Saturday 24 September 2011

“Có phải em, mùa Thu Hà Nội?”


“Có phải em, mùa Thu Hà Nội?”
“Tuổi phong sương, ta cũng gắng đi tìm.
Có phải em, mùa Thu xưa?
Có bong mùa Thu, thức ta lòng son muộn?”
(Trần Quang Lộc – Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội)
(Mt 22: 18, 29-30)
            Âu cũng là chuyện bình thường. Ở đời. Khi, người người vẫn cứ vấp phải đôi ba lỗi lầm lớn/nhỏ, trong quan hệ với người đời. Để rồi, cũng có lúc ta sẽ hối tiếc, mà thốt lên câu: “Thật không có cái dại nào như dại nào.”
            Bần đạo đây, đôi lúc cũng rơi vào tình huống khá “lấn cấn”, gần như thế. Gần nhất, là như trong chuyến Mỹ du tháng 6/2011 vừa qua, bần đạo đã khám phá ra được sự thật rất chết người. Sự thật, ấy là: hơn 3 năm về hưu nằm nhà, mà sao bần đạo nào thấy dài! Bởi, có ra đi mà kết thân với người ngoài  -ngoài Đạo/ngoài đời- thì người người mới thấy mình đôi khi cũng lung túng không ít với các chức sắc hoặc đấng bậc, ở cơ quan.
            Thấy họ làm việc tất bật, vật vã đã không thương thì thôi, lại cứ hỏi những câu dư thừa, như: “Busy, busy?” (tức, bận nhỉ?) Để rồi, người đối tác, đã không trả lời/trả vốn thôi, còn hỏi lại: “Phải ông ở Sydney không? Qua đây lâu chưa? Mới có 2 chục năm tức hơn hai thập niên mà không biết là: phi trường Ascot Sydney này cũng bận rộn không kém gì nơi khác như New York, Paris, London hay sao mà còn hỏi? Đúng là câu hỏi thuộc loại vớ vẩn. Không hay lắm!...”
            Hú vía! Đó là bần đạo chỉ máy miệng, hỏi có bốn chữ thôi, cũng đã được lời gấp trăm, liên tu hồ điệp tràng pháo tung trời, nổ lốp đốp. Và, lộp độp. Bất chợt nhìn lại sắc da mầu áo của chức sắc ở cơ quan di trú phi trường mới biết: ngài không phải người Tây, mà là “thầy người”, tức bậc thầy Án Độ, rất “fakir”! Thế mới biết, sống ở đời mà cứ lân la chuyện vãn với người “ngoài luồng”, cũng nên nhìn trước nhìn sau mà đoán chừng, đừng tính toán qua loa. Sơ xài. E sẽ hớ!
            Chẳng thế mà, nghệ sĩ họ Trần ở trên vẫn hỏi và hát, những câu ngớ ngẩn, mà đâu sao:
                                    Có phải em là mùa thu Hà Nội
Ngày sang thu anh lót lá em nằm
Bên trời xa sương tóc bay.
Thôi thì có em đời ta hy vọng
Thôi thì có em sương khói môi mềm.”
(Trần Quang Lộc – bđd)

            Về hỏi han, dù chỉ sơ qua dăm ba câu chuyện hỏi làm quà, nhiều lúc cũng làm ta rối rắm, rất không ít. Có khi, cũng phức tạp cho người hỏi lẫn người trả lời như cuộc hỏi/đáp dưới đây:

“-Đúng thế không? Cuộc tình của anh chị kéo dài những 15 năm sau đó mới đi đến hôn nhân?
-Điều này không sai. Nhưng, trước khi đi đến hôn nhân, bọn tôi vẫn có một cuộc tình với nhau kéo dài những 15 năm 2 tháng và 1 ngày.
-Thế, anh chị làm gì trong thời gian chờ đợi dài như thế?
-Đơn giản là: trong thời gian đó, chúng tôi đều có gia đình riêng...”

            Về đáp trả, đôi lúc dù chẳng giản đơn như hỏi đáp ghi trên; chí ít, là hỏi và đáp về hôn nhân, tức: được hôn (người có lòng) nhân, lại có nhân (duyên cũng dễ) hôn. Hôn nhân/nhân hôn ở đời, toàn những thế. Những chuyện rất ư là rắc rối. Có ở đời.
            Nơi nhà Đạo, cũng không tránh khỏi cảnh rối rắm thường dẫn đến nhiều chuyện khá phức tạp khác. Tức những chuyện rắc rối, tối nằm không. Chí ít là khi: cả hai bên đã yêu nhau thật tình, quyết thể hiện tình yêu ấy suốt đời; mà vẫn gặp nhiều vụ việc khá phiền phức về giáo luật, đáng kể như sau:
            Đáng kể, là đáng để kể lể và hỏi han có mỗi chuyện như thế này:


“Tụi con yêu nhau và chịu cưới nhau đã là điều tốt rồi, nhưng sao lại cứ phải đưa nhau vào nhà thờ mới được phép làm lễ cưới theo đúng qui cách của Đạo Công giáo. Như thế nghĩa là sao? Các cặp vợ chồng cưới nhau “ngoài nhà thờ” còn có ý nghĩa gì? Xin giải thích cho biết. (Ký tên một người Công giáo hay thắc mắc).
            Giả như người hỏi gửi các câu thắc mắc đến đấng bậc phụ trách mục gỡ rối tơ lòng về Đạo hạnh, thì chẳng có gì đáng gọi là “một người Công giáo hay thắc mắc” hết. Bởi, cha cố ở nhà Đạo luôn cần những người cứ thắc mắc những chuyện đại loại như thế, để có cơ mà giải thích. Chứ, bằng không, chẳng lẽ lại treo văn bằng cử nhân thần học lên tường gạch cho con trẻ nó ngắm nghía sao? Bởi thế nên, đấng bậc ở Sydney luôn sốt sắng trả lời/thời trả cả vốn, như sau:

“Câu hỏi của cô (xin phép được gọi bằng “cô” cho thân mật), là điều rất hệ trọng. Ngày nay, nhiều bạn vẫn đi nhà thờ giữ Đạo, nhưng lại không mấy am tường qui định của Hội thánh liên quan chuyện cưới hỏi. Thậm chí có vị từng làm đám cưới “ngoài nhà thờ” mà không hay biết hậu quả có thể xảy ra, nữa.       

Trước hết, xin bắt đầu bằng một giải thích xem thế nào là “đám cưới ngoài nhà thờ”. Cụm từ này, dù gì đi nữa, cũng không là danh từ chuyên môn gì cho cam, mà chỉ muốn nói đến cung cách tổ chức đám cưới đã được Hội thánh chuẩn nhận, cho làm “trong nhà thờ”, vậy thôi.

Điều 1108 nơi Giáo luật đòi rằng: đám cưới giữa người theo Đạo Công giáo chỉ hiệu lực nếu thuận theo qui định của Hội thánh, tức: phải có sự hiện diện của ít là một linh mục, hoặc vị phó tế; và thêm vào đó, là hai người chứng, như thế mới thành. Trong lễ cưới như thế, vị linh mục hoặc phó tế phải yêu cầu cả hai cô dâu chú rể phải bày tỏ sự đồng thuận, rất rõ ràng.

Có làm như thế, thì hai vợ chồng mới được coi là đã làm đám cưới “trong nhà thờ”, theo phép Đạo. Và, đám cưới của hai người mới hợp lệ được. Về đòi hỏi phải có sự chứng giám của một linh mục hoặc phó tế và hai người chứng được gọi là “đám cưới theo khuôn phép rất đúng” như luật định.

Trong một số trường hợp, Hội thánh có thể châm chước chuẩn miễn để hai người không buộc phải theo khuôn khổ như luật định. Chẳng hạn như: nếu một bên là người Công giáo đi cưới một người không phải Công giáo nhưng đã được rửa tội (theo Đạo Chúa như bên Tin Lành) thì hai người có thể yêu cầu được phép làm đám cưới “trong nhà thờ” của người bên Đạo Chúa Kitô mà không phải là Công giáo. Làm như thế, là để trân trọng quan hệ đặc biệt hai người vẫn có với chức sắc của Giáo hội ấy. Hoặc, để khỏi bị gia đình ly cách. Trường hợp này, hai người vẫn có thể hoàn tất chuẩn bị đám cưới thông thường theo Công giáo; và, chỉ có vị linh mục mới có thể xin Đức Giám Mục chủ quản của ngài miễn cho việc rập theo khuôn phép ở giáo luật (x. Giáo luật 1127, #2)

Ở vào tình huống này, bởi hai người đã được Hội thánh Công giáo cho phép, nên mới có thể làm đám cưới tại nhà thờ thuộc giáo phái. Và, đám cưới của hai người khi đó mới được coi là hợp lẽ Đạo. Và mới thành.

