) sau 8 năm tù gọi là cải tạo dưới chế độ CS.
Năm 1994,
chúng tôi cùng Nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, bút hiệu Thái Luân, và Nhà thơ
Nguyễn Lý Tưởng thành lập Hội Thơ Tài Tử VNHN, và tôi được đề nghị làm Trưởng
Ban Điều Hành cho đến nay đã được 24 năm.
Sau khi thành lập hội thơ, chúng tôi nghĩ đến sự phát triển hội bằng
cách in một tập thơ mang tên CỤM HOA TÌNH YÊU để giới thiệu cùng độc giả và tổ
chức các buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới. Dù sao vấn
đề tài chánh vẫn là một yếu tố quan trọng đã thúc đẩy tôi phải tìm cách làm sao
có ngân quỹ để trang trải cho các chuyến đi xa.
Thế là trong một buổi "trà dư tửu hậu", có người bạn vui góp ý
là tôi muốn đi làm nghề nhặt rác trong khu cư xá không, lương mỗi tháng 700 đô
tiền mặt. Cơ hội đến là tôi đồng ý ngay. Thế là từ một sĩ quan cấp tá tôi trở
thành một người lao công giống như anh chàng trong bản nhạc "Người Phu
Quét Đường". Và rồi người nhặt rác Việt Nam đã gặp cậu bé Mỹ trong bài thơ
"Cậu Bé và Người Nhặt Rác" mà tôi hân hạnh được giới thiệu cùng quý
độc giả hôm nay.
Sau khi lập
hồ sơ nhận việc, tôi bắt đầu hành nghề. Sáng sớm tinh sương lúc 6 giờ tôi đã
phải bắt đầu công việc. Một tay xách cái
thùng đựng rác, một tay cầm cái kẹp nhặt rác. Khu vực đầu tiên phải dọn dẹp là
vườn trẻ với bãi cỏ xanh và các phương tiện vui chơi cho trẻ em như xích đu,
trèo cao tuột dốc v.v... Sau đó phải đi
loanh quanh trên các con đường trong khu cư xá, sân trước nhà, bải cỏ để nhặt
rác rưới bỏ vào xô rồi đem đổ vào các thùng Connex đặt gần đó.
Khu cư xá khá
rộng phải mất nhiều giờ mới làm xong công việc. Nhất là về mùa
Đông lá vàng rơi từ các cây cao tỏa bóng mát, nên cần thời gian cào lại từng đống rồi bỏ vào bao
nylon lớn. Về mùa Hè nóng bức, lao động một hồi là mồ hôi nhễ nhại, tôi ngồi
dưới bóng mát để nghỉ xã hơi.
Công việc
nhặt rác này không có gì vất vả nặng nhọc, nhưng so sánh với các nghề khác như
chạy bàn, bán báo, hoặc dọn dẹp làm sạch sẽ văn phòng, nhà vệ sinh trong bệnh
viện hay các trường đại học, hoặc thợ điện, thợ hàn, thợ tiện, thì nó là cái
nghề thấp nhất trong xã hội mà đồng lương chỉ có 700 đô một tháng.
Hoa Kỳ là một
đất nước tự do, không phân biệt màu da, giàu nghèo, không phân biệt lao động
trí óc và lao động chân tay, nghề nào cũng cao quý. Sĩ quan QLVNCH từ cấp úy
đến cấp tá, cấp tướng khi di tản đến Hoa Kỳ đều có thể làm bất cứ nghề gì trong
giai đoạn đầu mới đặt chân trên xứ lạ quê người để kiếm sống. Dần dà họ đã trở
thành những thương gia giàu có, những triệu phú, tỷ phú, khoa học gia, bác sĩ,
kỷ sư, tiến sĩ...
Cái nghề nhặt
rác không mang lại chức tước, danh vọng hay tiền tài, nhưng nó đã đem lại cho
chúng tôi một kỷ niệm đẹp nhất trong đời, đó là câu chuyện mà tôi xin kể hầu
quí vị sau đây.
Một buổi trưa
mùa Hè, trời nóng như thiêu đốt, tôi dừng chân nghĩ mát dưới bóng cây trước sân
nhà của một căn chung cư. Bất ngờ một em bé khoảng 4 tuổi, tên Mc Kee từ hiên nhà chạy ra, ôm lấy chân tôi và nói:
"I love you". Rồi nhanh nhẹn bé lấy cái xô và cây gắp đi loanh quanh
khu nhà gần đó nhặt rác bỏ vào xô. Cảm giác của tôi lúc đó thật bàng hoàng xúc
động. Cậu bé mới tí tuổi mà đã biểu lộ được một cử chỉ đẹp, một tấm lòng yêu
tha nhân quá tuyệt vời, như một thiên thần nhỏ bé mang lại tình yêu cho người
trần thế.
