Saturday 27 July 2013

Đời tôi cô đơn, nên yêu ai cũng cô đơn



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 18 thuờng niên năm C 04-8-2013

“Đời tôi cô đơn, nên yêu ai cũng cô đơn,”
“đời tôi cô đơn, nên yêu ai cũng không thành.”
(Đài Phương Trang – Đời Tôi Cô Đơn)
(Tv 25: 16-18)
            Hôm ấy, trên đường dài đầy những phiếm, bần đạo được người bạn là chuyên viên tổ chức các buổi văn nghệ gây quỹ ở Sydney, có kinh nghiệm từ buổi ca vũ nhạc có số thu kỷ lục mang tên “Tình Yêu Trên Tây Nguyên” đón tiếp Lm Trần Sĩ Tín, DCCT VN từ Tây nguyên xuống núi, Sơ Nguyễn Thị Ngọc Mai Giám đốc trường Khiếm Thính Ánh Minh ở Thị Nghè, Đức Giám mục Nguyễn Văn Hạp từ Giáo phận Vinh sang... Nói nhiều như thế, cũng chỉ để dẫn nhập lý do tại sao bạn hiền của bần đạo có tên là Hương Nam, lại ưu ái mời cà-phê sáng hầu nghe kỹ nhạc bản ở trên để xin thêm ý kiến với “ý cò”, tờ mờ rất nhiều ý. 
            Ý kiến/ý cò, là những ý/lời được gói ghém trong nhạc bản, có những lời, rằng:

            Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang,
yêu ai cũng lỡ làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi.
Đời tôi cô đơn nên yêu em chẳng bao lâu,
ngày mai đây em lên xe hoa bước theo chồng.”
(Đài Phương Trangbđd)

            Nói của đáng, thì bạn đạo của bần đạo tuy lúc nào cũng có nụ cười vui trên môi, nhưng bên trong lại chứa một bồ... cô đơn với những đơn chiếc, đơn côi, đơn độc, lại hát thêm:  

            Đời tôi quen cô đơn nên tôi chẳng trách em,
tôi quen rồi những chuyện dang dở từ khi mới yêu.
Tôi quen, tôi đã quen rồi em,
dang dở khi tình yêu tôi không xây trên bạc vàng.
Tôi quen, tôi đã quen rồi em,
em khóc làm chi nữa bận lòng gì kẻ trắng tay.”
(Đài Phương Trangbđd)

            Nói gần nói xa, thôi thì ta nói thật để cho xong rồi lại nói: điều mà bạn đạo của bần đạo muốn nói, là thế này: “Anh viết nhiều, nhưng thử hỏi có bao giờ anh viết về tâm trạng của người em, trai hay gái, vẫn cứ lông bông ngoài quán-xá/cà-phê cà pháo ở xứ người, như ai đó không?” Nói đến đó, bạn đạo của bần đạo lại sụt xùi, sụt xịt chẳng nói thêm được điều gì, bèn trở về đề tài bài hát trên, may ra tìm được những lý và lẽ của buổi cà-phê sáng hôm ấy, với tư tưởng rất ư là “nặng ký” như câu:

            “Tôi xin, xin chúc em ngày mai,
hoa gấm ngọc ngà luôn vây quanh em cả cuộc đời.
Riêng tôi duyên kiếp luôn dở dang,
nên suốt đời tôi vẫn yêu cô đơn như tình nhân.

Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn,
dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng,
trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây
tôi không hề trách đời hay giận đời mau đổi thay.”
(Đài Phương Trang – bđd)

Nói thế chứ, bạn đạo của bần đạo chỉ muốn nói có một điều, rằng: “Anh viết khá nhiều về tình yêu: yêu người, yêu mình thật không thiếu, nhưng thử hỏi: có bao giờ anh hoặc ai đó nhớ đến tình yêu gửi đến những người cô đơn/lẻ bóng trong đời mình không? Bởi, có những người, chắc chắn không là tôi, dù đã có vợ và nhiều con nhưng vẫn bóng lẻ, đơn côi, cô độc cũng da diết lắm?” Câu vừa hỏi, là lời nhắn nhủ của bạn đạo, khiến bần đạo giật mình, bèn đi một đường kiếm tìm xem mình còn thiếu điều gì chưa viết và lách chăng?
Thú thật với bạn đọc của bầy tôi đây, rằng: bần đạo từng lách nhiều, nhưng viết chẳng được bao nhiêu. Nên hôm nay, tìm về giòng chảy này, chỉ muốn đề cập đến các bạn đạo cô đơn như không còn lẻ bóng, bằng tình tiết ý/lời như sau:
Trước hết, là tình và tiết của người viết trẻ tên là Anthony Ndaira, trên báo đạo, từng có ý kiến cũng rất trẻ về giới trẻ “lẻ bóng” tức đơn thương độc mã, những là sao đó, rất như sau:

“Trước kỳ nghỉ vừa qua, tôi có san sẻ với đám học trò lớp 8 của tôi về sử-hạnh của vị thánh quan thày những người trẻ mồ côi, tưởng chừng mình cũng cô đơn, lẻ bóng nhưng thật sự không phải. Đó là thánh quan thầy của kẻ đơn chiếc mang tên gọi là Đôminicô Saviô.