Nếu người Công giáo cưới một người theo đạo Chính Thống làm phép tại nhà thờ Đạo Chính Thống trước sự hiện diện của vị chức sắc thuộc giáo phái ấy, mà không có sự chuẩn chước của vị Giám mục chủ quản Công giáo, thì đám cưới ấy vẫn không thành. Đó là nhìn sự kiện theo cung cách hiểu rằng cả người Công giáo và người theo Chính Thống giáo lâu nay san sẻ cùng một cảm thông chung về hôn phối. (x. Giáo luật điều 1127, #1)

Sao phải làm đám cưới “trong nhà thờ” như thế? Có gì quan trọng đến vậy?
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã liệt kê những điều hay, lẽ phải của đám cưới có sự hiện diện của linh mục và hai người chứng, như sau:

-Bí tích hôn phối là việc làm có tính cách phụng vụ. Vì thế nên, cần phải cử hành theo qui cách phụng tự của Hội thánh.
-Hôn nhân đưa dắt con người đi vào khuôn khổ có trật tự như Giáo luật dạy. Như thế mới đem lại quyền lợi cũng như bổn phận trong Hội thánh giữa hai người phối ngẫu, để rồi hai người cùng nhau hướng về con cái của mình.
-Hôn nhân là sức sống của Hội thánh, đó là điều hệ trọng. Và, cũng là lý do bắt buộc phải có sự chứng kiến của hai người chứng.
-Tính công khai nơi việc chứng giám/đồng thuận là để bảo vệ lời thề và quyết tâm của hai người giữa nhà thờ, có Chúa hiện diện. Có thế, cả hai mới thực hiện được sự chung thủy cần có. (GLHTCG #1631)

Để tóm tắt, khi cử hành đám cưới có sự chứng giám của Hội thánh như thế thì nhiệm tích hôn phối mới giúp hai người trung thành với điều mình quyết thề hứa mà tiến đến hôn nhân. Việc này cũng giúp hai người chuẩn bị hôn nhân cho phải phép; có như thế, mới tạo sự bền đỗ của hôn phối cũng như củng cố được hôn nhân giữa hai người, qua sự đồng thuận được tuyên bố trang trọng trước mặt Chúa và cộng đoàn Hội thánh.            

Giả như hai người cưới nhau “ngoài nhà thờ” trước mặt người chứng hoặc trước mặt mục sư mà không có phép chuẩn của Hội thánh, thì đám cưới của họ không được coi là thành, trong nhà Chúa, dù vẫn hiệu lực với luật đời. Với luật Đạo, thì hai người có sống với nhau vẫn ở trong tình trạng gọi là “rối”, cũng giống như hai người sống đời đôi lứa ở với nhau không phép cưới. Và như thế, cả hai đều không được phép rước Chúa vào lòng.

Dù sao đi nữa, cũng nên biết: cả hai người đều có tư cách để lấy nhau -nghĩa là trước đó chưa bên nào từng làm đám cưới hoặc đã từng ly dị-  trường hợp này, cả hai đều có thể tương đối dễ dàng xin Hội thánh hợp thức hoá sự kết hợp sống chung của mình theo một trong hai cách: hoặc trao nhau lời thề nguyền có sự hiện diện của một linh mục và hai người chứng, dù chỉ bằng buổi lễ riêng tư thầm lặng, nếu họ muốn. Hoặc, cả hai cùng xin Đức Giám Mục chủ quản cho phép hợp thức hoá hồi tố, nghĩa là được ngài tuyên bố rằng: hôn nhân của hai người được coi như hợp lệ kể từ ngày tháng hôm trước trong đó họ có trao nhau lời thề nguyền không hợp lệ. (x. Giáo luật điều 1160-1161). Nếu họ làm thế, cả hai đều có thể quay về với Hội thánh, mà rước Chúa. (x. Lm John Flader, Question Time, Connorcourt publishing 2008, tr. 180-182)

            Theo bài bản, ở luật Đạo, thì như thế. Thế nhưng, vấn đề là: người thời nay, ở nước ngoài, có làm thế nữa hay không? Đó là vấn đề. Và luật lệ có nên du di, luật trừ một chút chăng? Và hôm nay, người trẻ ở đời lại những muốn đôi điều lạ, là: làm đám cưới ở bãi biển, công viên, chứ không phải “trong nhà thờ” như trước, thì sao? Đại để, như người nghệ sĩ ở đời vẫn có giòng nhạc hỏi rằng:

                                    Tháng tám mùa thu lá rơi vàng chưa nhỉ?
Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm
Có phải em mùa thu xưa?”
(Trần Quang Lộc – bđd)

             Nơi thi ca hay trong cuộc đời, có người vẫn cứ hỏi. Bạn và tôi, có trả lời hay không, thì người người vẫn cứ sống. Sống cuộc đời người. Với người đời có thi ca, âm nhạc, như còn hát:

                                    Thôi thì có em đời ta hy vọng
Thôi thì có em sương khói môi mềm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghe đâu đây lá úa và mi xanh
Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát.”
(Trần Quang Lộc – bđd)

            Trả một lời như thế, phải chăng nhà thơ đã trả lời trả vốn, cho mọi người. Bằng nhiều cách? Còn nhà Đạo, cũng có người đến hỏi những câu rất tương tự, để người người lại học được một chân lý, rất tự nhiên:

                                    “Vậy, trong ngày sống lại,
bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người,
vì tất cả đều đã lấy bà?"
(Mt 22: 18)

            Và câu trả lời đích đáng hơn cả, vẫn là:

                                    “Đức Giê-su trả lời họ:
"Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh,
cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa.
Quả thế, trong ngày sống lại,
người ta chẳng lấy vợ lấy chồng,
nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.”
(Mt 22: 29-30)

            Sống lại với Nước Trời, người người sống với nhau không bằng luật lệ, của Môsê hay ai đó, mà là sống có tình với nhau. Luật hay lệ, vẫn chỉ là chữ viết, vẫn o ép. Bức bách. Bức bách hay o ép, đến chỗ chết, hãy như người nữ phụ trong truyện kể ở dưới, cứ thấy vui mà kể lể:

                                    “Truyện kể rằng:
                                    Sau khi chẩn đoàn rất kỹ lưỡng, vị bác sĩ bèn nói với bệnh nhân rằng:
-Dù là tin buồn, nhưng tôi vẫn phải nói để bà còn thu xếp mọi chuyện cho chu đáo. Bà bị ung thư gan, giai đoạn cuối. Thế nên, tôi đề nghị khi về nhà, bà sắp xếp mọi chuyện với chồng con, sao cho phải lẽ. Có như thế, khi ra đi, bà mới cảm thấy thanh thoát. Nhẹ nhàng.
Tuy sững sờ, nhưng bà bệnh nhân kịp lấy lại sự bình tĩnh, rồi ra ngoài nói với người con gái đang chờ, ở phòng đợi:
-Con à, là phụ nữ, mẹ con mình vẫn có thói quen là sự thể dù có thế nào đi nữa, vẫn bình tĩnh. Cứ ăn mừng. Cả khi có tin dữ lẫn tin vui. Và tin hôm nay là tin không được vui cho lắm: mẹ được bác sĩ cho biết, đã ung thư. Bởi thế nên, nay mẹ con mình ra câu lạc bạ uống đôi ba ly, cho đỡ buồn.
Uống xong hai ba ly martini, cả hai mẹ con đã bớt buồn. Người mẹ còn cười cười nói nói, rất liên hồi. Cuối cùng có vài người bạn đến gần hỏi:
-Này cho mình hỏi lý do sao mà bà cứ là vui như Tết chẳng lo gì hết vậy?
-Tôi nói thật với các bà điều này: Bác sĩ vừa bảo tôi bị bệnh Siđa, đấy!
Ai nghe thế, đều hú vía bịt mồm bịt miệng chạy cho mau về nhà, kẻo lây. Khi mọi người đi hết, người con gái bèn hỏi mẹ:
-Mẹ này. Sao lúc nãy mẹ bảo với con rằng bác sĩ nói mẹ bị ung thư, giờ thì mẹ lại nói Siđa, là sao con chẳng hiểu gì cả?
-Ngốc ơi là ngốc. Nếu mẹ không nói thế, thì sau khi mẹ chết đi, mấy mụ này sẽ lại tằng tịu lăng nhăng với bố mày, thôi.      
-À ra thế. Nay con mới hiểu lời bác sĩ nói: để bà còn thu xếp mọi chuyện cho chu đáo! Đúng là cuộc đời. Giời ơi là giời…”

