Tuesday 27 August 2019

“Nằm nghe xôn xao tiếng đời”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 22 thường niên năm C 01/9/2019

“Nằm nghe xôn xao tiếng đời”
“Mà ngỡ ai đó nói cười
Bỗng nhớ cánh buồm xưa ấy
Giờ đây cũng bỏ ta đi.”
(Phú Quang – Nỗi Nhớ Mùa Đông)
(Col 3: 5-7)
Đông mùa một nỗi nhớ, cũng da diết suốt đời người. Da diết đến độ, nay người người lại cứ ngỡ rằng ai đó nói cười như người xưa cũ bỏ ta đi. Người đi rồi, khiến ta về nghe chuông chiều xa vắng nỗi niềm mùa thu buồn như cánh buồm xưa, lại viết tiếp:

“Chút lá thu vàng đã rụng
Chiều nay cũng bỏ ta đi.
Làm sao về được mùa Đông
Dòng sông đôi bờ cát trắng
Làm sao về được mùa Đông
Để nghe chuông chiều xa vắng
Thôi đành ru lòng mình vậy
Vờ như mùa đông đã về
Làm sao về được mùa Đông
Dòng sông đôi bờ cát trắng
Làm sao về được mùa Đông
Mùa thu cây cầu đã gãy
Thôi đành ru lòng mình vậy
Vờ như mùa Đông đã về.
(Phú Quang – Nỗi Nhớ Mùa Đông)

Vâng. Da diết buồn hơn cả, là nỗi nhớ mùa Đông lạnh. Buồn nhất, là khi ta và người lại nghe nhà văn “di tản” Trần Mộng Tú viết về cái-gọi-là “Tranh tĩnh vật”, nhưng không tĩnh, như sau:

Ngày 13 tháng 6 của năm 1975, Chị và bố mẹ rời trại Pendleton theo người bảo trợ cũng là người bạn trong giới truyền thông Mỹ từ hồi còn ở Việt Nam, đến thành phố Encino, California. Khi chị rời trại ngày thứ sáu 13, mấy người bạn cùng lều bảo chẳng nên ra trại vào ngày này, không tốt đâu. Nhưng người bảo trợ nói, chị có cha mẹ già, không nên ở lâu trong trại, ban đêm lạnh, không tốt cho sức khỏe hai cụ. Cá nhân chị thì chẳng còn tin vào may rủi gì nữa. Cả một cái tháng tư năm nay, ngày nào không là ngày xấu đối với cả triệu người dân miền Nam.

Tạm trú nhà bạn được hai tuần, chị tìm được việc làm ngay, nhờ vợ bạn là người Nhật, giới thiệu chị đến phỏng vấn trong một ngân hàng Nhật. Có lẽ thứ sáu,13 lại là ngày may của chị (đành phải tin vào vận may vậy) nên chị được chọn vào làm Bank Teller, là một, trong ba người cùng tới xin việc hôm đó.

Chị rời nhà bảo trợ ở Encino, thuê được căn chúng cư, một phòng ngủ, có sẵn đồ đạc ở cách nơi chị làm có ba ngã tư, ngân hàng Mitsui Bank trong World Trade Center, Los Angeles.

Mỗi ngày, chị đi bộ đến sở làm. Tính từ ngày rời Việt Nam 21 tháng 4, tới Mỹ chưa được hơn hai tháng, không có xe, bằng lái xe cũng chưa có, đi bộ là giải pháp đúng và hay nhất.

Dọn mấy cái bao quần áo của ba người vào nhà, rồi mới bắt đầu đi mua những dụng cụ nhà bếp ở Garage Sale, Goodwill; chăn gối ở K-mart. Căn chúng cư có hai phòng. Một phòng ngủ duy nhất nhường cho ba mẹ, một phòng nữa vừa là phòng khách, phòng ăn liền với bếp. Chiếc sofa dài kê sát ở góc tường, ban ngày là nơi tiếp khách (nếu có khách), ban đêm là giường ngủ của chị. Lúc đó còn trẻ, dễ ngủ, lại biết cái thân phận di tản nên tự cho thế là may mắn lắm rồi.
Nơi cư ngụ tạm yên ổn, chỗ làm tốt, công việc một phát ngân viên trong ngân hàng chỉ cần cẩn thận và nghe chỉ dẫn của xếp. Với số lương $520 Mỹ kim một tháng, chị coi như mình đã may mắn hội nhập nhanh hơn một số người thân.

Một buổi tối cuối tuần, chị dọp dẹp nhà cửa, nhìn lên tường thấy trống quá, chị tự nhủ, sáng mai sau khi đi nhà thờ, mình nên đi tìm mua một tấm tranh treo trên tường. Chưa biết là loại tranh nào, nhưng ít ra cũng phải làm cho bức tường ở giữa phòng ấm áp một chút chứ.

Chị đi loanh quanh Garage Sale, Goodwill, và mấy cái tiệm tàng tàng rẻ tiền, chẳng tìm ra bức tranh nào ưng ý. Mấy cái tranh in phong cảnh bãi biển, hay thành phố, hoa lá, trông tất cả đều vô hồn làm sao! Chị cứ cầm lên, bỏ xuống, cuối cùng về tay không. Chị đi hai ba lần cuối tuần như thế, cũng chẳng được bức nào thích mà vừa túi tiền. Túi tiền của chị lúc đó hạn chế lắm. Cuối cùng chị quyết định. Tại sao mình không tự vẽ một bức tranh nhỉ? Ở Việt Nam chị có vào trường Mỹ Thuật Gia Định học vẽ một thời gian mà.

Chị đi làm, hỏi đồng nghiệp mua dụng cụ vẽ ở đâu? Và chị chọn vẽ mầu nước thay vì sơn dầu cho rẻ hơn.Vẽ chì than trông buồn lắm, mà không phải họa sĩ thứ thiệt dễ trông thấy cái vụng. Chị thuộc loại “Họa sĩ vụng”. Cuối cùng chị mua giấy và một số mầu nước về. Chị bắt đầu vẽ một bức tranh tĩnh vật:

Chị không ngờ bức tranh “Tĩnh vật” chị bắt đầu năm 1975, chị tiếp tục vẽ đến bây giờ, bức tranh vẫn dở dang. Chắc nó không bao giờ hoàn thành.

Khi chị dựng cái giá vẽ lên, chị phân vân không biết nên bắt đầu vẽ cái gì vào đó. Quả táo, ổ bánh mì, chai rượu, bình hoa là những thứ họa sĩ hay cho vào tranh tĩnh vật. Với chị, những thứ ấy chẳng nói lên được cái gì thuộc về đời sống của chị.

Chị nghĩ mình nên vẽ vào đây những gì mình đem theo ở quê nhà, nhờ bức tranh giữ cho chị. Kẻo thời gian và đời sống của một người di tản rất dễ làm mất đi những gì thuộc về quá khứ. Làm sao chị biết cuộc đời sẽ thổi chị đi tới đâu nữa, sau khi cơn giông bão hãi hùng đó đã cuốn chị trôi xa ngàn vạn dặm.