Thánh trẻ này, từng được Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị vinh danh là “vị thừa sai của mẫu gương lành thánh, có lời lẽ và hành động khí khái, rất “tốt đạo đẹp đời”. Là bạn hiền, dễ làm thân với mọi người, và là người hoà giải săng sái ở sân trường cho đồng môn/đồng sàn về tình thương của Chúa với mọi người, cả đến lũ học trò quậy phá, rất nghịch ngợm.

Đôminicô Saviô đã can đảm chấp nhận ý Chúa cho đời mình đến ngày về với Chúa, năm 1856, chỉ một tháng trước sinh nhật thứ 15 của bạn, mà thôi. Về các người trẻ trở thành thánh, ngoài đấng thánh trẻ Đôminicô Saviô ở trên ra, còn có Stanislaus Kostka cũng từng khước-từ món thừa kế “kếch sù” do cha/ông để lại, để ra đi sống đời âm thầm/tầm thường nhưng thanh bạch, dành hết cuộc đời mình để Tin Mừng của Chúa được quảng bá khắp mọi nơi. Dù bị anh ruột mình xách nhiễu lạm dụng đủ điều không thương tiếc, thánh trẻ Stanislaus Kostka vẫn vui lòng chấp nhận thân phận hèn mọn vào thời buổi tiền bạc và của cải vẫn được mọi người coi là trên hết, cần thiết nhất. Thế nên, vị thánh trẻ của Giáo hội bèn khoác áo hành hương ra đi gia nhập hàng ngũ anh em Dòng Tên. Thánh Stanislaus Kostka qua đời vào năm 18 tuổi, đúng vào ngày Mẹ Về Trời năm 1568. Và, do tinh thần sống đại độ, không dính bén của cải thế gian, nên Giáo hội đã tôn vinh ngài thành bậc hiển thánh cũng rất trẻ.

Ngoài các vị kể trên, còn có Chân phước Chiara Luce Badano, cũng qua đời vào lúc 18 tuổi, vào hồi thập niên 1990, hai năm sau khi chiến đấu không ngừng nghỉ với căn bệnh trầm-kha ung thư xương. Vị thánh trẻ này, thích ra ngoài vui chơi với bạn bè, chơi quần vợt và nghe nhạc pop thật không thiếu.

Kể về các thánh trẻ đơn côi, mộc mạc, còn thấy các vị tử đạo trẻ như thánh Agnes, Lucy, Maria Goretti, Gioan thành Arc mới 16 đã can đảm dẫn đoàn quân viễn chinh nước Pháp chiến đấu với lòng tin vững chãi, nhẫn nại, kiên cường, quả cảm. Thêm vào đó, còn có vị thánh mới được phong, như: thánh Kateri Tekawitha, một bản sắc người Mỹ chết vào năm lên 19. Tất cả các thánh trẻ này được tôn vinh, là để làm rạng danh giòng sử Đạo cũng như đời của đất nước. Các thánh trẻ cũng chiến đấu không thua kém bậc đàn anh đàn chị mình trước mọi cám dỗ cũng như bạo lực giữa lòng đời một thế giới có quá nhiều đau thương, nghịch thù và xúc phạm phẩm giá con người.

Giới trẻ hôm nay cũng thế, dù phải giáp mặt với đủ mọi tình huống côn đồ, doạ nạt hoặc xa sút, các thánh trẻ vẫn hiên ngang sống quả cảm cho niềm tin, có vị còn phấn đấu chống lại tình huống lẻ loi, đơn độc không có hỗ trợ từ gia đình hoặc bầu bạn thân thương.

Đang thao thao bất tuyệt về các người trẻ sống gương mẫu như thế, tôi được một học sinh giơ tay hỏi:

-Thưa thày, phải Đức Giêsu xưa là người trẻ sống khí khái lắm phải không?
-Đúng thế đó, em.

Trả lời xong, tôi cứ thế tiếp tục nói về các sự kiện trong đời sống công khai của Chúa, những là: Chúa đi trên nước, Chúa chữa lành cho người mù, người phung đơn độc và cuối cùng ngài chết cách lẻ loi, tủi nhục trên thập tự. Ngài cũng sống giản dị như người thợ mộc ở trong làng với người Cha đời, nơi trần thế, là thánh cả Giuse. (Lc 2: 52)

Tóm lại, là người trẻ từng hăng say lao động, vui chơi thoải mái với bạn bè chòm xóm, người trẻ tuổi Giêsu cũng đã đem nụ cười lành đến với mọi người, khi Ngài nói cười cùng với mọi người, dù lam lũ. Ngài đã làm gương sáng cho giới trẻ trong làng nghèo bằng những kinh nghiệm để đời đầy chất “người”, tức: cũng đớn đau, sầu khổ, đơn độc, nhưng Ngài luôn sống có quyết tâm cứu vớt những người cần được cứu.

