Saturday 21 January 2017

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”



Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 4 mùa Thường niên năm A 29/01/2017

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
em ngồi quay tơ
Quay đều..quay đều..quay đều..”
(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Lưu Trọng Lư – Vầng Trăng Sầu Rụng)

Trăng sầu nên trăng rụng, phải thế không anh? Và, khi trăng đã rụng rời hay rụng rồi, thì đâu còn sầu với đau nữa, phải vậy không em? “Năm năm bến cũ”, chắc em vẫn còn quay tơ hay quay cuồng một đời người, đấy chứ nhỉ? Quay cuồng cả một đời, vẫn là chuyện bạn và tôi nên lưu tâm/chú ý đến độ rụng rời cả mùa trăng, thôi!

Rụng thì rụng, nay mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm câu hát nữa, rồi sẽ tính. Nghe, thế này đây:

“Để tóc rối vần câu thơ sầu rụng,
mái tóc cũng buồn theo thơ.
Cũng buồn theo thơ.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Năm năm tiếng lụa se đều,
trong cây gió lạnh đưa vèo.
Hằng năm tiếng lụa đưa theo,
đêm đêm gió rét đưa vèo trong cây,
đưa vèo trong cây.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nhẹ tay nhè nhẹ đôi tay,
hương thơm lối xóm bay đầy thinh không,
bay đầy thinh không.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng.
Quay đều..quay đều..quay đều..
thời gian lặng rót một giòng buồn tênh.
một dòng buồn tênh.
Quay đều..quay đều..quay đều...”
(Phạm Duy – bđd)

“Thời-gian lặng rót một giòng buồn tênh”. Ôi thôi là buồn. Dù có bảo, đó chỉ là thơ và nhạc cùng những ý/từ của nhiều văn thơ/nhạc bản ở đời, khiến con người thêm “hỷ, nộ, ái, ố, ai hoan lạc” đủ bảy thứ tình. Duy, có một thứ tình-tự vẫn linh-tinh tạo nỗi “buồn đời người”, được một tác-giả khác đưa vào truyện kể, như sau:

Bà vợ trẻ lúc nào cũng áyy lo âu sợ chồng không yêu thương săn sóc, bà bị tư tưỡng tiêu cực lúc nào cũng ám ảnh đưa đến bệnh nặng phải vào viện. Tại bệnh viện sau nhiều xét nghiệm , bác sỉ cho chồng bà biết rằng: “ Ông ko tìm ra bất cứ triệu chứng bệnh gì!
Thể xác bà khỏe mạnh không có dấu hiệu bệnh nào cả “ Bệnh của bà thuộc loại tâm thần. Giữa 2 người đã nghĩ ra một cách bí mật. Họ mời một cô y tá rất trẻ đẹp săn sóc cho bà. Sau đó ông chồng thử ý bà vợ và nói rằng:
-Em yêu, em luôn trăn trối với anh rằng: - Để cho anh được hạnh phúc nếu không may mà em có mệnh hệ gì. Em à, anh đã suy nghĩ k, anh đã tìm được một người mà người đó s thay cho em được để làm cho anh hạnh phúc . Anh tin tưởng rằng cô y tá trẻ đẹp săn sóc cho em đó có thể trở thành người làm cho anh hạnh phúc.

Sau một thời gian ngắn ngủi thôi, phép lạ đã xy ra, vợ anh bình phục và đòi xuất viện ngay về nhà!
Chuyện “phép lạ xảy ra” cho bạn và cho tôi, vẫn là chuyện đời thường hoặc chuyện bên lề cuộc đời của mọi người. Thế nhưng, có một “sự-kiện lạ” ít xảy ra ở nhà Đạo, mà quan-viên các cấp cứ là hay thắc mắc/nghĩ-ngợi về chuyện “4 hồng-y giáo-chủ của Đạo đã tỏ ý bất đồng với Đức Giáo Tông về thông-điệp Amoris Laetitia” cách đây không lâu. Nay, Đức Thày John Flader ở Sydney đặt câu hỏi/đáp rất như sau:

“Thưa, hôm rồi có bài viết trên báo nói rằng: 4 hồng y nọ viết thư yêu-cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng tỏ những điều ngài viết trong thông-điệp Amoris Laetitia về hôn-nhân và gia-đình, khiến nhiều vị hết sức ngỡ ngàng. Xin hỏi, phải chăng đây là dấu hiệu khá khiếm-nhã đối với Đức Giáo-hoàng hoặc vẫn là chuyện bình thường trong Đạo?

Và, Đức thày Flader, đã trả lời như sau:

“Nhiều vị đã luận-bình về vấn-đề này, ở đây đó, nên tôi nghĩ: ta cũng nên làm sáng-tỏ sự-kiện vừa xảy ra để có một lập-trường chính-xác hơn.

4 hồng-y nói đây, lâu nay vẫn được mọi người trong Đạo kính-nể, đó là: Hồng y Walter Brandmũller, nguyên Chủ-tịch Uỷ-Ban Giáo-hoàng về Khoa-học Lịch-sử; Hồng y Raymond Burke, nguyên là niên-trưởng Toà Án Tối Cao của Vatican gọi là Signatura, Hồng y Carlo Caffara, Tổng Giám-Mực hồi-hưu của Bologna và Hồng y Joachim Meisner Tổng Giám-mục Cologne nay hưu-dưỡng. Trong buổi phỏng vấn trên mạng, dành cho cơ-quan có tên là Ban Hành-Động Công Giáo về Niềm Tin và Gia Đình hôm 14/11/2016, Hồng y Burke có giải-thích lý-do tại sao các hồng-y như ngài lại đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng-tỏ sự việc nói ở đây.

Hồng y Burke từng giải-thích rằng: khi có ai nghi-ngờ hoặc quan-ngại điều gì về một số vấn-đề niềm tin hoặc luân-lý; hoặc đặc-biệt hơn, về ý-nghĩa xác-đáng ở văn-bản nào đó trong các tài-liệu của Toà Thánh, thì thông thường là: các giám-mục, linh-mục hoặc ngay đến giáo-dân cũng nên yêu-cầu Đức Giáo Hoàng giải-thích cho rõ. Đây là mộng-ước bình-thường của giáo-dân thường-tình không theo cách “sách mé”, thiếu tôn-kính.