Trong cái túi di tản, khi hấp tấp ra đi, chị mang theo chẳng nhiều gì, nhưng chị cũng phải lựa ra. Cái túi đó có: Một chiếc áo dài nội hóa, một cây son môi, cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm,ba bộ quần áo thay đổi hàng ngày và ba trăm Mỹ kim (vẫn để dành, chưa tiêu đến đồng nào) ít đồng bạc Việt Nam còn sót lại.

Năm 1975 chị vẽ vào trong tranh: Cây son màu Terra Cotta (màu hồng đất). Chị nhớ cây son này anh ấy mua cho chị vào một ngày gần Tết, trong Passage Eden, lúc đó hai người mới đính hôn. Chị đã mặc chiếc áo dài màu cam nhạt, thoa son màu hồng đất cùng anh đi chúc Tết, đi chơi với bạn hữu của hai gia đình. Chị nhớ lại, mỗi lần nhìn màu son trên môi, chị thấy nó đẹp như mối tình của hai người: cái màu hồng của cánh hoa pha mầu nâu của đất, thật nhẹ nhàng nhưng sao vẫn nồng nàn quá đỗi.

Chị vẽ thêm cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm và vạt áo dài mầu cam nhạt. Bức tranh treo trên tường năm đó, nền trắng với một vệt son môi nằm bên hai cuốn sách màu nâu nhàn nhạt, có vạt áo dài màu cam ngọt ngào vắt ngang.

Thời gian trôi như mộng, chảy một giòng sông đời. (*) Năm này sang tháng khác. Chị làm lại đời mình. Sinh con, nuôi con, chăm nom cha mẹ già, rồi cha mẹ mất đi.

Chị vẽ thêm hai cây thập giá vào bức tranh tĩnh vật. Đời sống quanh chị với bao nhiêu là tiếng động. Có những tiếng kêu vang vọng đến từ quê nhà xa ngút ngàn. Có tiếng kêu âm ỉ trong lồng ngực chị. Chị không biết vẽ tiếng động như thế nào, chị vẩy vào tranh những giọt mầu đỏ, những giọt màu tím than.

Con cái dọn ra khỏi nhà như chim vỗ cánh ra giàng. Rồi con gái chị thành người mẹ, con trai chị thành người cha. Soi gương thấy mình tóc trắng. Chị vẽ vào bức tranh tĩnh vật một dòng sông màu lục và những sợi tóc màu xám tro.

Bức tranh theo chị từ thành phố này qua thành phố khác, từ ngôi nhà này sang ngôi nhà kia. Mỗi nơi chị thêm vào một chút, lá cờ quốc gia trong tranh của chị cũng đứng im như gió đứng. Mỗi lần nhìn vào, chị như muốn mang hết hơi của mình thổi vào nó, cho nó tung bay. Lá cờ không nhúc nhích, nước mắt chị lại trào ra.

Bức tranh im lặng, nhưng vùng biển quê hương chị thì sóng đang gào, những tiếng gào trong họng biển, chị vụng về không diễn tả nổi. Chị quẹt trong tranh một mảng xanh đen loang lổ, đến bất tận.

Chị muốn vẽ về người dân Việt ở quê nhà, nhưng trí tưởng tượng của chị nghèo nàn quá, chị không biết dùng mảng màu nào để vẽ xuống những thăng trầm, những nghịch lý, những tương phản đang diễn ra nơi đó. Chị vẽ xuống một vòng tròn không màu.

Bức tranh toàn những mảng màu câm.
Tết âm lịch lại về, tháng 4 rồi lại đến.

Bốn mươi năm bức tranh tĩnh vật vẫn chưa hoàn thành. Chị nhìn bức tranh treo trên tường tự hỏi: Khi nào mình sẽ ở trong bức tranh này? Chị cầm chiếc cọ loay hoay không biết, nếu vẽ, thì mình đặt mình vào đâu? Ở trên cùng bức tranh nhìn xuống, hay ở dưới bức tranh nhìn lên. Mình sẽ đứng trên một ngọn đồi đầy gió ở quê người hay mình sẽ ngồi bên một bãi biển, sóng êm, gió lặng ở quê nhà, hay mình sẽ im lìm như cây thập giá cạnh mẹ cha.

Bức tranh tĩnh vật không trả lời chị. Chị nhìn con số 1975 trên góc bức tranh. Chị ngửi thấy thoang thoảng trong không gian mùi hương trên bàn thờ của ngày 30 tết.

Chao ôi, đã bốn mươi năm rồi. Chị đứng lên đi mở tất cả cánh cửa trong nhà cho gió lùa vào. Ước gì gió thổi tất cả những gì chị vẽ trong tranh bay đi, bay đi. Ước gì gió đưa chị về lại nơi chốn thân yêu của bốn mươi năm ngày xưa đó, và mọi sự ở nơi đó vẫn đứng lại như trong một bức tranh tĩnh vật, đợi chị về.

Em ước tuổi mình như pháo đỏ
Người quên chưa đốt lúc xuân về (*).
(Trần Mộng Tú, Bức Tranh Tĩnh Vật, gửi đến bạn bè khắp nơi trên mạng)

Bức “Tranh Tĩnh Vật” của “nhà văn di tản” họ Trần vẫn quanh quẩn trong đầu tôi, và của một số người, vẫn là chút gì đó nhắc nhở bà con mình, về nhiều thứ. Cả những thứ, mà bần đạo bầy tôi đây bắt gặp ở nhà Đạo Sydney, nơi đó có giòng chảy tư-tưởng khá tương-tự như khi nhà Đạo bàn về Kinh Sách rất như sau:

Giả như Sách thánh bảo điều này sai, điều kia quấy, hẳn điều ấy sẽ như vậy ư?” Mọi xúc cảm, tóm gọn trong hàng ngàn cách khác-biệt, phải chăng chúng phản-ánh từ động-thái ‘dè bỉu’ vốn bảo rằng: tôi đây đe-dọa chức-năng thực-tế mà quí vị đang đặt nền-tảng trên đó để sống ư? Thành thử, điều này chuyện nọ là việc quan-trọng với tôi để kích-hoạt Kinh Sách cách đặc-thù, do có tranh-luận nổi trội về tình-dục.

Kinh Sách, biểu-trưng cách mù-mờ về quyền-bính do lịch-sử vẫn phủ-trùm lên đó nhiều phương-cách ma-mãnh, bí-ẩn, khá thích-thú. Nhiều đấng bậc, lại cố tình trích-dịch Kinh Sách theo cách nào đó nhằm hỗ-trợ ý-kiến riêng của mình, rồi cho đó là điều đích-đáng, hoành-tráng, xứng-hợp. Với một số vị, thì cuộc tranh-luận nay khép lại khi các ngài biện-luận bảo rằng: Kinh Thánh đang ở về phía mình.

