Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 23 thường niên năm B 09.9.2012
“Đôi mắt em lặng buồn,”
“Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không
cùng,
có nói cũng không
cùng.”
(Nhạc: Phạm Đình Chương/Thơ: Lưu
Trọng Lư – Mắt Buồn)
(1Ga 4: 4 )
“Đôi mắt em” hay mắt anh một khi đã “lặng buồn” rồi, thì có bàn hoặc có hỏi
cũng chẳng được tích sự gì. Bởi, có nói gì thêm nữa thì “cũng không cùng” !
Lặng buồn và khắc khoải không cùng, phải
chăng cũng là ý của tác giả khi viết lời ca/tiếng nhạc cho nghệ sĩ hát? Phải
chăng đó chỉ là cảm tác của ai đó rất bất chợt, như tâm tình của người nghe “hát
sĩ” cất chất giọng vời vợi vào buổi “Hát
cho nhau nghe” ở Sydney, đầu năm 2012.
“Nói cũng không cùng”, có thể là ý nghĩa
mà người hát hôm ấy đã chọn để rồi người nghe sẽ sâu lắng tâm tưởng về trạng
thái mà người xưa vẫn cứ bảo: “Con mắt là
cửa sổ của linh hồn”. Mà, một khi “cửa sổ” đã chớm buồn, thì hồn mình làm
sao vui?
Thật ra cũng khó biện bạch, khi những
chuyện lẽ đáng ra là mừng vui, nhưng sao vẫn buồn. Buồn, như chuyện nhà Đạo cứ
hiện ra trước mắt thấy rất rõ, khi bạn và tôi, ta có dịp về với Đạo mình để xét
xem tình huống của người mình có vui không khi nhận ra nhiều sự việc “rối rắm”
như nhận định bên dưới:
“Cách đây chừng 30 năm, học sinh trung học ngoài đời như
tôi, đa số đều vui khi có được giải thích bảo rằng hôn nhân là “thể chế xã hội”
có ánh nhìn vào cõi mông lung hằn in một trống vắng. Tôi đang sống trong xã hội
vào thời buổi rất ít người hỗ trợ cho hôn nhân theo truyền thống cũ. Điều này xuất
từ quá trình lịch sử khá ư là phức tạp, như chuyện ở xã hội nào đó có nhiều
nguời vẫn sống theo qui cách của xã hội được kỹ-nghệ-hoá khá nhiều. Và, vai trò
của nữ phụ nay đổi thay không ít đến độ nhiều người như tôi vẫn cho rằng hôn
nhân là chuyện đời riêng tư/cá thể, trong đó vấn đề sinh con/đẻ cái không buộc
phải thế nhưng là lựa chọn. Hoặc, họ vẫn coi hôn nhân như phạm trù hạn hẹp, chí
ít là khi thấy những người đồng tính luyến ái cứ ăn đời ở kiếp với nhau y hệt vợ
chồng, lại coi đó như chuyện thường ngày ở huyện. Người Công giáo Mỹ khi xưa, đếm
được chỉ có 10% dân số nói chung. Nhưng trong số đó, có nhiều người sống đời vợ
chồng lại không theo qui cách Hội thánh ấn định, để rồi vào lúc nào đó lại nóng
lòng được trở về với nhà Đạo như khi trước.
Từ đó, nảy sinh trong tôi đôi câu hỏi đại để như: “Phải
chăng Hội thánh đang tụt về đằng sau ở vào thời mà tác giả Eamon Duffy từng bàn
về “đường lối sống” rất chính đáng? Hoặc, thánh Hội của ta, phải chăng như chỉ có
mỗi tiếng nói duy nhất nhằm cổ võ sự an toàn giới tính ở trời Tây thôi? Phần tôi,
tôi lại vẫn nghiêng về vấn nạn hỏi rằng: Hội thánh ngày nay quay về hướng nào
để duy trì trân châu/báu vật của hội thánh là “mẹ” chặt chẽ đến độ những ai có yêu
cầu bức bách lắm cũng khó mà nhận được hỗ trợ. Riêng tôi, thì thấy đây là vấn
đề mang tính rất mục vụ.