Thật ra thì, Đức Giáo Hoàng từng có những lời phát-biểu đưa ra, là để đáp trả những thắc-mắc tương-tự. Những năm về trước, các phát-biểu tương-tự đều từ các nhóm hội/ ban ngành hoặc đoàn-thể như: Uỷ-Ban Kinh-Thánh về ý-nghĩa các đoạn-văn trong thánh kinh, Uỷ-ban Giáo Hoàng về Văn-bản Luật-Pháp có trọng-trách giải-thích các điều-khoản của Giáo-luật và Thánh-bộ Tín-Lý Đức Tin cũng có trách-nhiệm về các vấn-đề về niềm tin của mọi người.

Hồng y Burke có nói: Thông-điệp Amoris Laetitia từng nêu lên một số thắc mắc và nghi-ngại có trong đầu các Giám mục, linh-mục và giáo-dân, mà một số những điều như thế từng đệ-đạt lên Đức Giáo Hoàng và được công-khai bàn-bạc. Trường-hợp nói ở đây, bốn hồng-y đã chính-thức trình-bày lên Đức Giáo-hoàng 5 câu hỏi nền-tảng hoặc còn gọi là mối nghi-ngại về tín-điều và luân-lý đặt nền-tảng trên việc đọc thông-điệp “Amoris Laetitia” như thế nào. Đức Hồng-y công-nhận rằng: ngay bên trong Giám-mục-đoàn cũng có nhiều vị bất-đồng với nhau về cách giải-thích chương 8 của thông điệp Amoris Laetitia và vì thế, các vị này mới cần đến Đấng Bản-quyền làm sáng-tỏ cách chính-thức. Nên, các ngài mới chính-thức gửi một bản sao bức thư đến Hồng Y Gerard Mũller, Bổ trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.

Nhiều ngày trôi qua mà không thấy có câu trả lời, các Hồng-y mới quyết-định để cho quần-chúng biết sự việc này để họ có thể bàn-luận với mọi tín-hữu Công-giáo, đặc-biệt là các Giám-mục. Các Hồng-y đây cũng đã sử-dụng từ-vựng chính-xác về thần-học qui-chiếu về các tài-liệu trước đó của Giáo-hội. Ta có thể tóm tắt như bên dưới:

Thứ nhất, có thể nào Giáo hội ta cho phép xá-giải bằng bí tích Hoà-giải và cho phép những người từng ly-dị và có gia-thất mới và đang có tương-quan hôn-phối với nhau được rước lễ chứ?

Thứ hai, là: có phải các điều-luật về luân-lý chặt-chẽ vẫn cấm-đoán các hành-động của sự ác ngấm-ngầm bên trong và đang ràng buộc mọi sự không biệt-lệ?

Thứ ba nữa, có thể nào khẳng-định rằng người nào đó vẫn có thói quen sống chống lại lại giới răn của Chúa, chẳng hạn như luật cấm ngoại tình, vẫn ở vào đối-tượng của tội trọng?                            

Thứ tư, phải chăng vẫn là trường-hợp cảnh-huống hoặc ý-định không bao giờ có thể thay-đổi một hành-động ngấm-ngầm tội-ác như việc “đối-đế” đã là đối-tượng của hành-động chủ-quan là tốt hoặc có thể biện-hộ được như một chọn lựa được?

Thứ năm, phải chăng vẫn là chuyện đúng bảo rằng lương-tâm không bao giờ cho phép có luật trừ để xá-giải các luật-lệ về luân-lý khiến cấm ngặt hành-động nào ngấm-ngầm là tội ác do có tác-dụng là đối-tượng của họ được chăng?

Các hồng-y nói trên cảm thấy rằng lời lẽ trong thông-điệp Amoris Laetitia đã bỏ qua những nguyên-tắc căn-bản của nền luân-lý Công-giáo vẫn dạy phải cởi mở đối với vấn-đề này; chính vì vậy, các ngài mới cần câu đáp trả của giới chức có thẩm-quyền. Không phải là Đức Giáo Hoàng đã công khai chối bỏ bất cứ nguyên-tắc nào trong đó nhưng là vì có một số các giám-mục và thần-học-gia đã giải-thích tài-liệu của ngài theo cách sao đó khiếm có người hiểu là ngài đề-xuất rằng những điều đó đã được mở rộng cho dư-luận thắc mắc.

Xin mọi người cầu nguyện để vấn-đề nêu trên được giải-quyết theo cách nào đó để rồi không còn ai tỏ ra thắc mắc điều gì nữa.” (X. Lm John Flader, What on earth is going on with the pope and those cardinals?, The Catholic Weekly Question Time, 11/12/2016 tr. 24)  

Chuyện giải-đáp thắc mắc cùng khiếu nại, bao giờ cũng không đơn giản khiến người thường ở huyện có thể hả hê, hiểu mọi chữ. Chuyện thế-gian hay đạo hạnh trong luồng đôi khi cũng không dễ hiểu hoặc dễ theo như các đấng bậc mình kỳ vọng.

Chuyện mình và chuyện mọi người sống ở đời, nhiều lúc sẽ dễ hiểu và dễ theo hơn, nếu được kể bằng truyện kể có đính kèm nhiều phẩm-bình khá xác đáng mỗi khi nói về hạnh-phúc của nhiều người, rất ở đời, như câu nói: “Hạnh phúc không nằm trong thành-tựu hay đổi đời, nó không nằm ở bên ngoài mà nằm trong sự xác tín của chúng ta.

Tựa như lời bàn về hạnh phúc của con người là thứ phúc hạnh giữa vợ và chồng, lại được quan-niệm một cách khác, như sau: https://ssl.gstatic.com/ui/v1/icons/mail/images/cleardot.gif

“Tình cảm lớn nhất của một người là tình cảm vợ chồng, và sự kết nối ý nghĩa nhất cũng chính là sợi dây kết nối giữa vợ và chồng.

Lòng khoan dung vô bờ bến nhất là lòng khoan dung mà vợ chồng dành cho chau; sự nhường nhịn ân cần nhất cũng là sự nhường nhịn giữa hai vợ chồng; và sự quan tâm không thể thiếu của một người cũng chính là sự quan tâm giữa vợ và chồng.