Giáo hội lâu nay biết rõ điều này, nên đã tự trói mình bằng văn-bản này nọ rút từ Kinh Sách hầu chứng-minh sự thật còn đó rất buồn. Đa phần sự thật này, đều có ảnh-hưởng do tự các nhà giảng-thuyết hùng-hồn độ trước cũng như các vị chủ-giảng trên mạng vi-tính có từ sức mạnh của Kinh Sách đến với ta.

Từ khẳng định như thế, các ngài lại nghĩ: Kinh Sách ghi chép Lời Chúa một cách không sai-lạc nhằm đáp-trả các vấn-nạn do con người mà ra. Xem thế thì, Lời Chúa mang tính định-hình trọn-vẹn về mọi chuyện, nên không dễ đổi-thay hoặc chấp-nhận ảnh-hưởng từ tình tạng tồn-đọng đang khỏa-lấp dư-luận là nơi mà các ngài từng dựa-dẫm.

Kinh Sách, lâu nay bị văn-chương-hóa cũng khá nhiều, nên mới tuyên bố mình không sai-lạc, rất ổn-định và không suy xuyển đối với những người chống lại đổi-thay, sai quấy. Động-thái này, tạo thoải mái/ổn-định cũng khá lâu. Đây, mới chỉ là phân nửa của sự thật về Kinh Sách, thôi; bởi lẽ, quyền-uy/sức mạnh của Kinh Sách là những thứ được các đấng quyết đấu tranh nhằm thay-đổi đôi ba chuyện. Thế nên, các ngài vẫn coi đó như đồng-minh đứng về phía mình, thật cũng dễ.

Hầu hết mọi đối đầu đầy kịch-tính về các vấn-đề chính trong lịch sử của trời Tây, Kinh Sách đạy được cả hai phía xung-đột đưa ra bằng chứng khác-biệt hầu xác-định là mình đúng. Qua tháng ngày trải dài trong lịch sử, Kinh Sách được sử-dụng một cách mức tối đa hầu xác-minh tư-thế chính-trị vượt mọi sự và coi đó như uy-lực thần-thiêng của vua quan thời nổi trội. Tuy thế, Kinh Sách được sử-dụng như một thứ vũ-khí đầy ma-lực nằm trong tay đấng bậc chủ-trương kình chống vua quan, như cuộc nổi dậy của Oliver Cromwell lâu nay xác-chứng.

Hai vị tổng thống Hoa Kỳ thời trước là Abraham Lincoln và Jefferson Davis đều dựa vào Kinh Sách để hỗ-trợ cho hành-xử mà các ông đề ra với dân da màu, hầu ban-phát cho những người ấy quyền-lực đạo đức của người cùng phe/nhóm trong cuộc nội-chiến đẫm máu ở Hoa Kỳ.

Chính vì thế, mới xảy ra chuyện không làm ai ngạc nhiên khi có đổi thay trong hành-xử dục tình tạo sự tiến-triển, ai cũng rõ. Chính vì thế, mà hai phe bảo-thủ và phóng-khoáng đều dùng Kinh Sách để trích-dẫn điều có lợi cho mình trong xung-đột vừa kể.

Tuy thế, thời đại ta đang sống là thời của quyền-uy thế-tục vẫn tăng nhanh, vững mạnh; thế nên tranh-luận đây cho thấy nhiều khác-biệt cần ghi tạc. Trước nhất, là những gì chứng tỏ Giáo hội không còn nắm toàn quyền trên dân con mọi người như trước nữa. Điều này còn có nghĩa: tầng lớp phóng-khoáng trong Giáo hội, nay trở thành mỏng dòn hơn xưa rất nhiều.

Các vị, nay thất-vọng khi nghĩ đến chuyện cải-tổ Giáo-hội. Thế nên, các ngài phải lẳng-lặng rời bỏ hàng ngũ trong đạo một cách lớp lang, tổ-chức. Đa phần luận-điệu biện-minh cho luân-thường đạo-lý thời nay có ý bảo rằng: các vị từng rời sân bãi cách đích-đáng, để rồi không ai còn muốn dính-dự chuyện đạo-hạnh như trước.

Các đấng, nay trở-thành công-dân thị-thành ở ngoài đời. Các ngài, thường xuyên bị chức-sắc trong Đạo báng-bổ về tình-dục, tức: không còn dính-dấp chuyện thực-tế; hoặc, chẳng hề biết là: ngày nay, phụ-nữ không còn được định-vị theo cách ‘rập khuôn’ như khi trước.

Các vị, nay không còn bị Giáo-hội hoặc đấng-bậc lãnh-đạo Hội-thánh vùi dập đến “hết thuốc chữa”, nên đã buông bỏ chuyện kiểm-soát sinh đẻ, hoặc tận-tình khích-bác không coi chuyện phá thai như chọn-lựa phương-cách này/khác cho đúng phép. Cả những việc khiến các ngài không còn cảm thấy ấn-tượng khi đấng bậc nhà Đạo lại cứ giảng theo kiểu trích-dịch Kinh Sách một cách loáng-thoáng, rồi còn nhắc người nghe về giá-trị cổ xưa theo kiểu nuối tiếc giá-trị “truyền-thống” của gia-đình.

Với các vị, gia đình gồm có mỗi người cha siêng-năng, cộng thêm người mẹ suốt ngày quanh quẩn dưới bếp và hai ‘xấp’ nhỏ cùng chú chó con mũm mĩm, dễ dạy. Những chuyện như thế, nay không là sự-kiện xảy ra trong thực-tế, nữa. Nói chung, đa số đấng bậc nay học-hỏi cách sống không cần Giáo-hội như quyền-uy bề thế ở đời mình nữa.

Rõ ràng, các vị nay không còn muốn bị quấy rầy về tầm nhìn thiên-kiến về đạo-giáo, vẫn cứ ‘mù tịt’ cả về giáo lý nữa. Nay, Giáo hội không còn quyền gì với thế-giới bên ngoài và đây là chuyện cũng mới, khá thời thượng.                                                      

Mặt khác, giới bảo-thủ trong thể-chế tốt lành ở đây, đã nhận ra rằng: thế-giới trần-tục trở-thành sân bãi cho ác-thần/sự dữ tha hồ tung-hoành, điều đó thấy rõ như ban ngày. Mọi người nhận ra rằng: tất cả đang gặp thử-thách về luân lý cũng rất nhiều. Thêm vào đó, là mức-độ kình-chống đến cao độ khiến các vị phải ‘bỏ của chạy lấy người’ mang theo trong mình niềm ưu-tư, bất ổn. Động thái mà các vị đang đeo mang cũng tùy-thuộc nhu-cầu do mình đòi-hỏi khiến chúng trở-thành sự-kiện vững chãi, đúng thực.