            Truyện kể chỉ là truyện hư cấu, ở trời Tây. Giữa người đời. Nhưng nếu người người vẫn cứ ưu tư thắc mắc chuyện người đời những muốn “thu xếp mọi chuyện cho chu đáo” cả lúc sống cũng như khi chết, thì truyện kể ở bên trên có xảy ra ở đâu đi chăng nữa, vẫn là chuyện dài ở huyện. Cả huyện nhà Đạo, cũng không chừng.
            Thế nên, lời cuối phiếm loạn hôm nay, lại là câu hát có ý tứ cũng rất lạ như sau:

                                    “Có chắc mùa Thu, lá rơi vàng tiếng gọi
                                    Lệ mừng gặp nhau, xôn xao phím dương cầm.
                                    Có phải em là mùa Thu Hà Nội?
                                    Nghìn năm sau, ta níu bóng quay về?
                                    Ôi mùa thu của ước mơ…”
(Trần Quang Lộc – bđd)

            Thế thì, mùa Thu Hà Nội, hay mùa Xuân của Sàigòn vẫn cứ nên gọi đó, mùa của hy vọng. Có những tình tự rất thân thương. Ưu ái, một kiếp người. Ở muôn nơi.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Hỏi thì vẫn hỏi
            nhưng đâu nào có gọi
            người em mình
là mùa Thu Hà Nội hay Sàigòn.
Mà: Xuân nhà Đạo
có nở rộ khắp nơi nơi?

     
     
           
   



Saturday 17 September 2011

“Anh ơi có bao nhiêu? 60 năm cuộc đời “



“20 năm đầu, sung sướng không bao lâu”
(Y Vân – 60 năm cuộc đời)
            (Lc 23: 34)
            Có những điều, mà người người sống ở đời vẫn thường hỏi. Và, cũng nhắn. Những nhắn hỏi, như lời ca nghệ sĩ lâu nay vẫn hát, rất ở trên. Có những câu nhắn, mà người người sống mọi nơi, mọi thời, vẫn chẳng thấy trả lời, mà chỉ trả lỗ. Rất khôn nguôi. Nhắn hỏi đây, vẫn tràn đầy ở truyền thông đại chúng có thơ văn kể về tình huống ở đời người, gay go lấn cấn đến khó tả.  
            Truyền thông đại chúng, nay có lời nhủ/nhắn khá gay cấn như ca từ nghệ sĩ vẫn thường hát:
                                    “20 năm sau, sầu vương cao vời vợi,
20 năm cuối là bao.
Ơ là thế! đời sống không được bao
Ơ là bao! đời không lâu là thế…”
 (Y Vân – bđd)
            Vâng. Hỏi hoặc nhắn với người đời, thường như thế. Tức, những nhắn và hỏi khiến người người thốt lên lời than thật: “hết biết”! Hết biết đây, là: không còn biết trả lời/trả vốn sao cho phải đạo như báo đài/truyền thông đặt ra, sau vụ nội loạn ở Luân Đôn, tháng tám năm hai nghìn lẻ mười một.
“Hết biết”!, còn có nghĩa: chẳng biết đám trẻ ấy có như nghệ sĩ trên, dám hát lời ca vang rằng: “20 năm đầu, sung sướng không bao lâu! 20 năm sau, sầu vương cao vời vợi! 20 năm cuối là bao!” Xem thế thì, có bảo là “hết biết” hay chẳng dám biết, đều có nghĩa là: 60 năm cuộc đời, dù sướng/khổ, vẫn cứ “rung đùi” mà hát: “Ớ là bao! không lâu là thế!”. : Ớ là thế! đời sống không được bao”, tức chẳng dám tự hào nói được mình sẽ sống dai/sống thọ để còn biết. Và, biết rất rõ cuộc đời người.
            Hôm nay, khi nói “hết biết!”, là còn nhận rằng: mình chẳng biết phản ứng ra sao khi thấy đám trẻ cứ chán đời, rồi quậy phá đến …hết biết. Thật ra, thì bần đạo cũng chẳng biết đích xác lẽ tại sao tuổi trẻ nay hung hăng/bốc đồng khiến các đấng bậc vị vọng ở nhiều nơi, đã phải phản ứng như bên dưới:
Phản ứng trước nhất, là ý kiến của tác giả Joanna Bogle trong một bài viết có tựa đề: “Tuổi trẻ không cha, nay đập phá”, trong đó người viết đưa ra câu hỏi, rằng: “Vụ hỗn loạn/xục xạo ở Luân Đôn tuần rồi, liệu có thuyết phục được những ai lâu nay nghi ngờ là: cấu trúc gia đình nay đã trở thành vấn đề khúc mắc thời đại đối với đám đông quần chúng, không?” Hỏi rồi, tác giả đã đưa ra ý kiến của mình để  mọi người bàn luận. Ý của cô, như sau:

“Sự thể là, chuyện gia đình đổ vỡ hôm nay đã lan tràn ở đây đó đến mức độ đáng báo động, khiến người người thấy ngán ngẫm khi nhận ra rằng: mới thập niên ‘60 đến nay thôi, mà các trẻ xuất thân từ gia đình có bố mẹ chung sống với nhau chẳng cần cưới hỏi, đã từ 5% lên đến hơn 40%. Trong khi đó, con cái của bậc cha mẹ tuy sống cùng nhà nhưng tương quan gãy đổ, có tỷ lệ cao hơn gia đình có cưới hỏi đàng hoàng.

Các khảo sát chính thức do Bristol Community Family Trust và Trung Tâm Công Bằng Xã Hội thực hiện vào năm 2010, đã cho thấy rõ: có đến 50% số trẻ em ra đời ở Anh lâu nay chịu cảnh gia đình đổ vỡ, thường xảy đến trước khi các em bước vào tuổi 16. Một số quận bên Anh, nay thấy có hơn 50% bậc cha mẹ đơn lẻ lại đã và đang làm chủ gia đình. Thế nên, vụ náo bạo tuần rồi khiến nhiều người đau lòng xót ruột khi được biết có người gọi về cơ quan chức năng với mục đích đổ vấy mọi lỗi lầm là do bậc cha mẹ giáo dục con cái không nghiêm túc, chẳng đúng mức. Qua vụ việc tuần rồi, ta nhận ra rằng: ít có trường hợp nào cho thấy đám trẻ ấy lại xuất thân từ gia đình có cha có mẹ đầy đủ.

Những tháng ngày gần đây, ta thấy một số trẻ phạm pháp có mẹ cô đơn sống chung cùng phòng với bạn trai của bà. Chẳng cần bàn chi cho nhiều, ai cũng hiểu rằng: nhiều trường hợp cho thấy sở dĩ đám trẻ nay làm bậy là do ảnh hưởng từ truyền thông/báo chí, truyền hình, phim tập, hoặc văn hoá nhạc giựt, và nhiều thứ. Rõ ràng, giá trị cổ xưa như: gia đình đạo hạnh có cưới hỏi đàng hoàng, sự thủy chung, siêng chăm, tận tuỵ và tính sẻ san tốt lành của gia đình, nay bị đẩy lùi khỏi cuộc sống hiện tại.

Muốn cho xã hội được lành mạnh trở lại, có lẽ ta cũng nên khởi đầu bằng việc chấp nhận thay đổi chính sách xã hội, ở mọi giới. Tựa hồ như, khi ta nghe ai đó chủ trương phá bỏ những gì tốt lành do hôn nhân/gia đình đem đến. Thêm vào đó, là những người cứ chê bai chuyện cần đặt nặng tình phụ tử, cũng như sự hiện diện của người cha, trong gia đình. Tất cả, là chuyện cần thiết không thể lơ là, hoặc bỏ qua. Có vị lâu nay chủ trương điều tiêu cực, sau khi đã phá bỏ mọi sự tốt lành rồi, thì có nói lời “xin lỗi” cách mấy đi nữa, mà không chấp nhận tu chỉnh thực chất của mọi việc, thì chẳng ai dám nhận lời “xin lỗi” ấy cả.