Người ta ví hôn nhân giống như một tách trà. Khi vợ chồng êm ấm thuận hòa thì tách trà mang vị ngọt, khi bền lòng vượt qua bão tố thì tách trà nồng đượm hương thơm…Ngay cả những tách trà đắng thì cuối cùng vẫn để lại vị ngọt trên môi. Khi vợ chồng cùng nắm tay bước đến cuối con đường, thì hết thảy những khổ đau trong đời đều tỏa ra hương vị!

Sau khi kết hôn, vì những điều vụn vặt trong cuộc sống mà vợ chồng không thể tránh khỏi ma sát hay va chạm. Khi chung sống lâu dài, người chồng có thể thấy vợ mình không còn xinh đẹp bằng những cô gái khác, còn người vợ cũng nhận ra rằng chồng mình không còn lịch lãm như xưa…
Cũng có một số người, khi đã có trong tay tiền tài và địa vị sẽ đi tìm cho mình một bến đỗ mới mẻ hơn. Nhưng bạn đã bao giờ nhìn lại? Vợ mình khi xưa cũng là cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng vì toàn tâm toàn ý với gia đình mới trở thành đóa hoa tàn úa?

- Là người chồng, đừng bao giờ hỏi dáng vẻ yểu điệu thục nữ của vợ mình đã đi đâu mất?... Xin hãy quay đầu nhìn về phía các con, bởi vì cô ấy giờ đây đã là mẹ của các con mình rồi.

- Là người chồng, cũng xin đừng bao giờ hỏi dung nhan xinh đẹp của vợ khi xưa đã đi đâu mất?... Là bởi vì cô ấy đã dốc sức chăm lo cho gia đình để bạn yên tâm gây dựng sự nghiệp lâu dài !
- Là người chồng, xin đừng trách vợ tại sao không thích đi dạo phố như xưa? Tại sao không thường xuyên mua quần áo đẹp như xưa?
- Cũng đừng trách cô ấy vì sao không được gọn gàng, chỉnh tề như thuở còn hò hẹn? ... Đó là bởi vì người vợ giờ đây đã là người phụ nữ toàn tâm toàn ý cho chồng, cho con, cho gia đình,  không còn thời gian cho bản thân nhiều như xưa nữa!

Một người vợ tốt luôn vì gia đình, vì người chồng mà cam tâm tình nguyện làm hết thảy, không cần báo đáp. Đó chẳng phải là vì người chồng chính là người mà cô ấy yêu nhất trên đời, là người cô ấy coi trọng nhất hay sao?

Người vợ, người chồng luôn là người mà đêm khuya nóng ruột chờ đợi khi bạn chưa trở về, là người không ghét bỏ và rời xa khi bạn nghèo khó, luôn lặng lẽ ở bên bạn, cổ vũ khích lệ bạn, hỗ trợ bạn cho đến khi công thành danh toại. Khi bạn sinh bệnh, họ sẽ là người thời thời khắc khắc ở bên để chăm sóc bạn không quản ngày đêm.

Đó chẳng phải đã đủ là ân nhân của nhau rồi sao?
Người vợ là con thuyền mang đến sự ấm áp cho chồng.
Người chồng là bến cảng mang đến sự bình an cho vợ.
Cho nên, bất kể một loại tình cảm nam nữ nào khác trên thế gian này đều không thể so sánh được với tình cảm giữa vợ và chồng!

Hãy luôn yêu thương và trân quý người vợ, người chồng của mình,
Hãy cho họ một khoảng không gian và thời gian, đừng xem nhẹ hết thảy những gì họ đã làm cho bạn!
Yêu thương là phải trân quý, đừng để đến khi mất đi mới nhận ra những điều tốt đẹp của họ, lúc ấy hối hận cũng đã muộn màng!

Thế đó, là lời lẽ cùng ý-niệm của người đời về chuyện đời, thật rõ nét. Thế nhưng, nhà Đạo mình nói thế nào về những chuyện như thế ấy? Trả lời cho câu hỏi này, thật không phải là chuyện đơn giản.

Thông thường thì, người người đều giải-quyết các khó-khăn/khúc mắc trong đời của mình và của người bằng những lý-luận hoặc lời giảng-giải này khác. Hôm nay đây, tôi mời bạn và cả tôi nữa, ta nghe câu truyện kể cũnt rất nhẹ, để xem sao. May ra cũng vui được một vài giây phút, dù chẳng giải-quyết được chuyện gì trong đời người và đời mình.

Truyện kể, đôi khi cũng là những giòng chữ nghe giống như truyện người khác từng kể cho mình, nhưng mình lại không tin. Truyện ấy nó nhẹ đến thế này đây:

“Truyện rằng:

Chiều đi làm về, trời nóng, anh tạt vào quán ngay gần công ty làm cốc café, chờ lát cho vãn người rồi về cho đỡ đông. Nhìn người ta chen chúc nhau mồ hôi nhễ nhại cũng ngán, lè lưỡi lắc đầu. Thế nên là thôi, nghỉ, làm hớp đã, đang khát! 
-Chú ơi đánh giầy không chú? 
-ưmmm… Anh vừa cúi ngậm uống hút vừa lắc đầu. 
-Rẻ mà chú, con chỉ xin cái bánh mỳ ăn cho đỡ đói thôi… 
-Giầy chú sắp cho vào bảo tàng đến nơi rồi, thử hỏi người khác xem nhé!
Anh cười nhìn nó, nó xị mặt nhìn anh, buông thõng 2 vai có vẻ mệt mỏi rồi thất thểu đi ra mé cửa ngồi. 
Mụ chủ quán ngồi ngay đó cất giọng chua ngoa: 
- Đi chỗ khác kiếm ăn đi 2 cái thằng kia! Chúng mày ngồi đó án ngữ thì ai dám vào hàng nhà tao nữa. Hãm vừa chứ!!!
Đúng là cái miệng xinh không đồng nghĩa với những lời nói đẹp. Nó hắt hủi thân phận của đồng loại. Anh với tay lấy chùm chìa khoá trên bàn gọi thanh toán, mình cũng đếch thèm ngồi ở cái quán này lần nào nữa luôn. Hãm!!!
Lao xe theo hướng 2 đứa nhỏ đi để tìm mà mãi không thấy. Quái! vừa thấy ở đây xong ngoắt cái đã không thấy đâu, bọn này nó bay đi chắc?? Anh tự hỏi. 
-Chú ơi… 
Anh giật mình, quay lại thấy thằng bé con đang ngồi sát ngay sau vách tường lúc nãy chìa tay ra.
-Sao lại ngồi đây? Anh cháu đâu? 
-Anh đi kiếm đồ ăn rồi, chú ơi …đói…!!!
Tội nghiệp, thằng bé còm nhom, chắc chỉ tầm 3-4 tuổi, bằng đứa cháu con ông anh trai anh là cùng. Đáng lẽ ra bây giờ nó phải đang được chăm sóc ăn uống đầy đủ, được đi mẫu giáo, có bố và có mẹ bên cạnh như bao đứa trẻ khác. Thế mà…
Anh lần túi quần ra được hơn 30k đưa cho nó: 
-Này cháu, cầm bảo anh đi mua đồ ăn cho nhé! 
-KHÔNG!!!
Chưa kịp đưa đến tay thằng bé thì thằng anh từ đâu chạy lại giật tay thằng em vào. 
-Con cám ơn chú nhưng anh em con không dám nhận đâu ạ. Bọn con đâu phải ăn xin. Chú có lòng tốt thì để con đánh giầy cho chú. Giọng nó có vẻ dứt khoát.
-Thế mày định để cho em nó đói chết à thằng kia?
Nó cúi gằm mặt xuống không nói gì. Thằng em thì cứ cầm lấy tay anh giật giật. Anh bước gần đến ấn tiền vào tay thì nó lại hẩy ra, xong quay ra ôm lấy thằng bé. 
-Thôi được rồi, Âyz, thế qua quán nước mía kia ngồi, chú trả công đánh giầy và mời 2 thằng nước mía. Được chưa?
Nó lí nhí: 
-Vâng, thế thì được ạ.
Vừa đặt cốc nước mía xuống bàn 2 đứa nó hút 1 mạch hết sạch, còn toàn đá. Anh quay qua chị bán nước giơ 2 ngón tay ý ra hiệu thêm 2 cốc nữa, chị hiểu ý ngay, gật lia lịa.
Đợi 2 cốc nước nữa đến, anh bắt chuyện. 
-Uống từ từ thôi không lạnh cổ, về đau họng đấy. Ngon không? 
-Dạ. Ngon ạ! Thằng bé con mút chùn chụt rồi quay sang anh. 
-Nước mía ngon quá anh hai, thế mà hôm trước anh bảo đắng lắm!
Nó cười hề hề rồi xoa đầu em. Thấy cốc thằng em đã gần hết, nó lấy cốc của mình đổ sang cho em.
-Ơ, anh hai không uống à? 
-Không, anh không thích uống nước mía. Em uống nốt đi.
Nó nhìn xuống chân anh. 
-Giầy chú bẩn quá rồi, con đánh giầy cho chú nha. 
-Ok! Hy vọng nó còn đánh được. Không cần sạch quá đâu.
Anh vừa tụt đôi giầy vừa xỏ đôi dép tổ ong nó đưa. Mặt nó đen nhẻm, nhưng nhìn kỹ khá sáng sủa.
- Cháu bao tuổi? 
-Tám chú ạ. 
-Tám?
-Dạ
-Quá nhỏ! 
Nó cười trừ - Con lớn rồi mà. 
-Mà sao cháu cứ xưng con với chú thế? Chú đâu quen cháu nhỉ. 
-Mẹ con bảo ra đường gặp người lớn phải xưng con hết, phải lễ phép với người lớn tuổi, mình không có gì thì cũng không để người ta coi thường được. Xưng con để thấy con người gần gũi nhau hơn chú ạ.
Anh tay chống cằm thở dài. Mình còn cố chấp hơn 1 đứa con nít. 
-Thế mẹ cháu... à con đâu? nhà ở đâu? 
-Mẹ con mất rồi ạ, gần 2 năm nay rồi. Nhà con ở đằng kia, nhưng bị phá rồi chú ơi. Người ta giải toả rồi, giờ tụi con ngủ ở sau chợ. 
-Thế bố? bố đâu? 
-Con không có bố. Lúc sinh ra đến giờ con chỉ biết có mẹ thôi. Con không được đến trường, mẹ dạy con viết, dạy con làm toán, cái gì mẹ cũng dạy con hết.
Nó vừa nói, 1 tay luồn vào trong giầy, 1 tay quệt xi thoăn thoắt, mặt trùng xuống. Anh cũng thôi, chẳng hỏi thêm nữa, quá khứ của mẹ nó chắc nó cũng chẳng biết đâu mà hỏi làm gì, nhưng trong đầu anh thì hiện lên cả đống giả thiết: nào là mẹ nó bị gã nào lừa xong không chịu cưới, bị nhà chồng hắt hủi hay cũng có thể người nhà ruồng bỏ… Nhưng có điều, anh chắc chắn đó là một bà mẹ tốt. Cứ nhìn cách thằng bé ăn nói và đối xử với người khác thì biết, hẳn nó phải bị ảnh hưởng rất nhiều từ mẹ. Anh bế thằng bé con lên cho ngồi lên đùi, nó cười, nụ cười như chưa từng được một lần như thế. Nó còn bé quá, còn chưa biết gì đang ở phía trước đợi chờ nó.
-Con định tích góp tiền để bữa nào nó lớn cho nó đến trường chú ạ, con không muốn nó giống như con. Nhưng mà sao giờ người ta khó quá, trước 1 ngày con đánh được hai chục đôi mà giờ chỉ được năm, sáu… Hôm mưa thì có khi chẳng đôi nào. Không có cái cho nó ăn nên nó còm nhom chú ạ.
-Âyzzz…Mà sao nhìn 2 đứa chả giống nhau nhỉ? 
-Dạ, con nhặt được nó ở góc chợ, nó khóc to lắm, con không biết ai để nó ở đấy nữa. 
-Sao không đem nó trả lại, con có nuôi nổi nó đâu. 
-Biết người ta ở đâu mà trả hở chú? Người ta đâu có thương nó, bỏ nó giữa chợ thế kia còn gì. Ít ra con còn có chỗ ngủ, kiếm được cái ăn cho nó. Nó chẳng có gì.
-Xong rồi chú. Có mấy chỗ con chà mãi không sạch. 
-Ừ, nó nát rồi thì sạch sao được, thế này là tốt lắm rồi, chú cảm ơn. Hết bao nhiêu chú gửi tiền
nào?
-
Dạ,7 ngàn chú. Nhưng thôi ạ, chú cho anh em con uống nước mía coi như hoà rồi ạ. 
-Hoà là hoà thế nào, nước mía là chú mời bọn mày. Đây, ví chú còn có ngần này, cầm lấy đưa em đi ăn cơm đi. Tối rồi. 
-Sao nhiều thế chú, con không dám cầm đâu. Mẹ con mắng đấy! 
-Sao con bảo mẹ con mất rồi? Không được nói dối nha, xấu lắm đấy. 
-Con không nói dối, mẹ con vẫn ở đây mà.
Nói rồi nó thò tay vào túi áo lôi ra cái ảnh be bé đen trắng có hình người phụ nữ tóc dài, đôi mắt buồn nhìn rất hiền. Lần đầu tiên anh thấy những tia nắng vàng cuối ngày nó nặng trĩu trên khoé mắt đến thế…
Anh xoa đầu nó:
-Cầm lấy, coi như chú đặt trước cả tháng, mai lại đánh giầy cho chú nhé.
Nó lưỡng lự một hồi, cuối cùng cũng chịu cầm rồi lí nhí: 
-Thế mai con sẽ đánh giầy cho chú nữa. Con cám ơn chú! 
-Ừ…
Thằng anh cầm tay thằng em lũng cũng đi theo. 
-Bữa nào kiếm được tiền mình đi uống nước mía nữa nha anh hai, ngon lắm!!!