Các thay đổi nơi tình-dục đang xảy ra, lại cũng đe-dọa ảnh-hưởng của nhà Đạo từng gây hại cho quyền-uy/sức mạnh của Giáo hội. Các lãnh-đạo Giáo-hội, giống các lãnh-tụ thuộc nhiều thể-chế khác, bị đe-dọa cũng đã hăng say tìm cách chỉnh-sửa mọi vỡ đổ trong địa hạt mình. Ngay đến lãnh-đạo có học trong Giáo-hội, là những đấng bậc không muốn định-vị mình có dính đến học-thuyết căn-để, nếu mọi mục-tiêu/mục-đích mà các ngài nhắm đến, được thực-thi ở trong ấy.

Ví dụ như, Giám mục nọ không muốn bén mảng đến gần bên tôi, là bởi vì những bài tôi viết có chỗ bảo rằng: các Giám mục thuộc khối Êpiscôpan Hoa kỳ, nhiều vị lại đại-diện cho loại thần-học và giáo-sĩ-học thuộc nhiều Giáo-hội khác-biệt, như: Giáo hội đặc-sủng, Anh-giáo, Giáo-hội thông-thoáng hoặc bảo-thủ, Giáo hội Công-giáo và Tin Lành. Hệ-cấp Giáo hội Tin Lành lại đã khiến ông ấy nổi giận. Bởi, ông từng viết là: ông không biết Giáo-hội Tin Lành đã có mặt trong Hiệp-hội các Giám mục Anh Giáo hay không.

Ở đoạn khác, vị ấy lại tin là Phúc Âm thánh Mátthêu và thánh Luca đều mang tính sử-học khi hai thánh-sử này dám viết và dám kể về thời ấu thơ của Đức Giêsu. Và vị ấy còn nói: “Nếu Chúa quyết-định sinh ra từ người mẹ đồng-trinh sạch sẽ, thì đối với ông, điều đó cũng chẳng thành vần-đề”. Bởi thế nên, khi tôi bảo rằng: ông có quan-điểm triệt-để đến độ không một học-giả nổi tiếng nào về Kinh thánh dám hỗ-trợ ông, cả Giáo-hội Công giáo cũng như Thệ Phản đều thế hết; từ đó, ông đã bốc đến độ không giữ im lặng được.

Thành ra, chủ-đề tranh-luận đây, đã trở nên nặng-nề hơn. Nặng, đến độ nó ít tương-tác/hỗ-trợ khi có sự việc ‘gậy ông đập lưng ông’ nơi vùng sâu ngăn cách này. Ngoại trừ hai bên lập cầu giao-tiếp đặt mình lên trên mọi cố-gắng đang ngày một mở rộng, còn thì ta chẳng làm sao có được cuộc đối-thoại cho phải phép, đành lòng chấp-nhận để cho xã-hội ngoài đời hoặc thể-chế Giáo-hội lên án mạnh mẽ, rất rối bời.                

Theo tôi, chỉ còn một cách duy-nhất khiến ta có thể khởi-công xây-dựng cầu giao tiếp này, là: cứ để toàn thế giới nghe được tiếng giọng của các Kitô-hữu có ý-tưởng khác-biệt về nhiều qui-tắc lâu nay ta đặt ra và nghiêm-túc chấp-nhận thế-giới hiện-tại như xã-hội ở đời từng làm. Và, theo luật-định, các vị sẽ không bị thải-hồi như nhóm vô thần, vì quyền-lợi tôn-giáo của mình, lại đã nghiêng về hành-động. Giai-đoạn này, tôi cứ mải bận tâm ưu-tư về việc ta phải bắt đầu xây cầu nối này cho tốt đẹp, mỗi thế thôi.” (X. Gm John Shelby Spong, Đầm Mình Trong Vũng Tội ư? nxb HarperSanFrancisco 1990 Chương 6 tr. 90-91)

Trích dẫn thần-học ở đây, chỉ để bà con ta tìm về gốc nguồn của tư-tưởng thông-thoáng, cũng khá lạ về nhiều thứ. Cả những thứ rất tình và rất dục, tức tình-dục xuất-hiện nơi người thời đại rất hôm nay.

Trích và dẫn như thế, là để anh em mình suy tư khá nhiều giờ, rồi ra có ngày mình cũng mở mắt thấy được ‘trời trong mây nước’, tuyệt nhiên không ảm đạm nhuốm màu đen đủi như dạo nào. Trích và dẫn những tư-tưởng đậm-đặc về nhóm người mang trong mình thứ tình-dục và tính-dục không theo kiểu của các cụ “Đạo” thời xưa cổ, nhưng cởi mở thoải mái và thông-thoáng hơn bao giờ hết.

Bây giờ và mãi mãi về sau, ta còn nhiều suy-tư thú vị hơn, để bạn và tôi, ta sẽ cùng nhau đi vào vùng trời truyện kể tìm cốt truyện độc-đáo mà minh-họa cho chất-lượng Đạo mình. Truyện kể độc, là truyện rất kể lể như bên dưới:

“Có bà vợ nọ rất khổ sở vì ông chồng cứ nghiện rượu. Một hôm, ông ấy bỗng dưng lăn đùng ra chết đúng vào ngày phong thánh Đức Giáo Hoàng Gioan 23 & Gioan Phaolô Đệ Nhị.  Bà vợ vội đi gặp cha chánh xứ nhà mình. Vừa trông thấy bà, cha xứ liền hỏi. 
-Chắc bà lại bị thằng cha say rượu đó đánh đập phải không đây?
Bà ta đáp: 
-Thưa, chồng con không còn uống rượu hay đánh con nữa rồi. 
Cha xứ ngạc nhiên hỏi:
-Làm sao ông ấy lại có thay đổi lớn lao như thế được trừ phi có phép lạ xảy ra!
Bà lễ phép đáp lại: 
-Thư Cha, đúng là có phép lạ xảy đến với con! Vì thế con xin cha làm thủ-tục phong thánh cho chồng con. 
Cha xứ bảo: 
-Muốn được phong thánh bất cứ ai, Giáo hội cần có phép lạ thứ 2 nữa đấy! 
Không cần suy nghĩ cụ Bà nọ liền đáp: 
-Dạ thưa cha, đã có phép lạ thứ 2 của chồng con rồi. Số là, sau khi chồng con chết, quán nhậu đầu xóm mất đi nguồi lợi lớn nên đã đóng cửa mất rồi cha ạ!
Cha xứ:
-Thật hết biết!!!
(Chuyện cười trích từ trên mạng để vui thôi)
 
Kể thế rồi, nay ta đi vào Lời vàng Đấng thánh-hiền từng căn dặn:

“Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là
gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam;
mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng.
Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
giáng xuống trên những kẻ không vâng phục.” (Col 3: 5-7)

Mong rằng những lời khuyên như thế sẽ theo ta và mọi người đến hết cuộc đời để rồi người người sẽ sống tốt đẹp hầu thoát khỏi “cơn thịnh-nộ của Chúa”, như được dặn.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng nhớ lại đôi điều được căn dặn   
Mãi trong đời.