Cảm kích
trước hành động dễ thương của bé Mc Kee, tôi đã viết nên bài thơ "Cậu Bé
và Người Nhặt Rác", và dịch ra tiếng Anh "The Little Boy and The
Groundsman" đề tặng cháu bé và ba me của cháu. Tôi cũng đã tặng bài thơ
này cho bà quản lý khu chung cư tôi làm việc. Bài thơ như sau.
Cậu Bé và
Người Nhặt Rác
Thương về bé
Mc Kee
Cơn nắng hạ
chói chang/ Như thiêu như đốt/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng bước từng bước một/
Kéo lê đôi giày mòn mỏi/ Như quá khứ gặm nhấm đời anh/ Trong chiến tranh, lao
tù, bất hạnh.
Cơn giá buốt
mùa Đông/ Cắt da xé thịt/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng cử động chắc nịch/ Vung
đôi bàn tay chai cứng/ Anh nhặt không ngừng.
Từ sáng sớm
tinh sương/ Thiên hạ đang yên giấc/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng bước từng bước
một/ Lướt nhẹ qua những con đường/ Đầy xác lá vàng rơi rụng/ Cùng mãnh hồn anh
vỡ vụn tan thương.
Rồi một ngày
như mọi ngày/ Dưới nắng trưa hè gay gắt/ Người nhặt rác lau mồ hôi trán/ Đứng
lặng nhìn trời suy tư miên man/ Bất ngờ một cậu bé/ Từ hiên nhà chạy ra/ Ôm lấy
chân người nhặt rác/ Ngước nhìn lên đôi mắt sáng trong/ Hồn nhiên em nói: Cháu
yêu ông – I love you/ Rồi đôi chân nhỏ bé/ Thoăn thoắt trên thảm cỏ/ Bé nhặt rác bỏ vào xô/
Người nhặt rác bàng hoàng xúc động/ Nghe như từ trời tiếng hát yêu thương/ Xóa
tan bao mệt mỏi chán chường.
Cao đẹp thay
tình yêu của bé/ Tình yêu không đổi trao/ Tình yêu không vụ lợi/ Tình yêu không
lý luận/ Tình yêu bình an cho người/ Ôi! Tình yêu tuyệt vời!
Viết đến đây
tôi nhớ lại một bài báo mà tôi đã cất giữ từ mười mấy năm nay trong tủ sách
dưới nhan đề "Đời Nhặt Rác" trong mục Thư Sàigòn, xin ghi lại như
sau.
Bạn,
Chuyện kể với
bạn trong lá thư này là chuyện về những người nhặt rác ở thành phố Huế. Theo
báo Giáo Dục Thời Đại, hễ đi đến bất kỳ bãi rác nào lúc chập choạng tối trong
thành phố, phóng viên báo này đều nhận thấy có rất nhiều người đang dùng que
đào bới rồi nhặt rác. Những người nhặt rác là những người nghèo khổ. Báo Giáo
Dục Thời Đại viết về tình cảnh của những người kiếm sống bằng công việc nhặt
rác ở Huế qua đoạn ký sự sau đây.
Bãi rác nằm ở
đường Tùng Thiên Vương, thành phố Huế, chỉ là một bãi nhỏ nhưng cũng có từ bốn
đến năm người tham gia nhặt rác ở đây mỗi tối. Dưới ánh đèn vàng hiu hắt và
những hạt mưa bụi bay bay, những người này cần mẫn dùng que gạt đi gạt lại đống
rác rưởi hôi thối mong tìm được cho mình một thứ rác có thể sữ dụng được để đem
bán lại.
Dụng cụ lao
động của họ khá đơn sơ và không an toàn chút nào. Mỗi người có một chiếc đèn
pha trên đầu, một bao tải móc sau lưng cùng với một cái que dùng bới rác...
Chẳng có một phương tiện nào bảo hiểm trên con người họ, dù chỉ là chiếc bao
tay hay đôi ủng cao. "Kiếm cả buổi tối chưa chắc đủ ăn thì làm sao tụi tôi
có tiền mua đồ bảo hiểm hở anh?" Câu trả lời của người có vẻ lớn tuổi nhất
trong số những người ở đó khiến phóng viên lúng túng trong chốc lát. Rồi như
không chú ý đến sự có mặt của tôi, họ vẫn tiếp tục làm việc.