Thay vào đó, hãy thăng tiến hôn nhân sao cho đôi nam nữ sống với nhau càng lâu càng tốt. Hãy yểm trợ vị nào chủ trương đường hướng giáo dục đúng đắn cho xã hội. Hãy cho phép nhà trường thi hành kỷ luật đối với học sinh cá biệt. Có như thế, thì quần thể xã hội mới đạt kết quả khả quan. Hãy kiến tạo cuộc sống mẫu gương của người đàn ông/thanh niên tiêu biểu và thường xuyên có mặt với nhóm trẻ để sinh hoạt một cách tích cực. Hãy khuyến khích người trẻ thực thi công trình nào khả dĩ tạo nền tảng vững chãi cho xã hội. Hãy hỗ trợ người phục vụ chòm xóm cho tốt đẹp. Hãy lập lại kỷ luật trong xã hội, để tình bằng hữu thân thương về lại với đoàn thể sắc tộc nào chủ trương đề cao giá trị đạo đức, ý thức lịch sử. Hỗ trợ đoàn thể nào đặt nặng tính cộng đồng truyền thống lên trên mọi sự. Có như thế, thì nền văn hoá sắc tộc mới có cơ hội phát triển.

Đó là chính sách nhắm vào quần chúng. Là, chính sách nền tảng đặt ra cho cộng đồng dùng nó để có được sinh hoạt thật tích cực. Có làm thế, thì xã hội cộng đồng mới sống thuận thảo với chòm xóm. Và từ đó, cộng đồng mới triển khai được điều tốt lành cho xã hội mình đang sống. Cũng nên coi vụ hỗn loạn ở Luân Đôn hôm rồi, là tiếng chuông cảnh tỉnh để mọi người có quyết tâm mà đổi thay tận gốc chính sách cũ xưa/tồi tệ đang bám rễ trong cộng đồng mình. Hãy thay đổi cho thật rộng, để nhờ đó hy vọng rằng mình có đủ tài năng/nhân vật lực để đặt nền tảng vững chãi cho cuộc sống xã hội. Có thay đổi như thế, mới hy vọng vào tương lai tươi sáng cho xã hội mình đang sống. Hãy dũng cảm thiết lập chính sách thay đổi ấy một cách cương quyết, nhờ đó sẽ nắm chắc thành công.

Thủ tướng Anh, ông David Cameron và thủ lãnh đảng Lao Động Anh, là ông Ed Miliband đều nói đến trách nhiệm của bậc cha mẹ. Đó là vấn đề mọi người cần bận tâm, bàn luận. Vấn đề này, biên tập viên đài BBC Luân Đôn, ông Nick Robinson, cũng đồng ý nói: “Cái giá phải trả sẽ lớn lao biết là chừng nào. Giả như các nhà chính trị thuyết phục được cử tri mình rằng: sự việc xảy ra hôm tuần rồi đã cho thấy rằng: họ không là người bất lực, hoặc thụ động.” (x. Joanna Bogle, Fatherless youths run riot, www.mercatorNet 16/8/2011)            

            Nói theo kiểu truyền thông, là để truyền cho thông. Nhưng nói thì nói thế, chắc gì thuyết phục được người đọc ở các nơi. Chí ít, là những người sống ở thị thành bên Anh từng kinh khiếp khi thấy xã hội nay thay đổi đến rợn người.
Nói thì vẫn nói, nhưng hãy lắng nghe phản ứng/phản hồi của người dõi theo truyền thông/báo chí và từng có những bài báo, giống như trên. Cũng nên lắng nghe dư luận cùng phản ứng của người dân đen trước biến cố náo loạn xảy đến như sau:

“Theo tôi, nguyên nhân dẫn đến chuyện náo loạn/hôi của tuần vừa rồi, là do thái độ của thanh/thiếu niên sống thiếu kỷ luật ở nhà mình cũng như ở trường học. Điều các em cần làm, là: học biết thế nào là kỷ luật sắt vẫn có trong quân đội. Ở đó, người trẻ có cơ hội được thử lửa bằng thứ đồ chơi của giới trẻ. Ở nơi đó, họ học được cách sử dụng và biết cẩn thận với súng đạn và lúc nào cũng có người kiểm soát và hướng dẫn cho đúng cách. Ở nơi đó, họ cũng sẽ được học lái xe vận tải hoặc xe tăng/thiết giáp để tự biến mình thành người của băng đảng lớn nhất nước. Đó là những gì mà đám nam thanh nữ tú sẽ thấy thích thú và nên làm.

Nếu áp dụng nghĩa vụ quân sự cho đám trẻ chuyên quậy phá ấy, mọi người sẽ nhận ra sự khác biệt xảy đến với lũ trẻ chỉ sau 6 tuần khổ luyện, thôi. Và từ đó, thay vì trở thành đám trẻ hoang tàng quậy phá, bọn họ sẽ tự hào với mọi đổi thay nơi chính mình. Bọn họ sẽ không còn để lãng phí thì giờ nữa, nhưng sẽ tìm ra căn cước mới của mình. Và khi ấy, họ biết lo cho bản thân họ, vì học được những điều mình cần học, ngõ hầu giúp ích cho đời sống của mình trước khi nghĩ đến chuyện vị kỷ. Khinh suất.” (x. Stirling8, bđd)

            Và, thêm một phản hồi khác từ nữ độc giả ở Úc, cô Susan Reibel Moore, như sau:
           
“Bản thân tôi, nay muốn nói lời cảm tạ Joanna Bogle, vì thấy mình cũng đã mệt mỏi. Nhớ lại, khi con cái tôi đến tuổi niên thiếu, chúng tôi đã chuyển về khu căn cứ quân sự gần Sydney, khu có các cựu chiến binh thế chiến 2 sinh sống. Lúc ấy, tôi thấy đám trẻ quậy phá nhất là lũ cô nhi hoặc những trẻ có người cha bị bệnh tâm thần sau chiến tranh, nên đã khiếm khuyết trách nhiệm trông nom con cái, cho đàng hoàng.

Ở trường, tôi mục kích thấy 2 đứa trong đám trẻ, từng nổi khùng đốt công viên cây xanh trong vùng nữa. Bản thân tôi, hồi còn là thiếu nữ tuổi mới lớn, sống trong hoàn cảnh khá khiêm tốn ở Elizabeth, bang New Jersey Hoa Kỳ, tôi chẳng có bạn nào thiếu vắng tình phụ tử cả. Vì được nuôi dưỡng/giáo dục từ một gia đình đông con gốc Do thái sống với các ông bố rất biết điều, công minh chính trực và các bà mẹ chuyên chăm làm lụng, bà nào cũng được con tôn trọng. Con cái, đứa nào cũng có hiếu và biết nghe lời người lớn.

Tình trạng hỗn loạn hiện thời ở Anh và ở nhiều nơi trên thế giới khiến nhiều người thấy xấu hổ vì cuộc sống gia đình nay vỡ đổ trầm trọng. Ở nhiều nơi, những người lại hiểu về hôn nhân không đúng cách. Nên, mỗi khi nhìn cảnh tượng đau buồn xảy ra như thế, tôi đều ngán ngẫm lắc đầu và thấy bi quan, không biết xã hội này rồi sẽ ra sao..” (x. bđd)

            Và, tiếp theo đây là một phản cảm khác từ người đọc báo có tên là Juan R. Velez, ở Úc:

“Tác giả Joanna Bogle có nhắc đến trường hợp truyền thông ở Anh cũng như bên Mỹ, nay nói nhiều đến tình trạng gia đình và hành xử của con cái. Tôi lại nghĩ: chỉ khi nào nền đạo đức đích thực cũng như gia đình nào chấp nhận nền luân lý thuận theo thiên nhiên, thì mọi người mới duy trì đời sống thân thương êm đẹp được. Còn thì, cảnh hỗn quân hỗn quan đáng buồn vẫn xảy ra ở nhiều nơi, như tại Pháp vào tháng ngày gần đây. Thật ra, nghèo đói/bất công chẳng là cội rễ gây nên cảnh đốt nhà và hôi của bừa bãi như vừa rồi.