Nói chung thì, nam nhân và nữ giới có khác nhau nên mới được
Thiên Chúa định ra việc sinh con đẻ cái. Và, hôn nhân một vợ một chồng, duy trì
ở phương Tây, được qui định là để bậc mẹ cha cố mà nuôi nấng và chăm sóc đàn con
thơ bé của mình. Đức Bênêđíchtô XVI gọi đây là “ngữ pháp của tạo dựng”.
Dĩ nhiên, ngài không đại diện cho mọi người để nói lên lập trường rất chung của
thánh Hội. Nhưng, thánh truyền lại vẫn dạy: hôn nhân một-vợ-một-chồng phản ánh hiện
trạng Hội thánh trung thành với Chúa nên không thể nào phá vỡ nó, một sớm một
chiều. Đặc trưng “không thể phá vỡ” và việc tự nguyện sinh con cùng yêu thương
chúng như con cái Chúa, trên nguyên tắc, là chuyện rất thiết thực của hôn nhân,
theo đúng nghĩa. Theo Kinh Thánh, giáo huấn này không đổi thay hoặc cần xét lại.
Nhưng, giáo luật và thủ tục kết giao hôn nhân phải ứng dụng một cách hài hoà, cho
mọi người. Thế nên, Hội thánh lâu nay nhắc nhở các tân linh mục hãy nhớ duy trì
mẫu gương nhân từ của Chúa Chiên Hiền. Người Công giáo, dù có ly dị và/hoặc tái
giá thêm lần nữa vẫn trông chờ lòng xót thương của Hội thánh để hồi hướng trở
về với cộng đồng nhân loại, sống yên vui.
Hội thánh là chốn ẩn náu để người phạm lỗi đến đó mà nương thân.
Tuy thế, nhiều giám mục và linh mục lại cứ về với chủ nghĩa giáo-sĩ-trị kiểu mới,
rất đáng sợ nên trốn chạy không còn muốn làm nhân chứng cho Nước Trời nên nay chỉ
thấy được rất ít vị giữ đặc tính khiết tịnh như hồi đầu. Nhiều vị khác đã hoàn
toàn ngã gục khi nhận lãnh trách nhiệm sống
và làm chứng cho Chúa trong mọi việc, cho đúng. Thường thì các ngài hay tỏ dấu
miệt thị các vị từng ly dị hoặc tái giá thêm lần nữa. Có vị, còn coi rẻ hôn
nhân đồng tính, nữa. Nói tóm lại, nhiều đấng bậc vị vọng của ta, thay vì đến
với con dân Đạo Chúa đang có vấn đề rối rắm như Chúa từng làm, thì các ngài lại
xử sự cách khác hẳn. Thành thử, dân con nào có “vấn đề” lại cứ tưởng Chúa cũng
khinh miệt và ghét bỏ họ, nên họ mới xa rời vòng tay mềm mại và ấm áp của thánh
Hội.
Nếu thực tâm đối thoại với các cặp phối ngẫu dù đồng tính
nhưng vẫn sống trung thực ở hoàn cảnh rất đau lòng, mới thấy là họ luôn bị
người khác khinh rẻ lại còn chụp mũ họ như “bọn rối” vì sống khác truyền thống chính
mạch chẳng kể gì dư luận, chẳng để ý xem có người nào nhìn mình bằng cặp mắt khó
chịu, hoặc có quan điểm khác biệt không. Thật ra, Hội thánh không thể và cũng sẽ
không đổi thay qui tắc hôn nhân một-vợ-một-chồng giữa nam nhân và nữ giới,
trong tương lai. Điều này không có gì để ta cứ phải tranh chấp, cãi vã. Riêng
tôi, tôi vẫn nguyện cầu cho anh chị em đồng đạo của tôi sẽ có ngày chứng kiến
chuyện đó với tất cả sự hãnh diện, đầy phấn khởi. Tôi cũng cầu cho các vị mục
tử trong Đạo mình biết cách mà giảng dạy và thực thi những gì Hội thánh từng
khuyên dạy với lòng xót thương, khôn ngoan xứng với danh chức của một mục tử
thời đại luôn tin tưởng Đức Kitô và mọi người.” (trích ý kiến của William L.