"Nghề nhặt rác này vất vả và tủi hổ lắm anh ạ. Cứ nghĩ đến việc gặp
người quen là mình đã lo ngại rồi, còn nếu lỡ gặp thì chỉ có việc độn thổ đi
cho khuất mắt". Anh lớn tuổi nhất trong đám tâm sự nhưng vẫn không chịu
cho tôi biết tên. Khi anh quay đi, Tèo – cậu bé nhỏ nhất trong số người nhặt
rác thì thầm vào tai phóng viên: "Chú ấy có vợ con rồi nên không chịu nói
thật tên và địa chỉ mô mà anh hỏi".
Tại một bải
rác khác ở cuối đường Chế Lan Viên, trong khi các công nhân của Công ty Vệ sinh
Môi trường đang tiến hành công việc của mình thì vẫn có mặt ba người nhặt rác.
"Trung bình một đêm nhặt rác cũng kiếm được từ bảy đến mười ngàn đồng. Nếu gặp đêm vớ bở thì
cao hơn. Nhưng cũng có nhiều đêm cúi đến cong lưng cũng chỉ kiếm được một đĩa
cơm bụi". Hoàng, một cậu bé thường xuyên nhặt rác ở bãi rác Phú Thượng
(Phú Vang) cho phóng viên biết. Hai nỗi lo lớn nhất của người nhặt rác là tai
nạn và không nhặt được rác. Tai nạn là chuyện thường xuyên xảy ra. Trong bất cứ
bãi rác nào cũng ẩn chứa vô vàn nguy hiểm.
Phóng viên
báo Giáo Dục Thời Đại viết tiếp: "Hình ảnh mà phóng viên nhìn thấy được
vào buổi sáng ở đường Nguyễn Tri Phương làm tôi nhớ mãi. Có ba bé gái với ba
bao tải đựng rác sau lưng đứng lặng nhìn các bạn đồng tuổi mình đang nô đùa
trong sân trường với ánh mắt buồn bã. Không biết các người có trách nhiệm sẽ
nghĩ gì khi nhìn thấy cảnh tượng này, và cũng không biết tương lai của những em
bé nhặt rác hôm ấy sẽ đi về đâu?"
Chúng tôi
viết lại câu chuyện nhặt rác ở Việt Nam kể trên để chúng ta có một khái niệm về
tình hình kinh tế và đời sống của người dân hai nước. Đành rằng không thể so
sánh một nước lớn với một nước nhỏ, nhưng cái nghề nhặt rác là cái nghề tận
cùng của xã hội dù văn minh hay nghèo khó, mà nó cũng không mang lại được cái
hạnh phúc nhỏ bé nhất cho con người ở nước mình.
Từ một sĩ quan cấp tá QLVNCH, tôi đã trở thành người nhặt rác ở Mỹ.
Nhưng nhờ một nghề nghiệp khiêm nhượng trong một xã hội văn minh giàu có mà tôi
đã học được một bài học quý giá trong đời, đó là Tình yêu mang đến từ một cậu
bé người Mỹ làm xúc động tâm hồn khiến tôi viết nên bài thơ "Cậu Bé và
Người Nhặt Rác" thương tặng bé Mc Kee đáng yêu.
Xin cám ơn bé
Mc Kee. Xin cám ơn Tình yêu bình an cho Người.” (trích truyện kể của tác-giả Lê Quang
Sinh, Garland, 1.2018)
Đọc
truyện kể về “Cậu bé Mc Kee và người nhặt rác, khiến bần đạo bầy tôi hôm nay lại
liên-tưởng đến những câu chuyện nhà Đạo liên quan đến câu hỏi “Truyện Kể Chúa
Phục Sinh đúng thực được bao nhiêu phần?”như tuần báo Công giáo Sydney mấy ngày
trước có những lời hỏi/đáp như sau:
“Thưa Cha,
Con có đứa cháu con ông anh, là đứa
thông minh cũng nhất mực, nhưng cháu lại có tính đa-nghi thách-thức niềm tin của
người Công-giáo, cả chuyện “Chúa Sống lại” cũng không từ. Theo cha, con phải sử-dụng
lý-sự nào để thuyết phục cháu đây?”