Nền luân lý xã hội ở Anh từng căn cứ vào niềm tin tôn giáo, nay dần dà biến mất. Tôi nhớ hồi Hồng Y Newman còn sinh thì, ông thấy trước là chủ thuyết vô thần và đạo rối cũng đã gia tăng tại đất nước này. Ông cũng nhìn thấy hậu quả của nó đang tiến dần đến xã hội ngày nay. Hồng Y Newman từng cảnh báo con dân trong đạo, là: hãy kiếm tìm sự thật mà thi hành. Lời Hồng Y Newman kêu gọi, vẫn vang vọng bên tai ta, mãi đến hôm nay, theo cung cách rất thúc bách.” (x. bđd)

            Và, sau đây là ý kiến của một người gốc Á Châu sống ở Anh, một độc giả mang tên Mal:
                       
“Hiện có cả trăm triệu người trẻ sống khắp lục địa Châu Á chẳng khá giả gì hoặc thừa hưởng chút phúc lợi nào dành cho mình. Thế nhưng, họ đâu có hành xử tệ bạc đến thế. Tuổi trẻ lục địa này, biết chăm lo học hành,chuyên cần làm việc hoặc cũng vui chơi như ai, nhưng điều quan trọng là họ vẫn có gia đình sống rất quân bình, về nhiều mặt.

Thông thường, mọi người đều biết là gia đình mình có êm đẹp thì xã hội mới yên hàn. Gia đình mà gãy đổ, sẽ kéo theo cả một xã hội đi đến cảnh đổ vỡ. Chẳng thế mà, có người cứ vô duyên/vô cớ bảo rằng nước Anh rơi vào tình trạng nát bấy rồi. Giả như xã hội nào cũng thật tình lo cho đám trẻ, thì chắc chắn xã hội ấy đảm bảo được quyền căn bản của dân mình. Chỉ khi đó, quyền lợi của người dân mới được bảo vệ. Xã hội nào nhấn mạnh đến quyền lợi cá nhân/riêng tư, đặc biệt là quyền tự tung/tự tác chỉ hưởng lạc, chắc chắn sẽ lơ là trách nhiệm của mình. Rõ ràng, cổ nhân ở đâu cũng nói câu: Gieo gió gặt bão. Đó là chuyện hiển nhiên, hai năm rõ mười.” (x. bđd)

            Cuối cùng, là ý kiến phản hồi của một người ở Calêđônia từng dõi theo báo/đài, tỏ bày như sau:

“Tôi thấy vấn đề đặt ra ở đây là thiếu kỷ luật cần có trong gia đình và trưòng học. Gia đình, nay thiếu vắng sự hiện diện của người cha, đó là nguyên nhân thấy rõ. Có chuyện buồn cười nữa là: lâu nay, vấn đề “nhân quyền/bình đẳng” vẫn được nói nhiều, nhưng vẫn trở nên tồi tệ, chẳng khá là bao. Với bậc thày cô/giáo chức ở trường, lâu nay chẳng mấy ai quan tâm hỗ trợ khi thày cô đã bị đuổi sở rất dễ dàng, chỉ vì dám ra kỷ luật cho học sinh dù chúng thuộc loại cá biệt, hết thuốc chữa. Thêm vào đó, chẳng ai buồn hỗ trợ các vị ấy, dù thấy trái. Chẳng ai lấy làm lạ khi xã hội nay đi dần vào chỗ bế tắc với đám trẻ chẳng chịu học hành. Làm việc, thì chẳng bao giờ làm cho ra hồn, thì sao mà khá được.

Nền luân lý truyền thống nay bị chê bai/nhạo báng. Thêm vào đó, sự kiện ai cũng thấy rõ đó là: ta đang rẽ vào con lộ nhỏ không đúng hướng. Thế nên, cần trở về và tìm cho đúng hướng mà đi, chứ đừng tiếp tục theo con lộ có vỉa hè đổ nát, sạt lở như bây giờ.” (x. bđd)

            Mỗi khi “sự cố” xảy đến, người người thường tìm cách viện dẫn đủ mọi lý lẽ để biện minh, hoặc chạy tội. Có vị đã không chạy và cũng chẳng chữa. Nhưng, quay về với Lời Vàng Sách Thánh có đoạn thánh sử ghi lại tình tiết bi quan trong Hội thánh. Trong đó, Đấng Thánh Hiền từng nói:

                                    ““Lạy Cha, xin tha cho chúng,
vì chúng không biết việc chúng làm."
                                    (Lc 23: 34) 

            hoặc:

“Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau,
nếu ai có điều gì trách móc kẻ khác.
Như, Chúa đã tha thứ cho anh chị em thế nào,
thì anh chị em cũng vậy. Anh chị em hãy mặc lấy đức mến,
là giềng mối của sự trọn lành.”
(Co 3: 13-14)

             Về tha thứ, đấng bậc nhà đạo từng chung đụng với người trẻ ở trong cuộc –tức cùng sống ở trong vùng nhạy cảm này- đã có phản cảm hơi khác. Phản cảm ấy, phản ánh tình cảm vẫn có với dân con trong đời, dù con ấy dân nọ còn trẻ nữa hay không, cũng như sau:

“Sáng hôm ấy, tôi cùng với người bàng quan đứng rất đông xem và đọc các hàng chữ có thông điệp ghi phản ứng về cuộc loạn náo hồi tuần rồi, có viết: “Nhân quyền nay đi quá xa!”; “Dĩ nhiên phải công bình, nhưng có chăng tình thứ tha?”; “Họ là con cháu của mình, nên cần hỏi xem mình đã làm gì sai quấy?”…Bên kia đường, là cửa hiệu bán đồ tiệc tùng liên hoan mà người chủ tiệm từng có thói quen trích ra một số lợi nhuận để giúp chăm lo cho giới trẻ.

Cách đây ba năm, Quỹ Nhi Đồng Liên HIệp Quốc đã cảnh báo xếp nước Anh vào hạng áp chót trong số các quốc gia chăm lo cuộc sống an lành của trẻ em. Lúc đó, cũng có báo động chuyện giá trị của đám người trẻ là do người cùng trong nhóm tạo ra chứ không do các bậc trưởng thượng định đoạt. Có lẽ ta cũng nên đặt vấn đề với nhà cầm quyền rằng: “Các vị lâu nay đã làm được gì hầu cải tiến chuyện ấy?”     

Nay vẫn thấy, cách biệt giữa người giàu/kẻ nghèo ngày càng rộng lớn. Người nghèo cứ nghèo đi, trong khi giá trị của con người lại được đo đạc bằng của cải của mỗi người. Đó là việc làm rất nguy hiểm. Các bộ trưởng trong chính giới cầm quyền lại chỉ đổ lỗi cho chủ nghĩa cơ hội về những xáo trộn xảy ra trong xã hội mà không có phương cách hỗ trợ, đổi thay thì có thể nói thế theo cung cách nào đó. Tuy nhiên, nếu để như vậy thì tội ác ở mức độ này vẫn còn đất để dụng võ.

Cũng thế, những điều xảy ra hồi tuần qua, là triệu chứng của tình trạng phiền muộn/khó chịu đang len lỏi bên trong đám người trẻ, đến độ đưa họ vào tình trạng tuyệt vọng, không lối thoát. Thêm vào đó, là sự việc chính phủ huỷ trợ cấp giáo dục xưa kia đã giúp họ nán lại để học hành sau tuổi 16. Rồi, đến lệ phí đại học mà họ phải đóng vào năm tới cộng thêm với chuyện viễn ảnh của người trẻ có khả năng để làm chủ căn nhà của mình. Nhất nhất đều khiến họ thấy hệ thống phúc lợi nay có vẻ như chống lại họ. Và, đó là điều không tốt, đối với họ.

Thêm vào đó, còn có sự nghi ngờ đồn đoán, dù đúng hay sai, rằng: người nghèo là kẻ phải hứng chịu ngân sách cắt giảm nhiều nhất. Bởi, chính quyền sẽ không kham nổi những rắc rối và sợ rằng doanh thương/doanh nghiệp sẽ có hướng chạy ra nước ngoài để kiếm lợi nhuận. Thành thử, các lỗ hổng thiếu hụt ngân sách của xã hội lại càng cấp bách và phức tạp như chuyện cắt giảm nợ nần mà nước mình đang gánh chịu. Điều này, đòi ta phải coi lại đường lối mình chủ trương để đầu tư vào một nền văn hoá trong đó người trẻ và gia đình có cơ phát triển nhiều hơn.