Monday 19 August 2019

“Người yêu ơi! Trong giấc mộng từng đêm thơm nồng”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 21 thường niên năm C 25/8/2019

“Người yêu ơi!
Trong giấc mộng từng đêm thơm nồng”
Này người yêu ơi! Bên gối mộng nệm chăn êm ấm
Người ở cõi nhớ hay ở cõi đời
Người ở lối đó hay giữa đất trời
Người yêu ơi! Người yêu ơi! Người yêu ơi!”
(Phạm Duy & Song Ngọc – Người Yêu Ơi)

(2Corinthô 7: 9-10)

Người yêu ơi! Trong khói nhẹ buổi sáng sương mù
Này người yêu ơi! Như lá rời cùng tia nắng quái
Người còn có đó hay đã mất người
Người ở chốn cũ hay đã xa vời
Người yêu ơi! Người yêu ơi! Người yêu ơi!
Giơ tay ôm người, mà như ôm cả cuộc đời
Ôm trong tay rồi, tràn đầy mà như chới với
Thành hư không như đôi tay hồng
Tìm không gian nhưng không cho bằng
Thời gian lôi ta đi lang thang khắp lối
Người yêu ơi! Trong gió thổi làm xanh cây rừng
Này người yêu ơi! Trong cát bụi làm vui phố vắng
Người về dĩ vãng mù tăm kỷ niệm
Người về tương lai hạnh phúc với chồng
Người yêu ơi! Người yêu ơi! Người yêu ơi!”
            (Phạm Duy & Song Ngọc – bđd)

Người về tương lai hạnh phúc với chồng,” phải chăng đây là lời nhắn nhủ gửi đến ai đó? Phải chăng đây cũng là nhận-định của tác-giả khi hát câu “Người về dĩ vãng mù tăm kỷ niệm”?

Về “Tương lai hạnh phúc với chồng” thì bần đạo đây chẳng dám phát biểu điều gì cho nên chuyện. Chỉ dám bàn và luận về “thực tại” của tôi, của bạn và của nhiều người như lời nhận định rất “đề huề” như sau:

“Thuốc trường-thọ rẻ nhất thế giời không ngờ lại nằm ở hai chữ ‘bận rộn’. Từ xưa đến nay, khi nói đến trường-thọ, mọi người đều cho rằng nó phụ-thuộc yếu-tố di-truyền và phương-thức sinh-hoạt của mỗi người. Nhưng thuốc trường-thọ rẻ tiền nhất trên thế-giới lại đơn-giản một cách rất không ngờ, nó nằm ở hai chữ “bận rộn”, thôi. (Trích lời bàn do bạn bè tải lên mạng vi-tính, rất thường-tình).

Thế đó, là nhận-định cũng khá lạ ở đây đó, chốn thân quen bầu bạn thường đấu láo với góp giọng. Tuy nhiên, ở nhà Đạo, người đọc báo vừa lục tìm và khám phá ra tư-tưởng cũng rất lạ. Lạ, ở chỗ: người chủ trì mọi nhận định trên báo Đạo ở Sydney là Lm John Flader nay bàn rộng thêm về cái-gọi-là “Sự mâu thuẫn về giới tính”, qua mục hỏi/đáp rất như sau:

Hỏi, là hỏi thế này:

Thưa Cha, con đọc trên báo, thấy bà con ta đã qui-chiếu nhiều về tài-liệu nọ do Tòa thánh phổ-biến có đả động đến học-thuyết về giới-tính nam/nữ. Gọi là đọc, nhưng con vẫn không hiểu người viết bài này muốn nói lên điều gì. Nay, qua lá thư con gửi đến cha đây một thắc mắc về chuyện ở trên, xin cha giúp con hiểu thêm cho rõ. Con cảm ơn Cha rất nhiều.” (Câu hỏi của một độc giả không ghi tên).

Và, đấng bậc nhà Đạo lại vẫn nhân cơ-hội có người hỏi han bèn giải-mã thắc mắc trên báo, bằng một thư giải-đáp khá gọn gàng như sau:

“Tài-liệu mà anh/chị vừa trích-dẫn, có nhan-đề bảo rằng: Cả nam-nhân lẫn nữ-phụ, đều được Ngài tạo-dựng theo đường-lối đối-thoại về học-thuyết có liên-quan đến giới-tính trong giáo-dục. Đây là tài-liệu giảng-dạy do Thánh-bộ Huấn-giáo của Tòa Thánh La Mã ban hành ngày 21/2/2019 vừa qua.

Đây là nhận-định do Đức Phanxicô gửi đến mọi dân con mọi người bàn về lời mời gọi tất cả hãy suy-tư về vấn-đề này ngõ hầu hướng-dẫn và hỗ-trợ những ai đang làm công-tác giảng-dạy giới trẻ. Đây là đóng góp đúng thời-điểm bởi lẽ học-thuyết về giới tính đã như cơn bão làm lay chuyển thế-giới trên đường xâm nhập các trường học ở xứ này.     

Nay hỏi rằng hoc-thuyết giới tính ở đây là học-thuyết nào thế vậy?

Đoạn trích về tông-thư của Đức Phanxicô hôm trước đã khích-lệ mọi người, có tên là: Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương) ban hành năm 2016. Hoc-thuyết giới-tính chối bỏ sự khác biệt và nhân-nhượng tự bản-chất giữa nam-nhân và nữ-giới và tìm hiểu một xã-hội không có khác-biệt nào về tính-dục, từ đó loại-bỏ nền-tảng nhân-chủng của gia-đình.

Đức Phanxicô tiếp-tục tiến về phía trước mà bảo rằng: ý-thức-hệ này dẫn đưa mọi người đi vào các chương trình giảng-dạy cũng như các sắc luật ban hành nhẳm cổ võ nhân-dạng và sự thân-tình đầy cảm-xúc bị tách-bạch triệt-để khỏi sự khác-biệt sinh-lý giữa nam-nhân và nữ-phụ.  Kết cuộc là, chính-danh con người trở-thành sự chọn-lựa của cá-thể vốn dĩ cũng đổi-thay năm này qua tháng khác.” (Tông thư Niềm Vui Yêu Thương đoạn 56).

Phần đầu tài-liệu nói ở đây được kết-cấu trên căn-bản gồm ba nguyên-tắc dẫn đường đi vào tâm não, đó là: lắng nghe, lý-luận và đề-nghị. Hôm nay, trong cột báo này, tôi sẽ đề-cập đến phần mục của tài-liệu nói ở đây, và lần tới sẽ lại nói đến những điều còn sót lại cộng thêm một vài nhấn mạnh về các ý-tưởng chủ-chốt.

Nguyên-tắc thứ nhất, điều cần có trong đối thoại với bất cứ một ai, là: biết lắng nghe. Ở đây, ta thấy người đề nghị học-thuyết về giới tính chủ trương rằng con người có thể tự quyết-định hoặc tự chọn giới tính cho mình độc lập với giới tính về sinh lý và chọn lựa này lại là chất lỏng lẻo, có thể thay đổi với thời-gian.