Portier, giáo sư thần tại Đại học Công giáo Dayton và Emmitsburg, Maryland Hoa
Kỳ, qua bài viết có nhan đề A Modus
Vivendi: Sex, Marriage & the Church, Commonweal 27/12/2011)
Thế đó, là nhận định của một bậc thày thần học tại đại
học Dayton, Hoa Kỳ. Tức, cũng là nhận định khá chính mạch và có khuôn thước, tựa
như lập luận của người có suy tư, trăn trở. Tuy nhiên, thực tế ở đời có ai đồng
quan điểm như thế hay không, lại là vấn đề khác. Vấn đề, để bạn và tôi, ta xét
thêm ý kiến của bậc thày khác, cũng không kém phần tinh tế, như sau:
“Tôi cũng thấy vấn đề do tác giả Eamon Duffy đặt ra khi ông bảo:
“hôn nhân của những người không theo qui cách cũ xưa do hội thánh qui định, nay
vẫn thấy xảy ra ở nhiều nơi. Và, người thời đại này vẫn cứ sống ung dung, vẫn coi
đó là như chuyện bình thường. Hơn nữa, ta cũng đã thấy nhiều hôn nhân “theo qui
cách” của người xưa, tức phản ánh chức năng đạo đức đúng truyền thống Giáo hội,
vẫn thất bại ở đời về nhiều mặt như các địa hạt có
vấn đề: xách nhiễu tình dục, cuộc sống tầm thường, hành xử trong quan hệ độc hại
hoặc cả ba. Dù, Hội thánh ta có “khua chiêng gõ mõ” cho lớn cố thuyết phục mọi
người theo truyền thống cổ xưa để làm gương cho thế hệ trẻ coi đó mà sống cho xứng
đáng. Và, hôn nhân giữa người đồng tính sẽ còn gây nhiều thiệt hại cho con cái mình
hơn nữa. Nói cách khác, Giáo hội vẫn cứ khẳng định rằng: vui sướng xác thịt trước
đám cưới sẽ khiến hôn nhân giữa hai người ấy chuốc nhiều độc hại không thể hàn
gắn được. Và, người ly dị và tái giá thêm lần nữa, theo luật đời, việc này cũng
sẽ tạo gương mù/gương xấu cho người đồng đạo khiến trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn
nhiều hơn.
Xã hội ổn định nay cho thấy: đó không là kết quả của thể chế
lành lặn, mạnh mẽ. Thể chế chỉ có thể lành mạnh khi nối kết với việc ổn định đời
sống cá nhân riêng tư. Bởi, họ là những người liên kết dưới một ngọn cờ duy
nhất. Nói khác đi, sự ổn định xã hội không là sự thể ta đạt được từ một thể chế
nào dù vững chắc. Đúng hơn, các thể chế thời hiện tại có khuynh hướng vững mạnh
như ta thấy thành viên trong đó vẫn đang sống khá ổn định. Ổn định hay không, chẳng
là những điều do thể chế nào tạo ra, mà do ta mang đến cho thể chế ấy, thôi. Dù
thể chế hôn nhân nào đó nay được nhiều người hiểu như đã tạo ra tinh khiết đáng
nể trọng, thì hôn nhân không theo truyền thống cũ, vẫn là sự sống chung của
những người trưởng thành với nhau. Vẫn đạt hơn hôn nhân theo kiểu xưa cũ giữa
những người chưa chín chắn cho lắm nhưng chỉ biết mỗi việc tuân theo tục lệ của
tiền nhân khi trước, thì tục và lệ ấy dù được thể chế trổi trang là “Giáo hội”
phê chuẩn và ban phát lợi lộc nhiều chăng nữa.
Có nhiều trường hợp, trong đó Giáo hội vẫn chủ trương “hôn
lễ ở bên trong nhà thờ” đã trở thành nơi thuận lợi và hấp dẫn để chụp hình lưu
niệm cho đẹp lưu lại về sau hầu người khác thấy thế mà bắt chước. Thế nên,
nhiều trường hợp chủ tế đại diện cho Giáo hội lại khước từ không cho phép trổi
nhạc hoặc cất lên một số bài ca do đôi trẻ yêu cầu vì thấy thích hợp để ghi tạc
kỷ niệm đời.