Mặt khác, chất lượng giảng dạy cho trẻ cũng là việc cần tranh luận. Có thế, mới đảm bảo được tương lai mai ngày. Và nhà trường cũng nên nhận trách nhiệm về những chuyện vừa xảy đến, là: sự thiếu vắng tình thương nơi giới trẻ. Có lẽ mọi người cũng nên lắng nghe các đấng bậc có kinh nghiệm trong giảng dạy rất chuyên nghiệp.

Thiếu vắng tình thương ở trường, nay song hành với chuyện xảy ra hồi tuần rồi, ở Anh. Nó bao gồm cả chuyện tha hoá mục tiêu và ý định của thể chế chính trị. Cả việc nó đang rút chân khỏi cuộc sống của chính mình. Sự thể là, nền giáo dục ở trường lớp nay đã biến thể qua sự việc đám trẻ nay tỏ bày sự bất ưng, như: trốn học; hoặc đáng báo động hơn, như: cướp bóc, hôi của, phá phách, những hình thức rất bạo động. Thiếu vắng tình thương, nay được diễn tả bằng sự kỳ thị sắc tộc, đẳng cấp xã hội. Chính vì thế, nên nhà trường nay được coi là nơi chốn không còn thích hợp với họ nữa. Trường học, nay là nơi tạo phiền muộn cho kẻ thiếu vắng tình thương, vì các cơ quan công quyền cứ hay tỏ bày chống đối lại người trẻ như họ. Cuối cùng, thách thức cho ta hôm nay là: thay đổi lối cảm nhận ấy.

Một mặt, nguyên do của thiếu vắng tình thương thấy xảy ra rất nhiều và vẫn mang hình dáng của nhiều tầng lớp khác nhau, khiến nhiều người chọn đứng ở ngoài. Điều đó còn dẫn đến tình trạng, là: đám trẻ chưa từng nhận tình thương yêu đậm đà như thế, nên hậu quả sẽ đương nhiên cứ thế mà tiếp tục, và khó lường.

Điều dễ thấy, trước mắt là: người trẻ bất ưng nay tỏ ra tức giận, nên đã tập trung sự giận tức của mình vào những người mà họ nghĩ là họ có trách nhiệm để hả cơn nóng. Thứ đến, nhiều người trẻ lớn lên trong tình trạng không đủ tự tin, và vẫn muốn có được đức tính ấy bằng cách tạo cho mình có được nhiều thứ, dù thứ đó không phải của mình, hoặc dành cho mình. Hoặc, cũng có khi họ cũng tham gia băng đảng để có cuộc sống dễ chịu; hoặc có được thứ quyền khả dĩ mang lại cho họ những thứ họ muốn. Nói tóm lại, họ thiếu môi trường dưỡng dục làm nền cho việc đào tạo giá trị, đạo hạnh làm nguyên tắc và hành trang để thách thức tính vị kỷ của mình.

Ở môi trường như thế, những gì mà các cơ sở giáo dục đang ra sức cung cấp cũng nên dành cho trẻ nhỏ và các thiếu niên đã rời ghế nhà trường và cho cả chúng ta hết thảy, có cơ hội được một nền giáo dục thoả đáng. Không thể một sớm một chiều ta cải tổ được nền văn hoá cuộc sống gia đình nghèo, nhưng ta vẫn có thể làm cái gì đó cho họ, những người đang thiếu thốn đủ thứ, lại không đủ bản lãnh hầu giúp họ đầu tư cho tương lai của họ.

Trường lớp, là nơi dưỡng dục các giá trị đạo hạnh cần có, nên đám người trẻ cần nhận biết điều ấy. Thành thử, bằng vào cố gắng riêng tư có sự hỗ trợ của nền giáo dục, cũng nên ra chương trình giảng dạy  rộng đủ khả dĩ giúp người trẻ phát triển, dù rằng vì còn trẻ, nên họ cũng cần có dịp vui chơi/nô đùa khả dĩ giúp họ tạo niềm tự tin, thăng tiến sinh hoạt xã hội, nhận lãnh trách nhiệm cho chính mình, đạt kỹ năng làm việc theo đồng đội, và trở thành lãnh đạo, về sau này. Đó là lý do tại sao âm nhạc, thể thao, và kịch nghệ đều rất cần. Người trẻ cần đóng vai lý tưởng để tạo cho mình các giá trị đạo đức do nhà trường dạy dỗ. Và, chính nhà trường cũng phải nói lên rằng: “vấn đề là ở nơi anh, nơi chị”. Có làm thế, thì nhà trường mới mong tạo hy vọng và sáng kiến đem đến cho tuổi trẻ được.

Tuổi trẻ và gia đình, phải nhận trách nhiệm về những gì mình làm. Đồng thời, chính quyền cũng phải làm thứ gì đó mang tính văn hoá, xã hội và kinh tế để giải quyết những xáo trộn có thể xảy ra. Vấn đề là, chính quyền cần khích lệ nhiều người tham gia tự nguyện tạo lợi ích chung cho mọi người, kẻ cả tuổi trẻ. Bộ trưởng sở quan hoặc các vị có trách nhiệm cần cân nhắc việc cắt giảm ngân sách làm sao để đừng tạo nên những hậu quả xấu xa cho xã hội. Đồng thời, cũng nên học hỏi nơi các nhà chuyên môn từng đối đầu tuổi trẻ thiếu tình thương và đã tạo môi trường thăng tiến sự tự tin cũng như giá trị đạo hạnh cho họ.

Ta cần nền giáo dục nào chú trọng nhiều vào việc đào tạo người trẻ của ta, vì chính họ là tương lai của doanh thương kỹ nghệ. Chuyện cấp bách nhất, là tạo đối thoại về sự đồng thuận lập nền tảng giá trị và đạo hạnh, khả dĩ đem đến cho người trẻ và gia đình họ một địa bàn đạo đức, tức công việc khá phức tạp trong bối cảnh của xã hội đa văn hoá và phóng túng của ta hiện giờ. Phức tạp thật đấy, nhưng ai sẽ là người trả giá nếu không đổi thay đây?

Hồi thập niên ’40, linh mục Dòng Tên người Chi lê là lm Alberto Hurtado từng viết: “Giáo huấn xã hội của Hội thánh phải thăng tiến thái độ của những ai không tuân thủ sự sai trái của xã hội. Thế nên, thách thức hiện thời gửi đến thủ tướng Cameron và cho cả xã hội lớn của ông là: làm sao thuyết phục được mọi người vì lợi ích chung, ta cần trả thêm chút thuế má để đầu tư cho tương lai đám “trẻ người non dạ”, trong xã hội của ta.” (x. Lm Michael Holman sj, Balm for disaffected youth, The Tablet 20/8/2011, tr. 6-7)

            Nói kiểu “điều hay lẽ phải” cho người trẻ, là nói như thế. Tức, không chối bỏ sự thật đang diễn ra mỗi ngày, ở đây. Nói kiểu “vui chơi/bông đùa” để người trẻ vui mà sống, là nói như truyện kể sau đây:   

                        “Truyện rằng,
 Hai bạn trẻ lâu ngày gặp nhau, không dài dòng thắc mắc, đi ngay vào câu chuyện:
-Này, tớ thấy mặt mũi cậu lúc nào cũng thểu não, thế công chuyện làm ăn rày ra sao? 
-Làm với ăn gì đâu, chỉ có ăn mà không có làm, thế đấy cậu ạ.
-Sao lại thế? Vừa rồi tớ có nghe nói là cậu kiếm được một chỗ làm béo bở, lắm mà?
-Béo với bở gì đâu, tớ kiếm được công việc rồi, nhưng lại bị đuổi sở ngay hôm mới tới.
-Thế bộ, cậu mới đi làm đã dám quậy phá cơ sở rồi sao?
-Không dám đâu. Tớ chỉ là nghe theo lời dặn dò của người phụ trách cấp việc thôi.  Chả là, người phỏng vấn có dặn tớ là: ngày đầu nhận việc, tớ chỉ nên mang cà vạt đỏ mà thôi. Tớ làm đúng như thế, vậy mà bà xếp lại đuổi tớ ra khỏi sở ngay vì tội “cung xúc tu sỉ”. Chả biết tại tu sỉ  hay tu sĩ gì rào trọi. Bị đuổi việc cách vô cớ như thế chứ. Cậu có ý kiến gì không?...”