Thành thử, dù có là người trẻ sống đời đơn độc không ai hiểu mình, các bạn trẻ của tôi cũng đừng bao giờ để ai “nhìn xuống” coi thường mình, chỉ vì mình còn “trẻ người non dạ” rất đơn độc! Nhưng, hãy tạo cho mình lối sống làm kiểu mẫu cho các bạn đồng hành với mình vẫn tin vào Chúa. Sống kiểu mẫu niềm tin, bằng lời nói vui tươi, bằng hành-vi thân-thiện đượm tình thân, yêu thương trong niềm tin trong sáng, như thánh Phaolô từng nói trong thư gửi đồ đệ trẻ là Timôthê đoạn 4 câu 12. Hãy nhớ rằng: ở mọi tuổi, chí ít là tuổi còn trẻ, mình vẫn có thể và vẫn phải làm chứng nhân cho Đức Kitô cũng rất trẻ, giống như ta”. (xem Anthony Ndaira, “Youth? It’s no barrier to setting an example”, The Catholic Weekly 21/7/2013 tr. 11)

            Thật ra thì, Chúa có lẻ loi, đơn độc một đôi lúc. Nhưng, chính đó là lúc Ngài tỏ rõ cho mọi người thấy được rằng: lẻ loi/đơn chiếc cũng là ân huệ Cha ban để ta, qua đó, mà nhận ra được: mình vẫn cần đến ân huệ trợ giúp, cũng rất cần.
            Có đôi lần, bạn bè người thân vẫn hỏi nhau: đơn côi/lẻ bóng, có là hậu quả của lối sống vị kỷ, chỉ biết mình không? Có vị còn đi xa hơn, lại tỏ bày lập trường/nhận định về tình trạng đơn độc là do cảnh huống ”nghèo/buồn” gây nên. Nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo người thân thiết giúp đỡ, nên cứ buồn?              
            Nghe hỏi, bản thân bần đạo đây cũng chẳng biết sao mà trả lời/trả vốn cho đúng cách. Chỉ dám tìm đến bậc thày dạy khi trước, những mong được thày chỉ giáo đôi điều. Thì, may thay, lại nhớ rằng: trong suy niệm Lời Chúa hôm ấy, Lm Kevin O’Shea, CSsR có đề cập đến loại “người nghèo do ta chọn”, ý thày muốn nói, là: Hội thánh nghèo của ta khi nói đến chữ “nghèo” hoặc “người nghèo” thường hay chọn loại hình “nghèo” nào đó, cũng không nghèo là mấy.
Áp dụng chữ “nghèo/hèn” vào tình huống lẻ loi/đơn chiếc, rất cô đơn, bần đạo nhớ được tư tưởng ở truyện kể về người giàu nọ tuy rất giào sang phú quý nhưng vẫn thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết. May mà ông ta lại đã có tinh thần “nghèo” của Tin Mừng, tức tinh thần nhớ đến người nghèo sống ở đời thường không được ai nhớ đến để chọn, như sau:

Ba mươi năm trước đây tại thủ đô Washington, D.C., vợ của một nhà doanh nhân đã bỏ rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông. Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó, bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa $100,000 mà còn có cả các tài liệu marketing rất quan trọng.

Khi người doanh nhân vội vã tới bệnh viện, ông ta nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn nằm ngay dưới chân bức tường hành lang, đang run lên vì lạnh, và trong tay cô gái đó có chính xác chiếc ví mà vợ ông đã bị mất.

Cô gái tên là Hiada, cô tới bệnh viện để đưa người mẹ đang bị ốm tới khám bác sĩ. Người mẹ và cô con gái, hai người đang dựa vào nhau để sống, họ rất nghèo, họ bán mọi thứ đáng giá và gom góp chỉ vừa đủ số tiền để nhập viện và ở bệnh viện trong một đêm. Không có tiền, họ sẽ bị đuổi ra khỏi bệnh viện vào ngày tiếp theo.

Đêm đó, Hiada đã bị bỏ lại bơ vơ trong hành lang của bệnh viện. Cô ấy cầu nguyện xin Chúa nhân từ cứu giúp và hy vọng sẽ gặp được một quý nhân nào đó sẽ cứu giúp được mẹ cô. Đột nhiên, một người phụ nữ đi từ trên hàng lang xuống và đã đánh rơi chiếc ví mà không hề để ý và vội vã đi qua, có lẽ bởi vì cô ấy đang phải mang một thứ gì đó trên tay. Hiada là người duy nhất ở hành lang lúc đó, cô đã tới và nhặt chiếc ví lên. Khi cô chạy tới sau cánh cửa phía sau người đàn bà kia, thì bà ấy đã ở trên ô tô.