Anh nghe mà chẳng nhấc chân được lên. Giá mà ngay lúc này chú có thể làm được điều gì đó tốt hơn cho 2 đứa. Cảm ơn con, hôm nay là ngày may mắn của chú, con đã chỉ lại cho chú một con đường mà chú dường như đang mất dần niềm tin vào cái xã hội này. Chú vẫn tin là có điều kỳ diệu trên thế giới này, và con là một ví dụ. Cố gắng lên nhé! Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.” (Theo benh.vn (st))

Vâng. Các truyện kể nhè nhẹ ở trên chỉ để phiếm cho vui, chứ không có ý thuyết-phục một ai ở huyện nhà, hết. Và, có kể truyện cũng chỉ để nhắc nhở người đọc cũng như bạn và tôi, rằng thì là: đời mình còn rất nhiều chuyện để kể và để nghe, cho quên buồn. Chứ không để giảng hoặc dạy bất cứ ai trong đời, mỗi thế thôi.

Nghĩ thế rồi, nay ta hãy ngâm nga đôi câu ca ở trên để rồi cứ thế mà “quay đều” cuộc đời mình, cho rồi!

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ quay tròn
cuộc đời mình
cũng rất đều.

Saturday 14 January 2017

“Mưa rơi hiu hắt, ai sầu mùa đông.”



Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 3 mùa Thường niên năm A 22/01/2017

“Mưa rơi hiu hắt, ai sầu mùa đông.”
Không gian u ám sương mờ, mờ buông.
Xa trong đêm vắng chuông buồn, buồn ngân.
Mùa đông xưa rét mướt, bến sông, ngừng chân.”
(Nhạc: Lâm Tuyền/Thơ: Dạ Chung – Tiếng Thời Gian)

(Thánh vịnh 78: 72)

“Tiếng thời gian”, mà sao nghe cứ như “mưa rơi hiu hắt, ai sầu mùa đông”? Mùa đông đời người, nghe chừng như “rét mướt, bến sông, ngừng chân”. Ôi thôi. Cả thơ lẫn nhạc, làm người nghe đến ư là buồn, như câu chuyện buồn đời người con ngài nay trở thành,”cụ già ăn mày”, thời xưa cũ, rất như sau:

Bà ngồi co ro bên này đường, chờ cho cửa hàng phía đối diện tắt điện, đóng sập cánh cửa sắt nặng nề xuống mới chống tay vào gối đứng dậy, khó nhọc bước qua đường. Cánh cửa này có mái hiên rộng, chủ nhà dễ tính, lỡ bà có ngủ quên dậy muộn thì người ta cũng chỉ nhẹ nhàng gọi bà dậy, kêu bà đi chỗ khác để mở hàng chứ không quát mắng xối xả, đốt vía như những chỗ khác. Vậy nên, mấy tháng nay rồi, dù đi xin ở xa hay gần, bà đều trở về dưới mái hiên này để tá túc.

Ngồi xuống mái hiên bà bắt đầu thở dốc. Chẳng hiểu sao mấy hôm nay bà thấy cơ thể mệt mỏi, rệu rã quá. Cũng chẳng trách được. Bà đã ngoài tám mươi. Nhiều người ở tuổi này có khi đã nằm liệt một chỗ, con cái phải hầu hạ, phục dịch. Bà còn lê la khắp các phố để xin ăn được coi như trời còn thương mà cho sức khỏe. Đôi khi bà nằm nghĩ ngẩn ngơ, có khi trời thương bà, biết bà có ốm nằm liệt giường liệt chiếu thì cũng chẳng có ai ngó ngàng tới nên ban cho bà sức khỏe.

Nhưng mà bà cũng mệt lắm rồi. Cơn tức ngực kéo đến làm bà khó thở. Bà lôi trong mấy cái bao cũ mấy tờ báo cùng vài tấm bìa cát tông làm gối, quay mặt vào phía cánh cửa. Ác thay trời lại lất phất mưa. Bà khó nhọc ngồi dậy, lôi ra cái áo mưa cũ quấn quanh người. Mưa làm chân tay bà tê nhức. Bà không ngủ được. Bà lần tìm trong nải một tấm ảnh cũ, ngồi khom khom quay lưng lại phía đường để nước mưa không tạt được vào tấm ảnh. Bà nhìn tấm ảnh, lẩm bẩm như trò chuyện với một người bạn.

– May mà ông ốm một trận rồi đi luôn. Đi nhẹ nhàng thanh thản chứ không cũng lại phải lê lết ngoài đường giống tôi. Mà chân ông yếu thế, đi làm sao được.