Rõ ràng là, quan-điểm này trái nghịch với thực-tế về sinh-lý và với bản chất hôn-nhân giữa nam-nhân và nữ-giới qua đó con cái sinh ra và đi vào với thế-giới.

Dù sao đi nữa, ta có thể đồng-thuận bảo rằng không ai được phép kỳ-thị cách bất chính đối với những người chủ-trương học thuyết về giới-tính hoặc những người tự do chọn thay đổi giới tính của họ.

Chỉ-trích học thuyết về giới-tính, tài-liệu này ghi chú bảo rằng học thuyết đây đặt nền-tảng trên quan-điểm lưỡng nguyên về bản thể người, với chủ trương thân xác hoàn toàn tách rời khỏi linh hồn và có chí-khí trở nên tuyệt-đối cũng như có khả năng điều-khiển thân-xác theo sở thích.

Đây là điều đi ngược lại thực-tại trong đó, nếu ta dùng lời lẽ của Công đồng Vatican 2 quả quyết rằng: dù được tác-tạo với thân-xác và linh-hồn, con người vẫn là một.” (Hiến chế GS đoạn 14)

Chuyện này, theo đó, lại dẫn đến thuyết tương đối, theo đó người chủ trương học thuyết này cho rằng tất cả mọi sự đều có giá-trị đồng đều, bất kể trật tự hoặc mục tiêu đích thực.

Nền-tảng gia-đình, thành-lập từ một nam và một nữ kết-hợp với nhau trong hôn-nhân sinh con đẻ cái, sẽ không còn ý-nghĩa gì nữa. Và, nguyên-tắc thứ hai lập-luận như thế.

Lý-do họ cho thấy rằng sự khác-biệt về giới tính giữa nam-nhân và nữ-giới có thể minh-chứng một cách rất khoa-học trên bình-diện di-truyền-học, nội-tiết-học và thần-kinh-học.

Đó không phải là khái-niệm xã-hội, tức: thứ gì đó do con người chế ra, khiến có thể thay đổi hoặc coi thường, nhưng đúng hơn là thứ gì đó thấm sâu vào sinh-lý của mỗi cá-thể, hiển nhiên ở cấp tế-bào. Mỗi tế-bào nơi nam-nhân gồm hai nhiễm-sắc-thể XY còn nơi người nữ, nó lại bao gồm nhiễm-sắc-thể XX. Điều này in dấu khiến con người thành nam-nhân hoặc nữ-giới, với tất cả mọi đặc-tính đeo theo đó có từ giới tính sinh-lý-học của mình.

Hơn nữa, tài-liệu nói ở đây còn ghi chú bảo rằng các từ vựng như “chuyển giới” và “liên-hệ về giới-tính”  theo cung-cách tự mình gây mâu-thuẫn cho chính mình thật ra cũng giả-định việc bác bỏ sự khác-biệt về giới-tính mà thôi.

Thành thử, lấy ví dụ, một bé trai những muốn trở thành con gái hoặc một nữ phụ muốn thành đàn ông/con trai thật ra chỉ là muốn chấp-nhận sự hiện-hữu và mong ước thành phụ nữ hoặc đàn ông mà thôi. Nguyên-tắc thứ ba, đề-nghị chuyện ấy.

Ở đây, Giáo-hội đề ra một chương-trình giáo-dục đặt nền trên một thứ nhân-chủng-học đích-đáng, theo đó vẫn nhận rằng: cũng thế, con người có bản bản-chất khiến ta phải tôn-trọng và con người không được tự ý thao-túng.” (Phát-biểu của Đức Giáo Hoàng Bênêđích 16 hôm 22/9/2011).

Bản chất đây được thấy trong sách Sáng Thế từng viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (Sáng Thế Ký đoạn 1 câu 27)

Phản-bác tính lưỡng-nguyên này, ta không chỉ xóa bỏ tầm-nhìn về bản-thể người là hoa-quả của động tách tạo-dựng nhưng còn tạo ý-tưởng về con người như một thứ gì đó rất trừu-tượng vốn tự chọn cho mình những gì theo bản-chất phải như thế, do đó làm hủy-hoại nền-tảng gia-đình.

Lại nữa, chỉ khi nào ta chấp-nhận nam-giới hoặc nữ-tính của con người thì khi đó mới nhận ra được căn-tính của mình là nam hay nữ trong việc đối đầu với người nào đó khác mình.” (X. Lm John Flader, The Gender Contradiction, The Catholic Weekly 01/8/2019, tr. 27)                          

            Bàn về tâm tình và tâm tính nam/nữ người nhà Đạo, thì như thế. Còn, nói về cái-gọi-là Tâm hồn Thuần Khiết ở ngoài đời, thì như sau:       

“Có một lần, nhà từ thiện Kenneth Belling đi ngang qua khu vịnh San Francisco, Hoa Kỳ vào những năm 1990 của thế kỷ 20, đột nhiên ông thấy mình để rơi chiếc ví khi nào không hay. Trợ lý của ông đã lo lắng nói: “Có lẽ chiếc ví đã bị rơi khi chúng ta đi bộ qua khu nhà ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng. Vậy, giờ đây ta phải làm gì?” Belling miễn cưỡng nói: “Ta chỉ có thể chờ người nhặt được ví tiền gọi điện thoại báo cho chúng ta mà thôi.”

Nhiều giờ qua đi, người trợ lý thấy thất-vọng bèn nói: “Thôi, ta đừng chờ nữa, đừng hy vọng gì vào những người sống trong khu nhà ổ chuột.” Tuy nhiên, ông Belling vẫn lặng lẽ nói: “Không, tôi vẫn muốn chờ đợi thêm xem thế nào.”

Người trợ-lý nghe vậy bèn rất đỗi ngạc nhiên, nói: “Trong ví có tấm danh thiếp của ngài, nếu muốn trả lại thì người nhặt được ví đã gọi rồi, chỉ mất chừng vài phút thôi. Tuy nhiên, chúng ta chờ đợi suốt cả buổi chiều mà vẫn không nghe tin gì hết. Dường như người nhặt được không có ý định trả đồ lại thì phải?”

Tuy thế, Belling vẫn nhất mực chờ đợi. Trời bắt đầu tối và điện thoại bỗng chốc vang lên. Chắc chắn cuộc nói chuyện qua điện thoại này là của người nhặt được chiếc ví. Người ấy nói sẽ đợi ông trên đường Kata.

Thấy vậy, người trợ lý bèn hét lên: “Hãy cẩn thận! Đây có thể là cái bẫy đấy! Liệu có phải là họ muốn tống tiền chăng?”