Hiada quay trở lại phòng bệnh viện. Khi mở chiếc ví ra, cả hai mẹ con đều sock vì số tiền quá lớn. Họ đều ngay lập tức nghĩ rằng số tiền kia sẽ có thể giúp mẹ cô ấy chữa bệnh. Tuy nhiên, người mẹ đã nói với Hiada quay lại hành lang và đợi người đánh rơi kia quay lại để tìm.

Bất chấp mọi nỗ lực giúp đỡ cứu chữa của nhà doanh nhân, mẹ của Hiada đã ra đi và để người con gái nhỏ ở lại một mình. Sau đó,nhà doanh nhân đã giúp đỡ cô con gái nhỏ bé kia, người đã mất đi cả gia đình. Người mẹ và cô con gái không chỉ giúp người doanh nhân lấy lại $100,000, mà quan trọng hơn là những tài liệu marketing đã giúp nhà doanh nhân về sau thành công hơn bao giờ hết và trở thành một nhà triệu phú chỉ sau đó không lâu

Sau khi tốt nghiệp đại học, Hiada, (với sự giúp đỡ của nhà doanh nhân), cô đã trợ giúp cai quản việc kinh doanh của nhà triệu phú. Mặc dù nhà triệu phú không bao giờ bổ nhiệm cô vào một vị trí nào thực sự, nhưng trải qua rất nhiều thời gian thử thách và học tập, những kinh nghiệm thông thái của nhà triệu phú đã ảnh hưởng tới cô, giúp cô trở thành một nữ doanh nhân thực sự.
Vào những năm sau này, ông đã tham vấn Hiada rất nhiều ý kiến giải quyết cho rất nhiều vấn đề gặp phải. Khi mà ông sắp xa rời thế giới, ông đã để lại những dòng đầy từ bi:

“Trước khi tôi biết Hiada và mẹ cô ấy tôi đã thực sự mất hết tiền, nhưng khi tôi đứng trước bà mẹ và cô con gái, người đã tìm thấy một số tiền rất lớn của tôi khi mà họ đang trong cảnh bệnh tật và nghèo đói nhưng vẫn không màng tới số tiền của tôi, tôi nhận ra rằng họ mới là những người giàu nhất. Họ đã giữ được những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con người mà một người doanh nhân như tôi còn thiếu. Tiền của tôi có được phần lớn là do những trò tiểu xảo và tranh nhau với người khác. Đó là những người mà họ làm cho tôi hiểu được tài sản quan trọng nhất trong cuộc đời là giá trị đạo đức của họ. Tôi cứu giúp Hiada không chỉ vì trả ơn hay vì sự cảm thông. Mà là vì tôi thấy cô ấy như một hình mẫu chuẩn mực của một con người.

Khi cô ấy ở bên cạnh tôi, tôi sẽ luôn nhớ rõ rằng tại bất kỳ thời điểm nào cái gì tôi nên làm, cái gì không, tôi nên kiếm tiền thế nào, tôi không nên kiếm thế nào. Đó là lý do cơ bản cho sự thịnh vượng trong kinh doanh của tôi sau này và khi tôi đã trở thành nhà triệu phú. Sau khi tôi chết, hàng triệu đô la của tôi sẽ kế thừa lại hết cho Hiada. Đó không chỉ là để cho mà nó sẽ mang lại thành công hơn và thịnh vượng hơn cho việc kinh doanh sau này. Tôi tin chắc rằng người con trai thông minh của tôi sẽ hiểu được những suy nghĩ của cha mình.”

Khi người con trai của nhà triệu phú đi du học trở về, anh đã đọc rất kỹ bức thư của cha và ngay lập tức ký các giấy tờ chuyển nhượng mà không một chút đắn đo gì : “Tôi đồng ý để Hiada thừa kế toàn bộ tài sản của cha tôi. Tôi chỉ có một đề nghị rằng Hiada sẽ trở thành vợ của tôi.”

Sau khi đọc xong và nhìn thấy chữ ký của người con trai nhà triệu phú, Hiada đã nghĩ rất nhanh và đã ký vào: “Tôi xin nhận mọi tài sản thừa kế từ thế hệ trước, bao gồm cả người con trai của ông”. (theo chanhkien)

            Đầu óc bần đạo tuy còn nông cạn, nhưng đôi lúc cũng nhớ lời đấng thánh hiền lành khi xưa từng đặt lời ca/tiếng hát ở thánh vịnh rày như thế. Như thế, tức giống như sau:

Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con,
vì thân này bơ vơ khổ cực.
Lòng đau như cắt, xin làm cho thanh thoả,
và giải thoát con khỏi bước ngặt nghèo.
Xin Chúa thấy cho cảnh lầm than khổ cực
và tha thứ hết mọi tội con.”
(Tv 25: 16-18)