            Sao lại thế, vẫn là câu hỏi của nhiều người. Hệt như câu nhắn của nghệ sĩ, vẫn cứ hát:

“Anh ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời?
Khi xa anh rồi, em biết yêu thương ai!
Nên khi yêu nhau, thì yêu cho trọn đời
Anh ơi, ta sống được bao.”
                        (Y Vân – bđd)

            Đúng thế. Nghĩa là: sống ở đời, người trẻ muốn có đời sống cho đáng sống, chắc hẳn phải có nhiều sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội, giáo dục và tôn giáo. Thực hiện chuyện ấy có là điều khó khăn chăng? Phải chăng đã đến lúc người người cần thay đổi lối sống? Và, có nên học hỏi rất nhiều điều từ các xã hội cổ xưa nhưng rất ổn. Bởi lẽ, có vui chơi quậy phá hoặc đòi hỏi nhiều thừ nơi người khác, thì cũng nên quay về với lời ta vừa hát: “Anh ơi, ta sống được bao.” Sống được bao, là sống thế nào? Sống giống ai? Theo ai? Mà làm gì?

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn cứ hỏi và chỉ nhắn
            những điều mình đã hiểu và đã biết,
có thế thôi.

Friday 9 September 2011

Đừng lừa dối nhau


“Ðừng, lừa dối nhau”
“Ðừng nói "yêu",  khi ta gần nhau”
“Ðừng, lừa dối nhau”
“Vì biết đâu, tin nơi tình yêu…”
(Y Vân – Đừng Lừa Dối Nhau)
(Mc 10: 21-22)
            Có những chữ “Đừng!”, mà khi đã nói ra hay nói vào, thì chính người nói lại vẫn cứ mừng. Mừng, là vì nói thì nói thế, chứ nhiều lúc người nói vẫn bảo và vẫn hát bằng câu ca: “Anh cứ hẹn nhưng xin anh “đừng” đến nhé!”. Bảo và hát như thế, thì có ma nào hiểu nổi? Và, ai mà theo được?
            Thẳng thừng ra, thì bà con anh em mình chỉ hiểu chữ “đừng” là “chớ nên”, mà thôi. Chứ, làm sao hiểu nổi “lời hay ý đẹp” cũng rất “đừng”, như giòng nhạc của nghệ sĩ, có ca từ như sau:

                                    “Hãy, giữ lấy hồn ta
Ðừng cho ước mơ, gọi lòng say sưa
Thấy, khi đôi vai kề
Chắc đâu duyên thề, mà mơ.”
(Y Vân – bđd)

            Ấy đó là chuyện đời người chỉ xảy đến, ở cuộc đời. Còn chuyện trong/ngoài nhà Đạo lại sẽ thấy khác. Khác ở điểm, là: nhà Đạo mình nói “một là một, hai là hai”, như những câu khuyên đầy tính chất giáo dục, như sau:

                        “Đừng để nhìn thấy nụ cười của ai đó rồi mới cười mỉm lại.
                        Đừng đợi đến khi được yêu thương mới thương yêu lại.
                        Đừng đợi đến khi cô đơn mới nhận ra giá trị của tin nhắn.
                        Đừng đợi đến khi có một công việc thật vừa ý rồi mới bắt đầu làm việc.
                        Đừng để đến khi mình sở hữu thật nhiều, rồi mới san sẻ đôi chút.
                        Đừng đợi đến khi làm người khác sầu buồn, rồi mới đi xin lỗi.
Đừng hạ thấp giá trị của mình bằng những so sánh chính mình với người khác. Bởi mỗi người là một nhân vị khác biệt, có giá trị rất khác nhau.
Đừng mải mê đeo đuổi mục tiêu nào mà người khác cho là quan trọng, vì chỉ chính mình mới hiểu rõ các mục tiêu là tốt cho mình.
Đừng ngần ngại học hỏi. Bởi kiến thức là tài sản vô hình luôn là hành trang vô giá theo mình suốt cuộc đời.
Đừng ngại mạo hiểm để làm điều tốt vì ít nhất bạn cũng học được cách sống dũng cảm, qua mạo hiểm.
Đừng phí phạm thì giờ hoặc lời nói thiếu suy nghĩ, vì cả hai thứ qua đi, đều không thể lấy lại được…” (trích điện thư một bạn vừa gửi đến, như bươm bướm)

            Chẳng biết là, người nghệ sĩ viết giòng nhạc đầy những thơ luôn có câu: “Đừng, lừa dối nhau”, phải chăng ông đã thực sự nghe theo lời dặn của bạn đạo ở trên không? Duy có điều chắc, là: nghệ sĩ nay đã lặp đi lặp lại những tiếng “Đừng”, từng nghe quen:

                                    “Đừng lừa dối nhau,
để xót xa trăng thanh ngày xưa.
                                    Đừng lừa dối nhau,
để tiếc thương, mang trong lòng ta.
                                    Nếu, đã biết tình yêu,
một người bước đi, một người mag theo.
                                    Hối tiếc bao nhiêu lời,
                                    đã trao cho người, mình yêu.”
                                    (Y Vân – bđd)

            Sự thật, mất lòng. Ngôn từ nhà Đạo khi xưa cũng mang nhiều ý nghĩa cũng tiêu cực như: “đừng có”, hoặc: “chớ nên” như chuyện hỏi/đáp giữa cố đạo và con dân ở xứ họ nọ, có lời hỏi/đáp rất như sau:

“Câu hôm nay con muốn hỏi Cha là: người giáo dân mà làm đám cưới “ngoài nhà thờ” với người nào đã ly dị rồi, vậy thì người đó có được rước Mình Thánh Chúa không? Con cũng biết là, phía người ly dị thì không thể; nhưng, còn người kia chưa từng lập gia đình với ai bao giờ, thì sao? Lý do khiến con đưa ra câu hỏi này, là bản thân con cũng biết nhiều vị vẫn lên rước Mình Chúa như thường, đượng nhiên là cha xứ cũng thừa biết chuyện này.

                        Đấng bậc nhà Đạo hôm nay nghe hỏi, sẽ lại trích dẫn giáo luật và/hoặc luân lý như mọi khi. Có trích dẫn gì đi nữa, cũng là để giúp giáo dân sống “tốt Đạo đẹp đời”, như thực tế cuộc đời vẫn có những sự kiện rất “tréo cẳng ngỗng” như đức ngài đề cập, rất sau đây:

“Vấn đề này làm tôi nhớ đến tình hình của Thượng Hội Đồng Giám Mục gặp gỡ ở Rôma vào tháng 10 năm 2005 để bàn về Tiệc Thánh Thể, hôm đó Đức Hồng Y Lopex Trujillo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Gia đình, đã minh định với Thượng Hội Đồng rằng: quan điểm của Hội thánh về vấn đề này, vẫn không đổi. Ai cũng biết, ước vọng của các vị làm mục vụ là vẫn muốn giúp bà con đi Đạo trong vấn đề này, nhưng giải pháp nào cũng phải theo đúng với Giáo huấn của Đức Kitô và Hội thánh của Ngài.

Chính Chúa từng nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."(Mc 10: 11-12). Ngay từ đầu, Hội thánh vẫn vâng lời Đấng Sáng Lập rất thánh của mình là không cho phép dân con trong Đạo được ly dị hoặc làm đám cưới một lần nữa, trong nhà thờ. Xem như thế, thì những ai làm đám cưới “ngoài nhà thờ” đều bị coi là đang sống trong tình trạng rất “rối” không thể ngang nhiên rước Mình Chúa đuợc. Điều này áp dụng cho cả những người trước đây đã ly dị một lần và cả cho phối ngẫu của người ấy nữa.