Belling vẫn bỏ qua lời cảnh báo và cứ lái xe đi. Ông tới nơi thỏa thuận thì một cậu bé mặc chiếc áo rách, trên tay cầm chiếc ví tiến lại gần. Người trợ lý vội cầm lấy chiếc ví và kiểm tra xem xét, anh thấy bên trong ví vẫn còn nguyên số tiền. Chờ đợi một lát, cậu bé ấp úng nói: “Cháu có một lời khẩn cầu các ngài có thể cho cháu một ít tiền được không?”

Lúc này, người trợ lý bèn cười lớn tiếng bảo rằng: “Biết ngay mà! …” Belling vội ngắt lời người trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu? Cậu bé trả lời:

“Chỉ cần cho cháu 1 đô la thôi cháu cũng mãn nguyện rồi.” Cậu bé ngượng ngùng nói: “Cháu đã tìm kiếm rất lâu để đến được bốt điện thoại công cộng gọi nhưng không có tiền, cháu phải vay 1 đô la để thực hiện cuộc gọi.”

Nhìn đôi mắt trong sáng ngây thơ của cậu bé, người trợ lý phải cúi đầu vì thấy xấu hổ. Còn Belling vội ngồi xuống ôm cậu bé vào lòng. Hành động của cậu bé khiến Belling thay đổi kế hoạch từ thiện. Ông quyết định xây nhiều trường học ở Berkeley để trẻ em nghèo không tiền đi học có thể đến trường.

Vào ngày khai giảng, Belling bèn phát-biểu: “Chúng ta không nên tự mình phán xét người khác. Nhưng ta cần tạo không gian và cơ hội để đón tiếp các em học sinh có tâm hồn thuần khiết và tốt bụng. Điều này rất đáng để chúng ta đầu tư.”
(Truyện kể tìm được trên mạng)

Vâng. Tâm-hồn thuần-khiết, tốt bụng thì như thế. Còn, tâm hồn đầy những đắn đo, lo lắng cho cuộc sống hiện tại của mình, thì sao? Trả lời câu hỏi này, thật cũng khó. Khó, là bởi mọi sự và mọi chuyện nay còn tùy phong-tục/tập-quán của mỗi nước và cũng tùy tâm-tánh của mỗi người, mà thôi.

Để minh-họa cho những điều vừa kể, nay mởi bạn và tôi, ta nghe thêm một truyện chừng như cũng thật, có đầu đề là “Bài Hát Sau Cùng” của tác giả Huy Phương, như sau;

“Ngày 26 Tháng Mười tới đây, Cụ William Leo McDougall, 83 tuổi, là cư-dân Laguna Woods sẽ ra hầu Tòa ở Santa Ana, Cali vì tội giết người. Số là, vào ngày 1 Tháng Mười năm 2010, trong lúc dưỡng bệnh tại Palm Terrace Healthcare Center, Laguna Woods, sau khi ở bệnh viện về, Ông McDougall đã nổi giận vì nghe người bạn chung phòng, là Ông Nguyễn Văn Mạnh, 94 tuổi, hát một bản Nhạc bằng tiếng Việt. Ông McDougall đã dùng một cây gỗ, đánh vào đầu Ông Mạnh nhiều lần rất đau. Ông Mạnh được xe cấp-cứu chở đi bệnh viện, sau đó tắt thở vì xuất huyết não quá nhiều.

Trước đây ở viện Dưỡng Lão, cũng có chuyện bà cụ nọ đánh một bà cụ khác cùng phòng đến độ gây thương tích khá nặng, nhưng trường hợp của cụ Nguyễn Văn Mạnh, vừa quá vãng để lại nỗi đau xót cho gia đình cụ và gây nhiều xúc động cho cộng đồng người Việt trên đất Mỹ. Tuổi già, bệnh tật, buồn phiền tất cả tạo sự cáu kỉnh khiến cụ Mc Dougall cầm gậy đánh chết bạn cùng phòng. Khác văn hóa, ngôn ngữ, sở thích, tôi nghĩ nếu bạn ở chung phòng với một người Ấn Ðộ, bạn cũng không ưa thích những bài hát dân tộc của những người như thế? Nhưng, điều làm cho tôi buồn hơn cả khi nghĩ đến tuổi già quạnh-quẽ nơi đất khách quê người là ông cụ cùng sắc tộc với mình, đã phải lãnh cái chết chỉ vì cất tiếng hát lên bài hát bằng tiếng mẹ đẻ, một bài hát Việt Nam.

Tôi không biết là ông cụ đang “nghêu ngao” hát bài gì, vì mỗi bài hát đều mang những kỷ niệm riêng tư cho một người, nó khơi dậy cả một quãng đời đã qua. Ðó là một bài dân ca mang âm hưởng quê hương khuất bóng, một bài hát tuổi trẻ khiến cụ nhớ đến thời hoa niên cắp sách đến trường hay một đoạn tình ca “ gọi người yêu dấu, ” một người đầu gối tay ấp hay một người thương yêu đã “ nghìn trùng xa cách. ”

Tôi dùng tiếng “ nghêu ngao ” để nói đến tâm trạng một người lúc buồn hay vui, ngồi hay đi, đứng hát một mình, một bài hát có thể sai vần lạc điệu, nhưng chắc chắn là một bài hát đầy kỷ niệm, đầy thương nhớ đã gây xúc động cho lòng người hát. Những bài hát này không thể dành cho đám đông hay hát cho ai nghe, mà là trong lúc cô đơn nhất, buồn nhất hay hạnh phúc nhất, con người đã hát lên nho nhỏ cho một mình mình nghe và người hát đã đắm mình trong những giấc mơ riêng tư của mình.

Một ông cụ đã 94 tuổi, là người Việt Nam, hẳn ông đã sống qua những nỗi thăng trầm của đất nước. Ông sinh ra và lớn lên dưới thời Pháp thuộc, cũng có thể là đã biết thế nào là chiến tranh, loạn lạc. Giờ này, về già, ông sinh sống tại Mỹ, có nghĩa là, ít nhất một lần, ông phải bỏ quê hương. Vận nước đã đưa ông đến đây, lúc về già, vì hoàn cảnh phải sống trong nhà Dưỡng Lão với một người xa lạ, khác biệt tuổi tác, văn hóa, ngôn ngữ. Nếu không lú lẫn, quên quên nhớ nhớ, hẳn lòng Ông đã trĩu nặng một nỗi buồn xa quê hương, hiu quạnh trong nhà Dưỡng Lão, không một bóng người thân.

Ông cũng có một cuộc đời như những người khác, có một thời thơ ấu, trung niên, có cuộc sống hôn nhân, có một quãng đời yêu đương, sinh con đẻ cái, làm việc, hạnh phúc hay đau khổ. “Kỷ niệm là cái gối lúc ta về già” nó có thật làm cho chúng ta cảm thấy êm ái đi vào giấc ngủ, hay đau khổ, dằn vặt suốt cuộc đời ta. Tuổi già chính là thời gian dừng chân đứng lại, để nhìn về quá khứ, với chút ngậm ngùi hay thương tiếc.