Thánh vịnh được đấng thánh hiền đặt ra, là để các thánh trong Đạo mình ca và hát chúc tụng Chúa. Nhưng, cũng còn là lời nhủ và nhắn gửi toàn thể dân con trong Đạo về sự kiện có những bạn trong đời, dù vẫn cười cười trước mũi, trước mặt mọi người, nhưng trong lòng vẫn ôm trọn một thổn thức, rất cô đơn. Nhớ đến “đấng thánh” trong Đạo tuy rất hiền từ, nhưng biết đâu các ngài lại chẳng cô đơn/cô độc trong lòng. Vậy thì, nên chăng ta nguyện cầu cho những người như thế và cũng cầu cùng các bạn như vậy? Nên lắm chứ.

Trần Ngọc Mười Hai  
Nay cũng thấy mình lơ là
và quên sót
Quên cả bạn Đạo trong đời,
rày như thế.

Saturday 20 July 2013

“Tôi không phải là vua nên mộng ước thật bình thường”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thuờng niên năm C 28-7-2013

“Tôi không phải là vua nên mộng ước thật bình thường”
Như yêu một loài hoa trên vùng đá sỏi buồn phiền.
Loài hoa không hương sắc màu,
nhưng loài hoa biết khép lá ngây thơ.”
(Trần Thiện Thanh – Hoa Trinh Nữ)
(Ph 2: 1-4)
            Câu hát trên, tuy nghe nhiều lần nhưng chắc hẳn có vị cũng lấy làm lạ như bần đạo, nên vẫn hỏi: mộng và ước của người viết, có là ước và mộng do gặp được “Hoa Trinh Nữ” ở đời chăng? Bần đạo đây, cũng có nhiều mộng ước thật bình thường, thế mà đôi lúc vẫn không thấy nó thành hiện thực.
            Nói đúng hơn, mộng và ước của bần đạo thật rất nhỏ, có đó rồi lại không. Có hay không, cũng tựa như ân huệ Trời cho xong rồi rút lại; âu cũng là chuyện thường ngày ở huyện, rất Đạo nhà.
            Về “mộng ước thật bình thường” như người viết nhạc ở trên tâm sự, bần đạo đây cũng thường quan niệm tất cả là ân huệ, nên vẫn tạ ơn Trên cả vào khi trải qua đôi ba kinh nghiệm tương tự như khi ‘luận phiếm đường dài’ không phải lúc nào cũng ‘ron rả’ được tiếp nhận dài dài, mãi đâu. Đã chấp nhận viết lách, là chấp nhận một ‘phi phỏng’, tức: có đó rồi lại mất đó, như trong đời.
            Chuyện chỉ là: cách nay không lâu, đấng bậc rất có “thớ” trong nhóm chủ trương báo điện tử nọ có gửi cho bần đạo một tin tức...mình, đại để bảo rằng:

“Chuyện Phiếm Đạo Đời, ban Biên tập xin tôi ngưng vì có nhiều độc giả “complaint”... Tôi, thi thoảng thấy bài viết của anh có tư tưởng, lồng trọng văn chương dí dỏm...Nhưng, bá nhân bá tính, nên Ban Biên Tập quyết định xin ngưng đưa lên... Xin lỗi anh về chuyện này.”
(trích điện thư của một bạn hiền linh mục gửi bần đạo hôm 05/7/13)

            Bạn đạo trong Ban Biên Tập của ‘báo điện’ nổi cộm, lại không nói rõ có giòng chảy nào khiến bạn đọc những than và phiền, nên bần đạo chả biết “ất giáp mô tê” gì ráo trọi, chỉ dám tiếp tục nghe và ngóng cho kỹ, để xem bạn bè ở một số nơi còn góp ý, lại nhận được đoạn viết như sau:

“Có tư tưởng lồng trong văn chương dí dỏm, mà lại xuất hiện trong làng báo khô khan, thì làm sao sống dai hoặc sống dài dài được. Thôi thì bạn ạ! “Nhà Cha ta có nhiều chỗ ở”... Nơi nào không tiện để mình xuất hiện, cứ coi đó là “ân huệ”, rồi “rũ áo ra đi” tìm chỗ nào vui hơn!” 

