Saturday 25 July 2015

“Tôi có người em nhỏ”,



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 18 thường niên Năm B 02/8/2015

“Tôi có người em nhỏ”,
Xanh xanh đôi hàng mi
Môi hồng vừa đương độ
Chưa biết sầu biệt ly.”
(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang - Người Em Nhỏ)

            (Êphêsô 5: 1-2)
Nghe anh hát, tôi lại bảo: có người Em nào mà chẳng nhỏ lại vẫn “xanh xanh đôi hàng mi” cơ chứ! Nếu không thì, ai ai cũng sẽ gọi người ấy là “em họ” hoặc “Em” theo nghĩa học trò, người xa kẻ lạ ít tuổi hơn. Ngôn-ngữ người mình văn-hoa là như thế. Văn hoa, có nghĩa như gió thoảng/mây trôi lại mang tính thi-ca, ngọc ngà ướt mượt. Chả thế mà, nghệ sĩ nhà mình lại sẽ hát thêm:

“Ngày tôi đi vàng nắng
Nghiêng nghiêng một hàng cau
Mai ta nhìn mây trắng
Gửi lời về thương nhau
Chiều nay buồn viễn xứ
Nhớ người em gái xưa
Tôi thấy phương trời cũ
Giăng giăng một hàng mưa.
Mơ về đôi môi thắm
Cười ngày tôi lên đường
Quê ta chừng xa lắm
Giờ em có nhớ thương.”
(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hỏi rằng: “Giờ Em có nhớ thương”, hay còn hỏi gì đi nữa, cũng bằng thừa. Bởi, đã là người em rất nhỏ rồi, thì chắc hẳn ai cũng đều thương, đều nhớ. Thương và nhớ, cả một thánh hội toàn những người/anh người chị thân thương, đầy ý-nghĩa.
“Giờ Em có nhớ thương” hay sao đó, vẫn là nỗi nhớ niềm thương của người em hoặc anh hoặc chị cứ là dắt tay nhau đi vào vùng trời ở Vương Quốc Nước Trời nay gần gũi có những lời nhắn-nhủ, dài muôn thuở, như sau:

“Anh chị em hãy bắt chước Thiên Chúa,
vì anh chị em là con cái được Người yêu thương,
và hãy sống trong tình bác ái,
như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta
và vì chúng ta,
đã tự nộp mình làm hiến lễ,
làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”
(Êphêsô 5: 1-2)

Hôm nay đây, người người trong nhà Đạo lại vẫn nhớ không chỉ mỗi lời nhắn của đấng thánh hiền tên gọi Phaolô mà thôi, nhưng còn nhớ cả những lời của Đức Giáo Tông Phanxicô hôm rồi gửi đến bà con, những lời như sau:

“Hôm 21 tháng 5 năm 2015, Đức Phanxicô có nhắn-nhủ bà con thân thuộc của vị sĩ-quan Cảnh Sát bị bắn chết hoặc bị thương trầm trọng, những lời như: Xã-hội hôm nay, còn mắc nợ gia đình ta sự thể là người thân của quí vị đây, đã sống đời chân-phương, ngoan-cường, trật-tự.” Đức Phanxicô lại đã ca ngợi các vị đang làm việc trong cơ-quan công-quyền vẫn có lòng quả-cảm giúp giùm người bị nạn cũng như đã ngăn chặn các can-phạm hùng hổ, tấn-kích người hiền ở xã hội. Các sĩ-quan đây như người thân của quý vị, đã không quản-ngại mọi hiểm nguy có thể xảy đến với mình, cả mạng sống có khi lại mất đi cũng không nản lòng trong khi thi-hành phận-sự trong công-quyền. Tiếc rằng, ở xã hội khác, nay lại để mất đi quyết-tâm quả-cảm ấy nên mới gây tai-hại cho mọi người…” (xem tin tức trong tuần trên The Catholic Weekly ngày 31/5/2015, tr. 3)    