Bà đưa bàn tay vuốt vuốt khuôn mặt trong tấm ảnh. Giọng đã bắt đầu nghẹn nước:
– Mà ông có thương tôi, sao không cho tôi đi cùng ông với ông ơi…
Mưa bắt đầu nặng hạt. Bà quấn tấm áo mưa chặt vào cơ thể, dí sát người vào cánh của mái hiên. Tiếng mưa tạt vào tấm áo mưa lộp… bộp… lộp… bộp nghe lạnh buốt và tê tái.

Bà cũng đã từng có một mái nhà. Một mái nhà bình dị đơn sơ nhưng ấm áp, hạnh phúc. Nghĩ đến căn nhà cũ bà nén tiếng thở dài tức nghẹt trong lồng ngực. Cất tấm ảnh vào sâu trong đáy, ôm vào lòng, khép chặt tấm áo mưa cho khỏi ướt, bà quay người lại đối diện với màn mưa. Đôi mắt già nua ướt nhoèn, mờ mịt những hồi ức cũ.

Ông bà cưới nhau được chục năm mới sinh được đứa con gái, nên yêu chiều nó lắm. Hôm bà sinh con ở trạm xá, ông mừng tới nỗi ôm con khóc tu tu như một đứa trẻ, trước bao cặp mắt lạ lùng của mọi người.

Ông chăm con từng li từng tí, theo dõi từng ngày lớn lên của con. Đi học, những hôm mưa gió. Ông cõng nó trên lưng. Nó lớn lên một chút, ông tằn tiện mua cho con cái xe đạp mi ni.Máy chục năm trời, ông không dám mua một cái áo mới, ai cho gì mặc nấy để khi nó vừa thành thiếu nữ, ông dành dụm đủ để xây một căn nhà ngói nhỏ ba gian. Ông bảo bà:
– Nó là con gái, ở nhà lụp sụp quá, bạn bè đến chơi, nó mặc cảm.

Mưa càng lúc càng nặng hạt hơn. Trong mưa, bà thấy khuôn mặt ông bừng sáng hạnh phúc. Bà không thể nhầm được. Đó là khuôn mặt ông trong đám cưới con gái. Nhà rể ở ngay xóm trên. Lúc lấy con gái bà, nó hãy còn là một chàng trai mới lớn, hiền lành, chân chất và khỏe mạnh. Đám cưới con gái, khuôn mặt ông rạng rỡ mà mắt lại rưng rưng. Ông nói, con gái đi lấy chồng, ông mừng lắm.

Nhưng ông cũng buồn vì phải xa con. Vẫn biết nó lớn thì phải rời xa vòng tay ông, phải lấy chồng mà sao ông vẫn thấy hụt hẫng. Bà cười bảo ông chưa già đã lẩn thẩn. Nó lấy chồng ngay xóm trên, cách có độ mươi phút đi bộ, mà ông cứ như thể gả con gái đi lấy chồng ở tận đẩu tận đâu. Ông cũng cười bảo, không biết tại sao ông lại yếu mềm hơn cả bà.

Cơn ho kéo đến như muốn xé toang lồng ngực. Bà chống tay vào cửa, ho rũ rượi rồi đưa tay đấm nhẹ vào ngực. Cơn ho dứt, bà thở dốc. Lúc bà ngước lên, bóng ông trong mưa đã biến mất. Bà lẩm bẩm:
– Cũng may là ông đi trước khi mở đường qua nhà. Chứ không thì…
Ông ốm một trận rồi đi. Nhẹ nhàng như không còn vương vấn điều gì trên cõi đời này nữa. Bà thui thủi một mình. Thấy thế, đứa con gái bàn với bà:
– Nhà chồng con tới ba anh em trai, chật chội lắm. Hay u cho bọn con về đây ở, cũng là để sớm hôm đỡ đần u…

Bà mừng rỡ đồng ý ngay. Ăn nhiều chứ ở hết bao nhiêu. Bà già rồi, thui thủi một mình cũng cô quạnh. Bà cũng muốn được quay quần với con cháu. Bà chỉ có mỗi đứa con gái, được sống cùng vợ chồng con cái nó thì còn gì bằng. Có gì, chúng nó chăm sóc bà, bà lại đỡ đần vợ chồng nó chuyện cơm nước, con cái. Chúng nó ở với bà, chắc nơi chin suối ông cũng mát mẻ, thanh thản.

Bà chỉ có mỗi một đứa con gái. Bà không bù trì, vun đắp cho nó thì để cho ai. Bà chết đi cũng có mang theo được đâu. Vậy mà đứa con gái bà mang nặng đẻ đau, lại bàn mưu cùng chồng đẩy bà ra đường.

Bà già rồi, chỉ quanh quẩn ở nhà cơm nước và chăm mấy đứa cháu, có biết gì đến chyện đất cát mà hàng xóm xì xào bàn tán đâu. Con gái và con rể thì thụt những gì, bà cũng chẳng biết. Chỉ thấy một buổi nhập nhoạng tối, đứa con gái chìa trước mặt bà tờ giấy:

U kí vào đây đi. Chỗ cuối tờ giấy này để xác nhận diện tích đất nhà mình. Ít nữa họ xây đường qua đây họ còn đến bù u ạ.

Bà nghe ờ ờ, cạc cạc. Mắt kém, lại tin tưởng con, cộng với việc bà ngại mấy thứ liên quan đến giấy tờ, nên ký luôn mà không đọc lại. Mãi đến khi người ta đến lấy nhà, chồng cho vợ chồng con gái bà một đống tiền, số tiền mà cả đời hai ông bà chưa cũng chưa từng nhìn thấy, thì bà mới biết chúng nó lừa bà ký giấy để bán nhà. Nhưng nước mắt chảy xuôi, bà nghĩ cái nhà đấy cuối cùng cũng để cho chúng nó, đất đang sốt, chúng nó bán cũng là hợp lý.

Hai vợ chồng đứa con gái mua một miếng đất ở trong xóm, xây một căn nhà hai tầng khang trang. Nhưng rồi từ lúc có tiền, tính tình thằng con rể bắt đầu thay đổi. Nó ham mê rượu chè, bồ bịch. Lúc đầu bà còn ngại “rể khách” nên nói nhẹ nhàng, bóng gió, sau dần những lời đồn thổi càng nhiều, vợ chồng nó suốt ngày đánh chửi nhau, bà góp ý thẳng thắn với con rể.