Nói chung, thực hiện đám cưới cho tốt và đẹp, phải mang ý nghĩa
hân hoan đi vào khoảnh khắc có bí tích nhiệm mầu hơn là chỉ tìm góc cạnh đẹp để
chụp hình làm kỷ niệm, sau đó sẽ “tải” lên Facebook cho bạn bè thưởng lãm. Trả
lời vấn nạn tác giả Eamon Duffy đưa ra về hôn nhân, tôi đề nghị tiêu chuẩn dành
cho bí tích hôn phối phải làm sao cao hơn hôn nhân ở mức độ bình thường chứ
không được thấp, ngõ hầu ta coi hôn nhân có vai trò đích thực của ngôn sứ trong
thế giới trinh trong cao cả chứ không phải chỉ cho mỗi thế giới riêng mình,
thôi. Đó là điều hiển nhiên, rất rõ ràng.
Không nên liệt bí tích hôn phối vào cùng hàng với giải trúng
xổ sổ tặng cho các cặp phối ngẫu nào thực thi đúng chức năng và hành xử đã ghi ở
phụng vụ. Hôn nhân, phải là lời mời các cặp phối ngẫu nhận ra nhu cầu cần đến ân
huệ và tính khiêm hạ ngõ hầu ta có thể đến với truyền thống vẫn tồn tại.” (trích ý kiến của Gs Nancy
Dallavalle, Trưởng Khoa Tu Đức, Đại học Fairfield Hoa Kỳ, bđd)
Nói cho
cùng, bàn về hôn nhân theo truyền thống Đạo giáo hay kiểu lạ kỳ giữa người đồng
tính mà lại trích dẫn mỗi lập trường của bậc thày thần học như trên, cũng hơi lạ.
Hơi lạ, là bởi ta chỉ thấy ý kiến bàn ra/nói vào, chứ đâu thấy kinh nghiệm của
ai khác nói về trường đời, sống cũng khó. Thế nên, nay đề nghị nên xét thêm một
nhận định của đấng bậc khác ở trường đời và trường học, như sau:
“Tác giả Eamon Duffy rất có lý khi ông trưng dẫn sự kiện về kiểu
sống giống nhất loạt về đạo đức/tính dục ở phương Tây nay gẫy đổ. Và người Công
giáo thường thường bậc trung ở nơi ấy, nay có cần một “thể thức sống”, hơi khác
không? Tôi không rõ thể thức ấy có giống với luật đạo hoặc lệ đời không, nhưng
vấn đề đặt ra đương nhiên ta cần xét kỹ. Và, cho dù luật lệ cũng như qui định trong
Đạo có dẫn đến tình trạng nào đi nữa, thì việc chuẩn bị cho người Công giáo bình
thường biết thích nghi với trạng huống gẫy đổ về luân lý/đạo đức đòi mọi người
phải chú tâm hơn đến công cuộc đào tạo tinh thần cũng như giáo dục về thần học
cho họ. Thành thử, cơ hội vẫn còn đó cho mọi người để rồi ta mới mong cho “người
Công giáo bình thường” hiểu rõ vấn đề hơn.
Còn, hỏi lý do tại sao Giáo hội lại cứ dạy con cái mình nhiều
điều về luân lý như thế, cũng chỉ là bước đầu để hỏi, dù việc hỏi han ấy thật
đáng kể. Thành thử, vấn đề tiên quyết là: làm sao tạo cho được nền giáo lý tốt
đẹp hơn, đó vẫn là chặng đường khá dài mang theo hy vọng giúp ta chống đỡ mọi
gẫy đổ. Đằng khác, ta không thể nói mình hỗ trợ cho nền giáo dục Công giáo, mà
lại không đưa ra vấn nạn nào liên quan đến giáo dục ấy, bằng không thật khó mà hiểu
cho hết đường lối giáo dục ấy.