            Nghe thế, bần đạo lại sẽ quyết tìm chỗ “vui hơn” mà đến chơi/trò chuyện hoặc ‘cà kê dê ngỗng’ với câu hát Karaôkê, như sau:     

“Qua một rừng hoang gió núi theo sang, giũ bụi đường trên vai,
Hái cây hoa dại lẻ loi bên đường, gọi là hoa Trinh Nữ.
Hoa Trinh Nữ, không mặn mà bằng nàng hồng kiêu sa.
Hoa đâu dám khoe màu cùng một nàng Cúc vàng tươi.
Hoa không bán hương thơm như nàng Dạ Lý trong vườn,
Nhưng Hoa Trinh Nữ đẹp, tựa chuyện tình hai chúng ta...”
(Trần Thiện Thanh – bđd)

“Tình hai chúng ta”, có thể là tình người nhà Đạo chỉ muốn viết và lách cho nhiều, để người đọc còn hiểu tâm trạng của nhà Đạo thời hiện tại; chứ không chỉ nói năng chuyện tư riêng, nhỏ mọn, Thế nhưng, viết lách sao cho khỏi bị “than phiền” là “nghề của chàng”. Chàng trai hiên ngang chỉ nói năng bằng ngòi bút, thôi. Nói năng, tuy không lăng nhăng, lằng nhằng nhưng vẫn có các vị đặt bút viết, gửi về toà báo tuần rất Đạo, chỉ đưa ra câu hỏi về chuyện nói năng “tung tăng”, như sau:

“Mới đây, tôi được mời đến tham dự buổi tụ tập nguyện cầu rất “đặc sủng” trong đó có khá nhiều người “nói tiếng lạ”. Riêng tôi, vẫn thấy khá lạ, nên tự hỏi: làm sao như thế. Nay xin hỏi: Hội thánh ta, có chuẩn nhận những điều như thế không?” (Lại thêm một câu hỏi của đấng bậc/người đọc có mặt mà không có tên, để ký hỏi cho riêng mình.)

            Riêng một mình hay thật nhiều mình, vẫn cứ là câu hỏi từ nhiều năm của người nhà Đạo rất chuyên chăm nhưng ít thấy sự lạ kỳ nào như thế. Nghe hỏi những điều như thế, đức thày nhà Đạo mình ở Sydney lại lấy giấy bút ra mà trả lời/trả vốn bằng một giải đáp khá quen, như sau:

“Trước nhất, ta hãy cùng nhau về với thánh kinh để xem Sách thánh có nói gì về chuyện này không. Ngay Đức Giêsu cũng từng nói tiên tri rằng: những ai tin vào Ngài, sẽ có khả năng nói tiếng lạ, như Tin Mừng thánh Mác-cô có chép: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.” Mc 16: 17)

Mặc khải rõ ràng hơn, là vào Lễ Ngũ Tuần, khi ấy Thánh Thần Chúa ngự xuống với các thánh Tông-đồ, được kể lại trong sách Công cụ, như sau: “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.” (Cv 2: 4-6)          

Về sau, khi thánh Phêrô đến nhà của viên bách quản người La Mã tên là Cornêliô ở Xêdarê và khi đó, cũng có quà tặng của Thánh Thần Chúa đổ xuống trên mình những người ngoài Đạo, là vì: “bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. (Cv 10: 6). Và rồi, lại có sự kiện tương tự ở Êphêsôkhi có một nhóm người cũng đã “nói tiếng lạ” sau khi được thánh Phaolô đặt tay lên đầu và nhận đón Thánh Thần Chúa, hệt như thế. (Xem Cv 19: 6)

Riêng thánh Phaolô cũng từng viết rất nhiều thư cho giáo đoàn Côrinthô về món quà “nói tiếng lạ”, kể cả quà tặng do Thánh Thần Chúa ban, như: “Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.” (1 Cor 12: 10)

Rồi cứ thế, thánh-nhân còn phân biệt ơn “nói tiếng lạ” và “ơn tiên tri”, mỗi ơn có mục đích khác nhau, như: “Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy nói ra những điều nhiệm mầu.3 Còn người nói tiên tri thì nói với người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi.4 Kẻ nói tiếng lạ thì tự xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh.5 Tôi muốn cho tất cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi người này giải thích để xây dựng Hội Thánh.”(x. 1Cor 14: 2-5)

Thánh Phaolô cũng công nhận mình từng nói nhiều tiếng lạ, trong thư gửi giáo đoàn này, như: “Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi nói các tiếng lạ nhiều hơn tất cả anh em,19 nhưng trong cộng đoàn, thà tôi nói năm ba tiếng có thể hiểu được để dạy dỗ kẻ khác, còn hơn là nói hàng vạn lời bằng tiếng lạ.” (1Cor 14: 18-19)

Về sau, thánh-nhân đã tóm tắt mối tương-quan giữa ơn nói tiếng lạ và ơn tiên tri, bằng lời lẽ rất chắc nịch, rằng: “Cho nên, thưa anh em, anh em hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các tiếng lạ. Nhưng hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự.” (x. 1Cor 14: 39)

Ngang qua các đoạn thư trích dẫn ở trên, ta nhận ra được lời giải đáp cho câu hỏi mà anh/chị đặt. Thứ nhất, chẳng có gì xấu khi nói tiếng lạ, bởi đó là quà tặng từ Chúa Thánh Thần. Nếu các thánh Tông đồ có được quà tặng này vào Lễ Ngũ Tuần và thánh Phaolô cũng được ân huệ như thế, thì chuyện ấy đâu có gì là xấu xa đâu.