Nó không nghe, một lần uống rượu say còn đánh bà gãy tay, bị đưa lên xã phạt tiền. Sau vụ đó, nó càng hằm hè với bà hơn. Vợ nó- con gái bà cũng vào hùa với chồng, trách móc bà làm vợ chồng nó mất tiền, làm nhà nó xấu mặt với hàng xóm. Những lời bóng gió xa xôi về việc bà ở nhờ tăng dần. Những bữa cơm chúng nó cố tình ăn trước, không gọi bà ngày một nhiều. Tủi thân, bà quyết định gửi ông lên chùa, rồi bỏ làng đi lang thang trong một đêm mưa gió, bắt đầu những ngày vất vưởng xin ăn.

Bà xách theo một cái bị nhỏ, một tấm áo mưa và tấm ảnh của ông. Hàng ngày bà lê la khắp các phố xin ăn. Tối đến lại về cái mái hiên này ngủ nhờ. Bà cứ trông ngóng, mòn mỏi hi vọng sự ra đi của bà, sẽ khiến vợ chồng đứa con gái hối hận, mà nghĩ lại đi tìm bà. Nhưng một năm, hai năm rồi năm năm lê la khắp phố xá rồi, mà chưa một lần bà nghe phong thanh gì về tin tức chúng đi tìm bà. Cũng có lần, bà lén về làng, đứng trước cửa nhà vợ chồng nó, thấy hai đứa nó vẫn vui vẻ, không một chút áy náy, bà lại lặng lẽ ra đi.

Mưa như trút nước. Bà cảm thấy cơ thể rệu rã, không còn chút sức lực nào nữa. Bóng ông lại hiện ra trong mưa, mỉm cười hiền hòa nhìn bà. Ông đưa tay về phía bà. Bà biết thời khắc này cuối cùng cũng đến. Bà cố chút sức lực cuối cùng, lê người về phía khoảng giữa mái hiên bà trú với căn nhà bên cạnh. Nhà người ta là nhà làm ăn tử tế, bà không muốn chết trước cửa hàng, không muốn cái chết của mình phiền hà đến họ.

Ông bước đến gần bà, cúi xuống. Bà run run đưa cánh tay lên. Thanh thản, nhẹ nhàng, bà theo ông. Mọi oán hận, trách móc của cuộc đời bà bỏ lại phía sau, nơi kiếp người trên dương thế.

Sáng sớm, người ta phát hiện xác một cụ già nằm ở khoảng trống giữa hai căn nhà. Bà chết trong một tấm áo mưa trùm kín người. Nhưng trên môi còn phảng phất một nụ cười.” (trích truyện kể do bạn bè gửi qua email tháng 12/2016)

Chuyện buồn “hiu hắt” của cụ bà ăn xin ở ngoài đời, lại kéo theo những gợi nhớ về các “chuyện-buồn-nhưng-không-cười” ở nhà Đạo được Đức Giáo-Tông nhắn nhủ với bà con thiên-hạ, vào hôm ấy, như sau:

“Trong buổi hội tại Toà thánh, Đức Phanxicô có nói với các Hồng y, Giám mục và chuyên-gia ơn gọi rằng: “Anh em hãy nghĩ lại về công-tác mục-vụ Ơn gọi, để việc ấy không đơn-thuần là chương-trình mục-vụ rất quan-liêu.

Công-việc của anh em cần phải “ra bên ngoài” mà lắng tai nghe mọi người. Ơn gọi của bản thân tôi đây không là kết-quả của một triết-thuyết hay ho gì, mà là rút tư kinh-nghiệm về tầm nhìn của Lòng Chúa Xót Thương đối với tôi mà thôi.

Muốn được thế, Giáo hội ta phải chấm dứt không còn tinh-giản Đạo mình thành công-thức về luật-lệ, và hang giáo-sĩ chúng ta phải phá vỡ vòng đai khép kín của thế giới mình.

Thật đáng buồn, khi các linh-mục chỉ sống cho riêng mình, và khép kín trong ốc-đảo hoặc pháo-đài an-ninh của giáo-xứ, phòng thánh hoặc với những người trung-thành với mình, mà thôi. Ngược lại, chúng ta được kêu gọi làm mục-tử đối với dân chúng, là biết chăn-nuôi, chăm sóc và dành thời-gian mà đón tiếp và lắng tai nghe tất cả mọi người nói với mình, nhất là giới trẻ. Thế-giới hôm nay đang cần nhiều mục-tử trưởng-thành và quân-bình.

Với các Giám-mục, xin các vị thận-trọng khi cân-nhắc các ứng-viên hội đủ chức-năng trở-thành linh-mục tốt. Cần biết nhận-định sự thật, có tầm nhìn sắc bén và cẩn trọng và khôn-ngoan. Cần tập-trung vào chất-lượng của mục-tử hơn là số-lượng. Chủng-viện cần thiết-lập việc đào-tạco linh-mục cho nghiêm-ngặt….”

Còn nhớ, khi xưa đấng thánh-hiền nói về việc Đức Chúa tuyển chọn mục-tử làm việc cho Ngài, theo gương lành của Đavít, rất như sau:

Chúa chọn Đavít, người tôi trung,
cất nhắc ông, thuở còn là mục tử,
cho vời đến, lúc đang giữ bầy chiên,
để chăn dắt dân Ngài là Giacóp,
và Israel sản nghiệp của Ngài.
Ông chăn dắt họ với một lòng liêm chính,
tay dẫn đưa khéo léo tài tình.”
(Thánh vịnh 78: 72)

Với nhà Đạo, sự việc cũng đáng buồn như thế. Với âm nhạc và thơ văn ngoài đời, lời lẽ của các nghệ sĩ lại sẽ khác, những hát rằng:

Chờ ai trong tê tái, lắng nghe, chuông than.
Thời gian trôi tan tác, mang theo, ngày xuân
Mưa đêm nay khóc thầm,
Cuộc đời đầm ấm đã theo thời gian.