5 năm qua, tôi có dịp giúp đỡ phần đạo đức và thần học luân
lý cho khoảng 400 sinh viên tại Đại học Villanova, Hoa Kỳ. Phần đông sinh viên của
tôi đều tốt lành và có lòng phục vụ người khác. Đa số các sinh viên ấy, đều
xuất xứ từ các gia đình Công giáo từng học trường Đạo. Khi đó, mọi giảng đường mở
ngày thứ Bẩy để dạy phụng vụ cũng thường chật cứng. Thi thoảng, lại cũng thấy vài
ba sinh viên không thích môn này, nhưng chuyện ấy cũng hiếm thôi. Còn chuyện họ
truyền tay nhau xem hình đồi trụy tại khu ngủ nghỉ xảy ra rất thường với giới
trẻ. Nói chung, đa số sinh viên của tôi vẫn mang dấu ấn khá sâu sắc về nền văn
hoá Công giáo hiện đại, nhưng lại thiếu ngữ vựng thiêng liêng để có thể phê bình
hoặc chê trách các thói quen dục tình không thích hợp của quảng đại quần chúng.
Nhiều sinh viên cũng quan tâm đáp ứng các vấn đề trên một
cách khác thú vị. Nhưng thực sự mà nói, họ đang chạm mặt với đường lối giáo dục
của nhà Đạo khá nghiêm trọng về tính xác thực và tri thức. Tôi biết là thời xưa,
thần học luân lý về tính dục có thể mang nặng tính tiên tri và lề luật, nhưng thật
ra cũng đâu cần phải như thế. Có lần tôi cho sinh viên của tôi học hỏi nghiên cứu
các đề tài, như: Hiến chế Humanae vitae, Thần học thân xác của Đức Gioan Phaolô
đệ Nhị cùng các thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Ephêsô, thì các sinh viên của
tôi xem ra cũng biết đôi điều do thánh nhân đề cập, nhưng họ đang phải giáp mặt
với những vấn đề mà khi trước nhiều người vẫn xác tín nhưng nay đà biến dạng.
Nói khác đi, sinh viên ngày nay lại quá thành thạo chuyện trần tục, thành thử cũng
khó mà tẩy rửa được não trạng của các em cho phải lẽ. Ngoài ra, các sinh viên
của tôi vẫn tỏ ra hăng say phấn chấn dám đàm luận một cách nghiêm túc về các vấn
đề xem ra có hơi gai góc, khác đời.
Dưới đây là một vài chủ đề được đưa ra thảo luận ở giảng
đường, như: Kế-hoạch-hoá gia đình theo phương pháp tự nhiên cũng giúp ích đấy
chứ, nhưng chỉ khi hai người phối ngẫu biết kiên nhẫn và trì hoãn nhận phần thưởng
hoặc lời khen, thôi. Ngược giòng lịch sử, ta thấy chuyện sống đời độc thân
không là chuyện của những người tự mình thực hiện cho riêng mình, nhưng là định
chuẩn để ta sống đời cộng đoàn, tức quà tặng giúp cho tương quan được tốt đẹp
hầu làm nhẹ bớt những khắc khoải do có tranh giành vì giới tính. Tìm hiểu cuộc sống
lứa đôi thật nghiêm túc, người người sẽ thấy hôn nhân là ơn gọi để ta có nhận
thức đúng đắn khi hò hẹn. Bởi, sống chung đụng gần gũi cũng giống như hôn nhân,
nhưng là sự thân mật có điều kiện về dục tính, như có hứa và có hẹn mà không
buộc giữ lời, đó vẫn là phóng tác hoặc phó bản nghịch chống lại giao ước mang
tính bí tích nhiệm mầu. Chủ nghĩa hậu-hiện-đại lại có quan điểm về tính dục vẫn
dựng xây trên nền tảng xã hội, nhưng hiểu biết hôn nhân cách thấu đáo vẫn giúp
ta cố gắng để có sức chống chọi giòng văn hoá mặc định khiến người Công giáo có
thể chọn câu truyện nào và thực hành ra sao để có thể giúp duy trì ước mơ và kỳ
vọng.