“Thuyết-phục
đứa cháu con ông anh”, thời nay không còn là chuyện dễ làm dù ta có làm rất nhiều
lần trong đời. Bởi, con cháu các vị hôm nay không là những đứa trẻ nhẹ nhàng/dễ
dàng tin nhiều thứ chuyện dù là chuyện tin-tưởng đã rõ như ban ngày. Đó là chuyện
thường ngày, rất hay gặp ở đời. Thế nhưng, hôm nay, mời bạn và mời tôi, ta cứ để
tai nghe xem đấng bậc ở Sydney biện-luận thế nào khả dĩ thuyết-phục được đám trẻ
thời này, ra sao. Và đấng bậc nay biện và luận rằng:
“Theo tôi, ta cứ bắt đầu bằng những gì
được Sách Tân Ước kể cho nghe về mọi dữ-kiện. Trước nhất, ta có đoạn Tin Mừng
qua đó Đức Giêsu đã nhiều lần nói tiên tri về một số sự kiện các đến việc Ngài
trỗi dậy từ cõi chết nữa.
Trong số những điều Ngài đề-cập, ta thấy
cả lời báo trước cách thức Ngài sẽ chết và Sống lại, như sau: “Này
chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ
sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng
đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.” (Mt 20: 18-19)
Hai nữa, chắc chắn một điều, là: Đức
Kitô đã chết trên thập-tự trước mắt vị tông-đồ dấu yêu sau khi Ngài bị lính canh
đập bể xương chân như Tin Mừng thánh Gioan đoạn 19 câu 32-34 đã ghi như sau: “Quân lính đến, đánh giập ống chân người
thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức
Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính
lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.”
Ngay đến sử-gia người La Mã là Tacitus
(55-120 sau Công nguyên) cũng chép rằng: “Đức Kitô bị
Pontiô Philatô tổng-trấn xứ Giuđêa, thời Tibêrius điệu xử Ngài đi vào chỗ chết.
“ (Annals XV, 44).
Không ai lại chấp-nhận rằng Đức Kitô
đã trỗi dậy từ cõi chết, giả như Ngài không thực sự chết đi.
Thêm điều nữa, là: mộ chôn Ngài đã trống
trơn sau ba ngày chôn cất Ngài, tức: vào sáng sớm hôm Chủ nhật. Cả bốn Tin Mừng
đều đã chép điều này. Và, các tông-đồ cũng đã khởi sự rao giảng về sự việc Đức
Kitô Sống Lại ngay tại Giêrusalem; và thêm nữa, không một ai tin vào Sống Lại nếu
ta minh-chứng rằng thi-hài của Ngài vẫn còn trong mộ, ngoài thành-phố.
Thứ tư nữa, là: suốt 40 đêm ngày sau
đó, Đức Giêsu đã hiện-diện rất nhiều lần với nhiều người khác nhau, cả năm trăm
người cùng một lúc.
Vào ngày Sống Lại, chính Ngài đã tỏ
cho bà Maria Magđalênna và nhiều phụ-nữ khác, cả với thánh Phêrô tông đồ, với
hai tông-đồ trên đường đi Emmaus và các thánh tông đồ cùng nhiều vị khác đang trong
buổi hội họp trên gác biết là Ngài. Khi ấy, Ngài có bảo: “Hãy coi tay Ta, chân
Ta, chính là Ta đây! Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt có xương như các người
thấy Ta có”, và “Ngài đã cầm lấy mà ăn trước mặt họ.” (Lc 24: 39, 43)
Thành thử, chính Ngài đã sống lại bằng
xương thịt, chứ không chỉ như thị kiến tâm linh về một người đã chết.
Điểm thứ năm, là: Đức Ki tô đã sống lại
thật và các lần Ngài hiện ra lại đã hoán-cải toàn bộ các tông đồ. Từ trạng-thái
hốt hoảng, nản lòng các ông đã trở thành người dạn dĩ ra đi rao giảng Tin Mừng.
Ngoài trừ thánh Gioan ra, còn tất cả các tông-đồ đều chết cho Đạo, cho niềm tin
vững chãi.
Chẳng có cách nào khác diễn tả việc đổi
thay nhanh chóng như thế ngoại trừ việc ta coi trọng sự kiện ấy như thực-tại Sống lại. Không
ai sẵn sàng
bỏ cả đời mình ra mà rao giảng để rồi chết cho sự việc nào đó mình không tin là
có thật.
Thứ sáu, là: không chỗ nào kể rằng có ai
đó chứng-tỏ mình đã tìm thấy hài-cốt Đức Giêsu rơi vãi ở đâu đó. Ta có thể chứng
minh được hài cốt các thánh tông đồ còn sót lại ở đâu đó, chứ tuyệt nhiên không
ai bảo rằng mình đã thấy được hài cốt của Đức Giêsu ở nơi nào đi nữa.
Thêm nữa, vào thế-kỷ thứ nhất người thời
đó thường có tục lệ dựng lên khu di-tích ngay tại nơi tìm thấy hài cốt của các
vị thánh; và thời Đức Giêsu,
người ta cũng tìm ra rất nhiều khu di-tích như thế chung quanh Israel, vẫn dẫy
đầy.