Ngoài kia gió sương mờ.
Lìa cây lá giang hồ.
Về đâu! Về đâu!
Ngày xuân thoát đi dần,
lòng ta tái tê sầụ
Người cười nhưng ta vẫn khóc thầm.
Đời chim bạt gió
Kìa ai thoáng mơ hồ
Ngừng chân dưới mưa dầm.
Nhìn lầu nguy nga ước mơ thầm.
Bao nhiêu xuân qua, lòng không tình yêu.”
(Lâm Tuyền/Dạ Chung – bđd)

Thơ hay nhạc, cũng chỉ là những vần-điệu để người nghe nhớ về tâm tình của nhạc bản là “Tiếng thời gian”, thôi. Tiếng đây, không là âm-thanh não-nề hoặc ê-chề về một nỗi. Mà, chỉ nói lên tiếng/giọng buồn về tình đời, có “Mưa rơi hiu hắt, ai sần mùa Đông” mà thôi.   

“Mưa rơi hiu hắt, ai sầu mùa đông.
Không gian u ám sương mờ, mờ buông.
Xa trong đêm vắng chuông buồn, buồn ngân.
Mùa đông mưa rét mướt, bến sông, ngừng chân.
Chờ ai trong tê tái, lắng nghe, chuông than,
Thời gian trôi tan tác, mang theo, ngày xuân.
Mưa đêm nay khóc thầm,
Cuộc đời đầm ấm đã theo thời gian.
(Lâm Tuyền/Dạ Chung – bđd)

Thật ra thì, nghệ-sĩ xưa nay có làm thơ hay viết nhạc, cũng chỉ để “phóng ngoại” tâm tình tư-riêng của chính mình cho người khác biết. Phóng ngoại hay nhận-định, còn là lập-trường sống với con người và môi-trường luôn có vấn-đề để giải-quyết. Vấn-đề của con người và môi-trường hôm nay, là chuyện cần giải-quyết ngay tức khắc, để còn sống vui với mọi người, trong cuộc đời.

Thật ra thì, sống như thế là sống có thời-gian, trong không-gian rộng/hẹp cùng mọi người cho ra sống. Sống cho ra sống, là sống hùng sống mạnh, sống hiên-ngang làm con cái Chúa theo lẽ phải như Ngài từng dạy dỗ, qua Kinh Sách.  

Sống hùng/sống mạnh là sống hiên-ngang không có gì phải sợ mất. Không sợ mất thứ gì, nên cũng chẳng cần lo. Sống hùng/sống mạnh như những người nghèo ở huyện nhà chứ không còn bon chen, giành giựt hoặc đấu tranh để được trội hơn người, về mọi thứ.

Sống hùng/sống mạnh ngày hôm nay, còn là sống sao cho lương-tâm của chính mình không chê-trách, “mắng vốn” chứ không phải để cha/cố doạ nạt, bắt đi “xưng tội” cho đúng phép. Sống hùng/sống mạnh, còn là sống đúng phép, không sợ tội, vì luôn biết rằng có Thiên-Chúa cùng sống với mình và trong mình, như mọi người.

Sống đúng phép, không là sống đúng luật-lệ của Giáo-hội có 6 điều “răn” cũ/mới như vẫn ê-a đọc hàng tuần ở nhà thờ. Sống đúng phép, là sống mà tin tưởng rằng: dù buồn chán như ai đó, vẫn tin-tưởng rằng: Đức Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi ta, trái lại vẫn ở đó, gần sát bên ta, cùng sống với ta như người nhà trong cùng thời-gian và không-gian tuy buồn bã, vô-nghĩa hoặc chóng qua.

Sống đúng phép, còn là sống mà tin tưởng có Chúa luôn ở với và ở cùng mình, cho dù gian-nan, chán nản bủa khắp chốn. Có sống như thế, mới nhớ ra rằng: ta luôn có Chúa đồng-hành và/hoặc tháp-tùng cả vào lúc ta nghi-ngờ Ngài bỏ rơi hoặc ruổi đuổi vì bê-tha, bệ rạc hay sau đó.
Sống đúng phép, sẽ không còn sợ gì những “Tiếng Thời Gian” mà nghệ sĩ hôm trước, vẫn cứ than bằng câu hát, rất buồn sau đây:

“Mưa rơi hiu hắt, ai sầu mùa đông.”
Không gian u ám sương mờ, mờ buông.
Xa trong đêm vắng chuông buồn, buồn ngân.
Mùa đông xưa rét mướt, bến sông, ngừng chân.”
(Lâm Tuyền/Dạ Chung – Bđd)

Hát thế để rồi, ta sẽ cùng người kể thêm câu truyện vui ở dưới cho vui đời, mỗi khi buồn như sau:

“Hai bà sồn sồn nọ quen nhau đã lâu, nhưng vẫn chưa “trút bầu tâm sự” để kể cho nhau nghe chuyện đời thực-tế trong ăn uống. Bởi, cứ sự thường, thì ăn và uống là một trong những duyên-do cớ sự làm cho con người buồn vui, suốt cuộc đời. Nghĩ thế rồi, bà nọ bèn nói với bà kia, một chân lý để đời rằng:
-Chị biết hôông? Mỗi lần muốn ăn ngon, chị biết em làm gì không?
-Làm gì để được thế, nói cho nghe coi nào?
-Đơn giản lắm, mỗi lần muốn ăn ngon là em nấu nồi riêu cua toàn tôm khô giã với trứng!
-Như vậy chị là tay đầu bếp số một rồi còn gì. Chả thế mà, chồng chị thích lắm đấy nhỉ?
-Không dám đâu! Khi thấy em sắp sửa dọn món ấy ra là ỗng biểu: “Em thay đồ đi! Hôm nay vợ chồng mình ra nhà hang đánh chén cho thoả thích…

Có thể là, câu truyện kể không hẳn là như thế. Nhưng, nhận định của người mới đáng kể ở chỗ khi nói rằng: “ăn và uống là một trong những duyên-do và cớ sự làm cho con người buồn/vui suốt cuộc đời!...” Vậy thì, mỗi khi thấy ai buồn buồn hay sao đó, bạn và tôi, ta hãy bắt chước chị nọ lại đem món riêu cua ra mà trình làng, để rồi, để rồi… sẽ thấy hết buồn. Không tin? Hãy cứ thử xem sao.

Trần Ngọc Mười Hai
Chưa bao giờ thử như thế
Nhưng vẫn muốn quên đi
Hết chuyện buồn
Trong đời.