Không phải Hội thánh muốn làm khó trong việc này. Chính Chúa đã dạy Hội thánh điều này và Hội thánh buộc phải trung tín với lời dạy của Ngài. Lời Chúa dạy quyết chủ trương không được phép có sự rạn nứt trong hôn nhân và trong việc thánh hoá hôn phối. Đó cũng là điều khá hệ trọng trong cuộc sống của Hội thánh và xã hội nữa. Và, Hội thánh chẳng muốn áp đặt điều gì lên người phối ngẫu, hết. Bởi, cuối cùng ra, thì cũng chính họ là những người có tự do chọn lựa. Tự do dấn bước vào cảnh tình trong đó họ thấy mình không thể ngang nhiên lên rước Chúa mà không có phép chuẩn của Hội thánh.

Dù họ không phép rước Mình Chúa, Hội thánh với tư cách là mẹ hiền vẫn mở rộng tay chào đón đàn con mình về với các sinh hoạt khác, như: tham dự Thánh lễ thường xuyên, cầu nguyện, đọc sách thánh, tham gia công tác từ thiện, bác ái hoặc một sinh hoạt nào khác trong giáo xứ. Bởi lẽ, cả hai người lẫn cộng đoàn Nước Trời đều hy vọng đợi đến khi nào hai người được chuẩn thuận để nhận đón Mình Thánh Chúa sau khi Toà án Giáo hội đã tuyên bố huỷ bỏ hôn nhân nào, có vào lúc trước. Nhờ vậy, họ mới quyết định sống với nhau như bạn hoặc chờ cho người phối ngẫu kia qua đời, mới thôi.

Mặt khác, mọi người cũng không nên xét đoán điều gì. Chỉ mỗi linh mục mới có quyền cho phép hai người, trong hoàn cảnh này, được rước Chúa, mà thôi. Có thể là, vị linh mục ấy không am tường tình trạng hôn phối của hai người, trước đó. Hoặc có thể là, ngài cũng biết rõ cảnh tình của hai người nay đã đổi thay theo chiều hướng vừa kể, để rồi cả hai đều có thể rước Chúa vào lòng.

Dĩ nhiên, điều mà các linh mục không được phép làm, là: bịt mắt che tai chẳng ngó ngàng gì đến tình cảnh vốn đưa hai người đến chỗ lầm lẫn với giáo huấn của Hội thánh về tính bất khả phân ly, của hôn nhân, như thư luân lưu của chủ tịch Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin lúc ấy là Hồng Y Joseph Ratzinger gửi đến các giám mục trong Hội thánh, ngày 14 tháng 9 năm 1994, với lời lẽ như sau: “Thành viên nào trong cộng đoàn kẻ tin từng chung sống với nhau theo kiểu vợ chồng với người chưa có đám cưới chính đáng thì không thể rước Mình Thánh Chúa được. Dù họ nghĩ rằng mình được phép làm việc đó, thì khi ấy vị mục tử và đấng giải tội phải cắt nghĩa tính cách nghiêm trọng của vấn đề, để rồi có lời giảng giải tốt lành về đàng thiêng liêng cho cả hai.” (1 Cr 11: 27-29) Cũng thế, vì sự tốt lành của Hội thánh, vị mục tử ấy có trách nhiệm rất nghiêm túc là  phải nhắc nhở cho hai người biết rằng nghĩ tưởng như thế là đi ngược lại giáo huấn của Hội thánh.” (x. Lm John Flader, Question Time, Connorcourt Publishinh 2008, tr. 128-129)

            Nói như đấng bậc nhà Đạo vừa trích dẫn ở trên, cũng là nói chữ “đừng” rất thẳng thừng. Mạnh bạo và bài bản. Bài và bản, ở chỗ: “chớ nên làm” và “đừng làm” những gì mà giáo huấn Hội thánh không cho phép. Nên chăng, những luật lệ gồm nhiều chữ “đừng” và “chớ” vẫn lạc lõng ở xã hội hiện giờ? Những luật và lệ xa lạ với người trẻ, tựa hồ như chia rẽ dân con mọi người, khiến ai nấy đều sợ sệt, chỉ nhắm thực hiện điều tiêu cực, mà thôi? 
            Nói chữ “đừng” như thế, là kể thêm một loại hình như “kinh cầu (đầy những) chữ”, với tiếng “đừng” và “đừng”, rất nên mừng còn thêm:                    

“-Đừng quên hy vọng, bởi niềm hy vọng mang lại cho bạn sức mạnh để tồn tại, khi bạn bị bỏ rơi.
-Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân, chỉ cần tin mình có thể làm được. Và khi đó, mình có lý do để thực hiện những chuyện đó.
-Đừng lấy của cải vật chất để đo lường thành công hoặc thất bại. Bởi, chính tâm hồn mỗi người mới xác định được mức độ “giàu sang” của cuộc sống.
-Đừng để khó khăn đánh gục mình, vì đó là niềm hạnh phúc nhất của riêng mình.
-Đừng chờ đợi những gì mình mong muốn, nhưng hãy tìm kiếm chúng.
-Đừng chối từ nếu mình còn có gì để cho người khác.
-Đừng ngại ngần thừa nhận rằng mình vẫn chưa trọn hảo.
-Đừng ngại đối mặt với thử thách. Chi khi thử sức, mới học được tính can đảm.
-Đừng đóng cửa con tim và cản trở tình yêu thương đến với mình chỉ vì chính mình nghĩ rằng không tìm ra được nó. Cách mau chóng nhất để nhận được tình thương là cho đi. Cách nhanh nhất để mình mất đi tình thương là giữ chặt nó, cho riêng mình. Hãy cho nó đôi cánh để tự bay đi, mỗi khi cần.
-Đừng đi quá nhanh trong sự sống để quên mất là mình đang ở nơi nào; thậm chí, quên rằng mình đang đi trên con đường của hạnh phúc.
-Đừng để quên nhu cầu cảm xúc cao của mỗi người là có được sự tôn trọng.
-Đừng ngại học hỏi. Kiến thức không có giới tuyến. Kiến thức là kho báu ta có thể mang theo, vào mọi lúc.
-Đừng sử dụng thời gian hay ngôn từ bất cẩn, vì hai thứ ấy, không thể lấy lại.    
-Đừng bao giờ cho mình đã thất bại khi mọi kế hoạch cũng như giấc mộng của mình bị sụp đổ. Bởi, biết thêm điều mới mẻ chính đó là lúc mình đã tiến bộ rồi.
-Đừng quên cười mỉm trong cuộc sống.
Đừng ngại tìm người bạn đích thực. Bạn bè là điều cần thiết trong cuộc sống.
Cuối cùng, đừng quên ơn những người đã trao tặng mình cuộc sống hôm nay kèm theo tất cả những gì mình cần có. Bởi, con cháu đời sau sẽ coi mình như gương lành cho chúng…” (trích điện thư bạn bè vừa gửi, mới đây thôi).

            Đừng gì thì đừng. Có “đừng” cho lắm, cũng bấy nhiêu thôi. Bởi, cuối cùng ra, chớ có ngừng lại khi đã cảm thấy thoải mái trong yêu thương. Nâng đỡ. Giùm giúp lẫn nhau. Bởi, Đấng Nhân Hiền Chí Ái vẫn nói nhiều, khuyên nhiều chữ “Hãy” hơn là từ ngữ “Đừng”, ở Tin Mừng. Như sau:

                                    “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh thanh niên 
và đem lòng yêu mến.
Người bảo anh ta:
"Anh chỉ thiếu có một điều,
hãy đi bán những gì anh có
mà cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi."
(Mc 10: 21-22)

            Ngoài nhà Đạo, nghệ sĩ đời cũng nhấn mạnh đến ca từ chứa chan hy vọng ở câu điệp khúc:

                                    “Nhưng, tình yêu ngờ đâu
                                    là mây theo gió đưa.
                                    Nên, nhiều khi mộng mơ
                                    làm quên bao xót xa.
                                    Ngày đến, bao mặn mà
                                    Ngày bước đi hững hờ
                                    vì trót yêu, nên đành
                                    Người quên vẫn quên
                                    Người thương vẫn thương…”
                                    (Y Vân – bđd)
           
Bởi thế nên, một khi bạn và tôi ta thực hiện được chữ “Hãy” ở trên, thì cuộc sống của tôi và của bạn, sẽ không còn gì để kèm thêm chữ “đừng” vào cuộc sống nữa. Thế đó, là đề nghị của bần đạo cũng như bạn đạo, rất hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai
cũng có những đề nghị
rất nho nhỏ.
Trong cuộc đời.