Thứ hai là, “nói tiếng lạ” trước nhất là hướng về Chúa mà cầu nguyện, chứ không phải nói cho những người đang hiện diện, và cũng chẳng để cho những người này hiểu. Nhiều vị có ơn đặc sủng cũng nhận ra rằng đây chính là ân huệ đặc biệt xảy ra trong buổi hội họp của họ, thôi. Nếu có ai cầu nguyện bằng “tiếng lạ” và những người trong buổi ấy nhận ra rằng Chúa Thánh Thần thực sự có mặt hôm ấy và đã thúc đẩy mọi người cùng nguyện cầu theo cách ấy. Ngài cũng lấp đầy mọi người bằng niềm tin và ơn huệ qua việc Chúa Thánh Thành hiển hiện, như thế.

Thứ ba là, quà tặng “nói tiếng lạ” là điều quan trọng, cần thiết hơn cả ơn nói tiên tri, ơn chuyển tải đến người khác Lời của Chúa, ngõ hầu để Chúa dẫn dắt họ sống. Cuối cùng thì, đây là sự việc từng xảy đến vào Lễ Ngũ Tuần khi đó các thánh tông-đồ đã sử dụng ơn “nói tiếng lạ” để cất nhắc những người hiện diện trong buổi đó ngõ hầu hiểu được thông điệp Chúa gửi đến cho mình.

Cuối cùng ra, theo nghĩa rất thực của sự việc Hội thánh hôm nay có được ơn “nói tiếng lạ” qua sự thể người nói đã sử dụng ngôn ngữ của mỗi nước và mọi nước. Thế kỷ thứ 6, có vị giảng thuyết ngưòi châu Phi từng giải thích sự thật này rằng: “Vì thế nên, giả như có ai nói điều gì cho mỗi người chúng ta, rằng: Anh chị em đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần rồi, sao anh chị em lại không nói tiếng lạ?, thì câu trả lời phải là: ‘Tôi cần nói thứ tiếng của hết mọi người, bởi lẽ tôi thuộc về Thân Mình Đức Kitô, tức là Hội Thánh Chúa và Hội thánh của Ngài đang nói đủ mọi thứ tiếng, ngày hôm nay.(Xem. Sách Bài Giảng số 8, đoạn 1-3)(Giải đáp thắc mắc của Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 9/6/2013, tr. 10)

Nói năng bằng nhiều thứ tiếng, không chỉ mỗi “tiếng lạ” của nước nào đó cũng chưa quen, cũng là chuyện lạ, ở đời  Thế nhưng, nói năng bằng tiếng nước mình, của người mình, dù là “nói có tư tưởng, lồng trong văn chương dí dỏm” mà người bình thường đã thấy lạ, mà bậc trên lại không thấy, đó cũng là điều lạ, ở cõi đời.
Còn nhớ, vị “thánh cả của mọi thời” cũng thấy những điều như thế, khi ngài sống gần cận dân đen đời thường ở xứ miền Galát. Qua thư Galát, thánh Phaolô từng hướng-dẫn dân con nhà Đạo nhớ về ý nghĩa thực của thập giá Đức Kitô gửi đến mọi người. Thập giá đây, không hẳn chỉ là những o ép/bức bách khiến đôi bên, cả người trao tặng lẫn người nhận quà tặng, đều cảm kích.
Đúng ra, thập giá đây, là sự rất thật trên thực tế. Thực tế cuộc đời những cứng cỏi, sống sượng hoặc khó nuốt nhưng vẫn là khổ giá hình chữ thập, lại vẫn mang tính-chất rất tích-cực. Là con dân Đức Chúa, là những con người rất thật biết chấp-nhận mọi thách đố ở đời. Thách đố ấy, chính Chúa cũng gặp phải. Thách đố này, cũng là như thực-tại của thập giá cuộc đời, rất thập tự.
Còn nhớ, có lần bậc thày giảng dạy đã dẫn giải tư tưởng của thánh Phaolô xưa từng minh định về thập giá có ý nghĩa của cái-gọi-là “thứ đáng nguyền rủa” ở đời, như sau:

“Đức Giêsu từng bị treo lên cây gỗ có hình chữ thập. Lề luật Do thái ở kinh Torah, trong sách Đệ Nhị Luật cũng nói: những người bị treo lên cây gỗ, đều bị nguyền rủa/chúc dữ. Nguyền rủa vì nhiều sự. Chúc dữ vì Sách Luật. Nguyền rủa và chúc dữ do bởi Thiên Chúa của Sách và của Luật. Sự thật thì, có bị nguyền rủa/chúc dữ vì dư luận quần chúng, vì “lý lẽ rất chung của người bình thường thật đấy, nhưng được tôn kính.