Sự gẫy đổ hôm nay về qui cách sống chung có theo truyền
thống không có thể sẽ tiếp tục cứ diễn tiến dù ta có làm gì để đối phó, cũng
thế thôi. Thế nhưng, Đức Giêsu đã chết cho ta và Ngài sẽ trỗi dậy một lần nữa
cũng cho ta và cho cả hôn nhân đôi lứa. Có nhiều cách để ta có thể kể cho nhau
nghe về các đề tài dục tính trong Đạo. Có nhiều cách cắt nghĩa cho ta để ta biết
mà nối kết các điểm nhấn từ sự thể “Chúa yêu thương mọi người”cho đến việc khẳng
định rằng: “đây là những gì mà khôn ngoan linh đạo đề nghị khi ta kiểm soát
sinh đẻ, hoặc ly dị, hẹn hò trai gái.” Cũng nên có quyết tâm mà thực hành thương
yêu để hiểu được các chuyện như thế, và từ đó tự mình tập được thói quen như
thế. Giáo dân Công giáo thường thường bậc trung có thể âm thầm học hỏi để tìm
ra giải pháp từ những sự kiện quan trọng ở trường lớp, giáo đường, nhà xứ cũng
như nhóm hội học hỏi ở các nơi.” (trích ý kiến của Christopher C. Roberts, tác giả cuốn Tạo dựng và Giao ước: Ý nghĩa của Khác biệt
Giới tính trong Thần học Luân lý Hôn nhân đồng thời là giảng sư đại học
Villanova, Hoa Kỳ)
Ở đây nữa, nói gì thì nói cũng nên nói có căn. Tức, có
kinh nghiệm bản thân rất từng trải về các địa hạt liên quan đến con người sống đích
thực ở đời, là thế giới phàm trần ít quan tâm để ý đến tôn giáo. Bàn gì thì
bàn, cũng đừng quên bàn về ý kiến của người trong cuộc vẫn phấn đấu, trong mọi
tình huống dù khó khăn. Nói và bàn cách nghiêm chỉnh, là đặt căn bản trên tình
yêu thương mọi người, như thánh nhân hiền lành, rày vẫn khuyên:
“Nếu ai nói: "Tôi
yêu mến Thiên Chúa"
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy.”
(1Ga 4: 4)
Riêng bần
đạo, mỗi khi bàn và thảo chuyện nghiêm chỉnh mang tính cách rất “ngộ” về Đạo, cũng
đều xin về với vườn thơ có ý nhạc đạm bạc, để rồi từ đó có ý tưởng mà đưa ra
vài cảm nghiệm mang tính tư riêng, hạn hẹp. Vườn thơ/nhạc hôm nay lại đã thấy
ca từ ý nhị của tác giả trên như sau:
“Yêu hết một mùa Đông
không một lần đã nói
nhìn nhau buồn vời vợi
có nói cũng khôn cùng
có nói cũng khôn cùng.
Trời hết một mùa Đông
gió bên thềm thổi mãi
qua rồi mùa ân ái
qua rồi mùa ân ái.”
(Phạm Đình Chương/Lưu Trọng Lư – bđd)
“Yêu hết một
mùa Đông”, không buồn vợi vợi, dù “qua
rồi mùa ân ái”, hay chỉ mới rút kinh nghiệm chung sống nhưng vẫn yêu. Yêu hết
mọi người như người từng trải kinh nghiệm “nhìn
nhau mà lệ ứa”, mà ca từ ở bên dưới còn diễn tả:
“Em ngồi bên song cửa
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa
Một ngày một cách xa
Một ngày một cách xa.”
(Phạm Đình Chương/Lưu Trọng Lư – bđd)
“Ngồi
bên song cửa”, hoặc “đứng tựa đường
hoa”, “nhìn nhau (nhưng) không ứa lệ”, dù “ngày một cách xa”. Nhìn như thế, như thể nhìn Chúa mà không thấy
nhưng vẫn thương và vẫn yêu. Yêu và thương Ngài, cả vào lúc biết rằng Ngài vẫn
hiện diện nơi người anh, người em được nhắc nhở ở Tin Mừng. Chí ít, là những người
mà mình chấp nhận chung sống như bạn đời, theo truyền thống. Yêu và thương, cả
vào lúc chỉ mới gặp có một lần, đã thấy thương.