Nhu cầu của tuổi thơ chỉ là đời sống vật chất, một đứa trẻ khóc vì đói, khát, vì lạnh hay nóng, tuổi già ngoài những cảm xúc của một đứa trẻ, còn có niềm đau tinh thần, buồn bã, nhớ nhung, tủi thân vì cô đơn và hiu quạnh. Thủ phạm giết người, ông già McDougall chắc chắn đang mang tâm lý buồn bực, bẳn gắt, chán đời của một người già cô độc, chỉ có điều đáng tiếc, là ông đã trút nỗi giận dữ đó lên một người bệnh cùng phòng vô tội, để đến nỗi gây ra án mạng !

Ðôi khi chăm sóc cho tuổi già còn bận rộn hơn là có “con mọn”. Tuổi già quả đáng cho chúng ta quan tâm săn sóc hơn là trẻ thơ, không phải cho ăn, cho mặc, hay tắm rửa mỗi ngày là đủ, điều này nhà điều dưỡng nào cũng làm được. Trên đời này, mấy ai nghĩ đến cha mẹ già hơn là chăm lo cho con cái của mình, mấy ai đã có suy nghĩ: “Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn du ” (Còn cha mẹ ở nhà, không nên đi chơi xa.) Ðó là chưa nói đến chuyện có cha mẹ già, mà ca dao Việt Nam đã ví von như “mít chín cây! Gió Ðông cũng sợ, gió Tây cũng buồn! ”

Tòa án Santa Ana sẽ kết tội thủ phạm đã giết ông cụ Nguyễn Văn Mạnh, nhưng thật sự tôi không quan tâm về bản án này, nặng nhẹ như thế nào. Thủ phạm đã 83 tuổi, bản án nhẹ nhất cũng làm cho người này không hề có hy vọng sẽ ra khỏi nhà tù trước khi chết. Sống ở đây hay sống ở trong nhà tù thì có khác gì nhau, kẻ giết người sẽ không có hy vọng trở lại nhà trước khi xuôi tay, thì chết trong nhà tù hay trong nhà dưỡng lão cũng là cái chết.

Từ khi đọc được bản tin này, tôi cũng không hề thắc mắc về gia cảnh, bệnh tật hay đời sống của ông cụ xấu số. Ðiều duy nhất tôi nghĩ đến và muốn tìm hiểu là ông cụ đã hát bài hát gì trước khi ông qua đời. Thủ phạm là một người ngoại quốc không biết tiếng Việt, để cảnh sát lấy lời khai, mà điều này thì có gì là quan trọng đối với họ. Cũng như những nhân chứng, nếu là đồng bào của cụ thì cũng chỉ có mặt tại hiện trường khi cụ đã ngã xuống, nên không ai nghe cụ hát bài gì.

Còn tôi, thực sự tôi muốn biết, vào lúc ấy, cụ đã “ nghêu ngao ” hát bài gì để biết nỗi buồn của cụ ra sao ? Nỗi xa vắng người thân, thương nhớ quê hương, nỗi cô đơn buồn bã hay hoài niệm về một quãng đời đã mất ! Tôi thương ông cụ, và nghĩ đến tuổi già mai sau của tất cả chúng ta.

Kể câu truyện như thế rồi, bần đạo bầy tôi đây cũng không biết nói gì thêm; bởi, có nói cũng không nên lời. Và có hát, chắc cũng sẽ bị như nhân vật gọi là “Ông Cụ” ở trong truyện, thôi. Chi bằng, ta cứ đi vào vườn hoa đầy những Lời Vàng thánh của đấng bậc mà suy tư, tụng niệm như sau.

            “Nay tôi lại vui mừng, không phải vì đã làm cho anh em phải ưu phiền,
nhưng vì nỗi ưu phiền đó đã làm cho anh em hối cải.
Thật thế, anh em đã phải ưu phiền theo ý Thiên Chúa,
nên chúng tôi không làm thiệt hại gì cho anh em.
Quả vậy, nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa
làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ:
đó là điều không bao giờ phải hối tiếc;
còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian
thì gây ra sự chết.”    
(2Corinthô 7: 9-10)

Ưu phiền đối lại vui mừng, là những điều vẫn xảy ra như cơm bửa ở nhà Đạo, cũng như ngoài đời. Để minh-họa cho những điều vừa nói, nay mời bạn và tôi, ta đi vào vườn hoa truyện kể có những câu truyện được kể cho người khác nghe, cũng chỉ để người ấy suy-tư rồi hiện thực những gì mình tâm đắc. Truyện, l2 truyện được kể như sau:

“Có 3 tờ giấy bạc nằm trong bóp của bà trùm một xứ đạo nọ ở Việt Nam cùng nhau hội ngộ để khoa khoang hoặc than vãn. Tờ 100 đô lên tiếng khoe trước:
-Này, các cậu có biết không? Tớ đây từng đi gần như khắp thế gian rồi. Sang cả Úc Châu, Âu Châu, Phi Châu lẫn Á Châu nữa đấy.
Tờ 50 đô cũng góp giọng phụ họa:
-Em cũng được đến nhiều nơi lắm rồi anh ạ, nào: Sài Gòn, Las Vegas, Reno, Pháp quốc, Hàn Quốc và nhất là các cửa tiệm thời trang ở Hoa Kỳ là em đi hết rồi. Thế gian thật nhiều chỗ ngoạn mục.
Tờ 1 đô la bổng oà lên khóc nức nở:
-Tủi thân cho em quá, tuần nào em cũng chỉ được đi tới nhà thờ thôi, mới chết chứ.”  (Truyện kể trích từ mạng vi tính, chẳng thấy tên người sáng tác).

Thế đó, là nỗi vui/buồn của vật chất, rất tiền bạc. Còn, niềm vui hân hoan của người phàm, thật cũng khó biết. Xét cho cùng, ta và người biết có mỗi chuyện, là: người phàm nay vui mai buồn, là chuyện thường. Có gì phải thắc mắc.

Vâng. Đúng thế. Cuộc đời người, là chuỗi ngày dài cứ thế tiếp theo nhau mà hiện-hữu, chẳng cần biết người còn sống có ưu-tư thắc mắc chăng chuyện trên trời dưới đất, thấy mà vui.

Vâng. Đời người buồn vui khó biết. Khó như đếm sao trên trời, hoặc như đếm từng sợi tóc trên đầu xem bao nhiêu cái. Buồn vui cuộc đời, chỉ là chuyện thoáng qua như nháy mắt, rồi cứ lặp đi lặp lại mãi không thôi.

Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ mặc kệ, “quẳng gánh lo đi” mà vui sống. Sống hùng, sống mạnh, sống vững chãi như con cái nhà Đức Chúa Trời, ở mọi nơi. Mỗi thế thôi.

Trần Ngọc Mười Hai
Và những quyết tâm,
định thần
Như thế đó.