Thế nhưng, hỏi rằng nguyền rủa/chúc dữ có nghĩa gì? Thì câu trả lời, sẽ là: họ sẽ đặt kẻ nhạo báng trên ta. Và có nghĩa là: chúng dân cứ kích bác, đẩy lùi ta ra khỏi hiện trường của sự sống rất hạnh phúc. Và, điều đó còn có nghĩa: khi ấy, ta sẽ bị tẩy chay, loại trừ hoặc trở thành cặn bã của cộng đoàn mà ta chung sống.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Phaolô, vị thánh của mọi thời, 2008, tr.83)

Nói cho cùng, thập giá cũng rất chung, hay những cực hình mình vẫn chịu ở đời thường, lại là những bất ưng, tranh chấp, hoặc lạy lục. Lạy và lục để có được nhiều chuyện, hệt như câu chuyện cảm nghiệm của người viết, lại những lời thêu thùa trong bài hát, như sau:        

Xưa thật là xưa nhớ mấy cho vừa nhớ mẹ kể đêm mưa
Có ông vua trẻ xuất binh qua rừng dẹp quân xâm lấn
Khi vua kéo quân về tình cờ gặp một giai nhân
Vua xao xuyến tâm hồn vời nàng về chốn hoàng cung
Truyền cho khắp nhân gian đem lụa là đến cho nàng
Trên ngôi cao chín từng hoàng hậu đẹp hơn ánh sao

Tôi không phải là vua nên nào biết đến xa hoa
Không ngọc ngà kiệu hoa không nệm gấm không cung son
Tôi chỉ là người lính phong trần, thấy hoa nhớ người yêu rất xa

Ngồi buồn ghi lại cảm nghiệm trong đời thường về những bất ưng, có bạn đạo nọi lại đã đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta quay về với thơ/văn của thánh hiền nhà Đạo, rày vẫn bảo:

“Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô
đem lại cho chúng ta một niềm an ủi,
nếu tình bác ái khích lệ chúng ta,
nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí,
nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau,
 thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn,
 là hãy có cùng một cảm nghĩ,
cùng một lòng mến,
cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau.
Đừng làm, chi vì ganh tị hay vì hư danh,
nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.
Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình,
nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.”
(Phil 2: 1-4)

Nghe thế rồi, thì hỡi bạn và hỡi tôi, ta lại sẽ cùng người nghệ sĩ, hát lên lời cuối của nhạc bản “Hoa Trinh Nữ” để thấy được, rằng: đời mình và đời người, còn có những đoá hoa lòng rất trinh trong vẫn cứ nở. Hoa trinh trong ấy, được nâng nhẹ, xếp trong tay, thật mê say, rằng: 

Nâng nhẹ một cây lá xếp trong tay lá ngủ thật mê say
Ngỡ đôi mi dầy khép đêm trăng đầy cài then cung ái
Tôi nghe thoáng qua hồn mình vừa thành một quân vương
Quân vương giữa hoa rừng lòng bàng hoàng nhớ người thương
Và mong ước mai sau khi tan giặc nước vua về
Cho giai nhân ngóng đợi chỉ một cành Trinh Nữ thôi.”
(Trần Thiện Thánh – bđd)

Nghe hát rồi, nay thử mời bạn mời tôi, ta nghe thêm truyện kể nhè nhẹ cũng về chuyện “nói năng” hoặc “viết lách” từng làm nhiều người bức bách hoặc “than phiền”, như sau:

“Tại cửa hàng sách, có bạn hang đến hỏi cố bán sách ngồi ở quầy thu tiền rằng:
- Côi ơi! Cho tôi hỏi sách "Gia đình hạnh phúc" nằm ở dãy nào vậy?
- Đây là sách thể loại hoang tưởng, nằm ở dãy số 1.
- Thế sách "Giữ trọn Đạo vợ chồng" thì sao?
- Dạ, ở dãy số 2, thể loại tiểu thuyết đấu đá.
- Vậy, sách "Cách quản lý tài chính để có thể mua nhà", thuộc loại gì thế?
- Để là sự tổng hợp chứng vọng tưởng, nằm trong thể loại sách tâm thần, dãy số 8.
- Thể còn "Làm thế nào để thăng chức"?
- Loại sách tội phạm hình sự này nằm dãy số 3.
- Cho tôi hỏi cô thêm câu nữa: các sách viết về chuyện phiếm đạo cô để ở đâu thế?
- Xin lỗi, tiệm sách chúng tôi không kinh doanh truyện cổ, xin ông đừng tìm vô ích!”...
(trích truyện kể gửi đăng trên mạng, năm 2012)

Thế đó, là lời giải về những chuyện lạ trong đời. Chí ít, là đời người đi Đạo vẫn có rất nhiều lạo xạo, nghe như truyện cổ: cổ điển lẫn cố tích, trích dịch cho mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng muốn đạo đạt
đôi điều tuy khó nói,
nhưng không khó kể.
Gửi nhiều người.