Nói cho cùng, thương yêu là chuyện
dài ở đời giữa nam nữ. Thương và yêu, là động lực thúc đẩy mọi người đến với
nhau, chí ít là nam nhân tìm đến phụ nữ, dù có thách đố, trắc trở, tưởng chừng
như chuyện thần thoại được kể ở chốn dân gian, như bên dưới:
“Vua cha nọ, thấy rất lo cho cô công chúa tuy xinh đẹp là
thế mà vẫn chưa kiếm được phò mã nào cho xứng đáng chỉ vì thương. Vua lo thế,
là bởi ông thừa biết rằng con gái ông bị một chứng bệnh lạ kỳ, rất ít thấy. Một
hôm, vua cho vời quần thần lại để hội ý xem nên làm cách nào để tìm cho được vị
phò mã chịu lấy công chúa mắc bệnh kỳ lạ ấy. Một vị cận thần hiểu được tâm
trạng của vua, bèn khấn tấu:
-Thưa bệ hạ, thần đây xin góp ý là nếu công chúa bị bệnh lạ
là: cứ sờ vào vật gì, của ai, mà vật ấy không vữa tan trong tay của nương
nương, thì khi đó bệnh của công chúa sẽ khỏi. Và, đôi trẻ sẽ hạnh phúc.
Vua cha vừa nghe thế đã thấy mừng. Ông lại nghĩ ra một diệu
kế để công chúa vừa có phò mã lại vừa sống đời lứa đôi rất hạnh phúc. Hôm sau,
vua chủ toạ buổi chiêu mộ mã với điều kiện, trai chàng nào đưa quà cống hiến mà
lại không bị chảy vữa trong tay của công chúa, thì sẽ được nhận làm phò mã.
Tuyên bố xong điều lệ, tức thì có chàng trai đẹp mã đến tình
nguyện cống hiến thanh kiếm lạ, rất tuyệt diệu. Ngay lúc công chúa sờ vào thanh
kiếm đẹp kia, kiếm đã chảy thành cục sắt rất đáng tiếc.
Người thứ hai cũng bước lên, nhưng thay vì kiếm sắt lại dâng
tặng công chúa chiếc nhẫn quý có kim cương đắt tiền. Công chúa nhận viên kim
cương xong, lại cũng thấy kim cương chảy tan thành bùn đất.
Người thứ ba bước tới, thay vì dâng tặng vật quý, lại chỉ
yêu cầu công chúa sờ vào tim anh ở nơi ngực. Công chúa bèn làm thế. Tim gan của
phò mã tương lai chẳng tan nát, cũng vẫn đập đều những nhịp đập của thương yêu cho
đến cuối đời.”
Truyện kể chỉ có thế. Không thêm thắt, cũng chẳng
miêu tả điều gì khó hiểu. Nhưng, người kể chỉ muốn diễn tả mỗi một điều, là:
bao lâu con tim của người thường vẫn đập đều nhịp điệu yêu thương, thì tim đó,
con người đó sẽ chẳng bao giờ tiêu tan. Dù, điều lệ của cuộc sống có thi đua, tranh
chấp vẫn đòi hỏi những khác biệt, hoặc khó khăn.
Áp dụng vào
với vấn đề bạn và tôi ta đang bàn, bần đạo nghĩ cũng chỉ nên thêm thắt một lời
cuối, bằng giòng thơ/nhạc ở bên trên làm đoạn kết, cũng có hậu:
“Đôi mắt em lặng
buồn,”
“Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không
cùng,
có nói cũng không
cùng.”
(Phạm Đình Chương/Lưu Trọng Lư – bđd)
Vâng. Đúng thế. Nói bằng tình yêu, mỗi chữ yêu, cũng chẳng
thể nào cùng được. Chí ít, là lời nói ấy đượm nhiều hân hoan chứ đừng “lặng
buồn”, trong đôi mắt.
Trần Ngọc Mười Hai
Nguyện vẫn nói
với mình và với người,
bằng tình thương
chứ không qua đôi mắt
rất lặng buồn.
No comments:
Post a Comment