Nguyên sự kiện ta không tìm đâu ra được
khu di-tích thiết-dựng cho đấng thánh nào mà mọi người đều biết và tìm đến như
chính Đức Giêsu từng tuyên bố Ngài Sống lại từ cõi chết và Ngài về với Cha Ngài
trên thiên-quốc.
Có điều thêm nữa, là: Giáo hội tiên-khởi lưu lại đến hôm nay từng
biện-luận bênh-vực sự việc Chúa sống lại từ cõi chết và mọi người đều đã tin.
Ta còn nhớ câu chuyện viên Bách quản của Gamaliel từng có ý-kiến, chuyện người
Pharisêu và vị Luật sĩ nọ đã nhắc các thành-viên trong Giáo-hội câu truyện về thừa
tác-viên Theudas rằng:
“Bấy
giờ có một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng lên giữa Thượng Hội Đồng; ông là
một kinh sư được toàn dân kính trọng. Ông truyền đưa các đương sự ra ngoài một
lát. Rồi ông nói với Thượng Hội Đồng:
"Thưa
quý vị là người Israel, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người
này. Thời gian trước đây, có Thêuđa nổi lên, xưng mình là một nhân vật và kết nạp
được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan rã,
không còn gì hết. Sau ông, có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân
số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người
theo ông ta đều bị tan tác…” (Cv
5: 34-37)
Sự việc này, chắc chắn đã xảy ra cả với
những người dấn bước theo chân Đức Giêsu, vì Ngài đích-thực sống lại từ cõi chết.
Như đã biết, việc các thánh tông-đồ ra
đi rao giảng khiến hàng ngàn tín-hữu
hồi hướng trở về, vào lễ Thánh Thần Chúa Hiện Xuống. Vào ngày ấy, thánh Phêrô có nói với
người Do-thái-giáo biết rằng chính họ đã đóng đinh Đức Giêsu trên thập-tự nhưng
Thiên-Chúa Cha đã vực Ngài dậy, như có ghi ở sách Công vụ đoạn 2 câu 32 sau
đây: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả
chúng tôi xin làm chứng.”
Mãi về sau, ta lại cũng được biết rằng:
rất nhiều vị trưởng-tế trong làng cũng đã hồi hướng trở về hệt như sách Công vụ
Tông đồ đoạn 6 câu 7 từng ghi rõ. Các vị trưởng tế khi xưa từng lên án Đức
Giêsu cho đến chết, giờ đây lại đã hồi hướng trở về làm thành viên bước theo
chân Ngài đi rao giảng. Điều này, ta chỉ có thể cắt nghĩa được lý-do là nhờ có
sự kiện Phục Sinh của Ngài mà thôi.” (X.
Lm John Flader, Seven solid reasons for
Resurrection’s reality, The Catholic Weekly 08/4/2018, tr. 21)
Nói
cho cùng, thì chuyện Chúa Phục Sinh không chỉ là lý-do, nguồn hứng hoặc nhiều
thứ khác từng tác động lên người đi Đạo bấy lâu nay, mà thôi. Nhưng, đây còn là
ý-nghĩa cuộc sống người đi Đạo nữa. Bởi, như đấng thánh hiền nhà Đạo là Phaolô
đã chẳng nói như thế là gì. Thánh nhân bảo rằng: nếu không có Phục Sinh, thì niềm
tin của ta sẽ ra “hư-luống” (tức vô-ích hoặc vô bổ) mà thôi.
Lại
nữa, cũng nên trích dẫn lời đấng thánh hiền nhà Đạo làm kim chỉ nam hoặc kết cục
cho chuyện phiếm bàn chuyện đạo/đời hôm nay rằng:
“Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế
và kinh sư.
Họ sẽ kết án xử tử Người,
sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng,
đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và,
ngày thứ ba,
Người sẽ trỗi dậy."
(Mt
20: 18-19)
Công
giáo, là người dấn bước theo chân Chúa nếu không sống lại như Ngài và theo Ngài
được, thì cũng phải và cũng nên “trỗi dậy” mà làm cuộc đời mới như các cụ còn gọi
là “người mới, việc mới” có thế mới xứng
đáng gọi là dân con của Chúa, mà thôi.
Thế
đó, là lời cuối xin được gửi đến bạn đọc như một quyết-tâm sống ở đời, mà thôi.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những quyết-tâm khác
Còn có trong đời
Rất dài ngày.
No comments:
Post a Comment