            Lời nhắn nhủ, từ các đấng bậc ngoan-hiền ở thánh hội, lâu nay thì như thế. Trong đời đi Đạo của mỗi người và mọi người, chắc chắn việc này từng xảy ra cũng không thiếu. Bởi thế nên, nghệ-sĩ hôm nay lại có ý/lời ca-tụng những người “em nhỏ” trong đời những lời êm ái sau đây:  

“Tôi có người em nhỏ
Xanh xanh đôi hàng mi
Môi hồng còn đương độ
Đã biết sầu biệt ly.”
(Nguyễn Hiền – bđd)

“Sầu biệt ly” đây, có thể là nỗi sầu cũng khó hiểu, do ngộ nhận hoặc sao đó. Nhưng, “sầu ly biệt” này có thể là thứ “sầu buồn” như nhận-định của đấng bậc chủ-quản ở chốn chop bu nhà Đạo khi ngài nói về tình-trạng của xã-hội hôm nay.
“Sầu biệt ly” hôm nay, không chỉ vì Facebook, Twitter, SMS hoặc nhiều thứ trên vi-tính hoặc điện-thoại khôn-ngoan từng đem lại cho cuộc sống vội vàng, chụp-giựt, lười suy-nghĩ.
“Sầu ly-biệt” hôm nay và mai ngày, còn là mối sầu khó tả cứ lai rai, trải dài nơi cuộc sống gia-đình không còn theo khuôn phép cũ/xưa, nhưng rất khác. Khác, về tập-tục lẫn lề-luật cùng cung-cách phụng-thờ, tin-tưởng, khiến nhiều bậc thức-giả trong Đạo, ngoài đời từng bận-tâm tìm nhiều phương-cách để giải-quyết.
Một trong các phương-cách rất thức-thời được đấng bậc chủ quản khi xưa từng tỏ bày bằng những ảnh-hình so-sánh cuộc sống có niềm tin với vụ nổ ở vũ trụ năm nào, như sau:

“Khoa học từng nói cho tôi biết thế giới hiện ta đang sống, lại đã bắt đầu bằng vụ nổ Big Bang từ lâu lắm. Trong khi đó, niềm tin đi Đạo lại bảo tôi, rằng: Big Bang, chính là vụ nổ do Thượng-Đế làm để tỏ-bày Tình Thương của Ngài đối với ta. 

Tôi không có khả-năng đưa ra đây bất kỳ chứng-cứ nào mang tính tính khoa-học về niềm tin của ta, nhưng đó là một trong các giải-thích đem đến với mọi người sự thoả-mãn tốt đẹp nhất tìm thấy được ở quanh ta, cả vũ-trụ vật chất lẫn tâm-tư, cũng như tâm-can của chính mình.

Trước nhất, là lượng-mức lớn-lao vẫn trộn lẫn với nhau cách hài-hoà nơi nhân-sinh vũ-trụ, vạn-vật. Và rồi, qua khoảng cách thời-gian kéo dài tưởng chừng như vô-tận, nhiều sự-vật vững-chãi/chắc-nịch lại đã thành-hình như trăng, sao, tinh-tú, cùng các giải ngân-hà lại đã đi vào hiện-thực. Thề-giới vẫn được sắc-màu tuyệt-vời, lộng-lẫy; nhưng lại không có tư-duy, cảm-xúc nào thực-tế khả dĩ đáp trả lại tình Thương yêu Ngài từng tạo ra chúng.

Nhiềy tỷ năm qua, mãi cho đến thời mà hành-tinh địa-cầu mở rộng ra để đón chào mọi hình-thái của sự sống ban đầu mà hiện-hữu. Và rồi, từ biển-khơi, sinh-vật đủ mọi loại cũng từ đó bắt đầu chinh-phục đất liền. Và xảy ra, là: tất cả mọi loại-hình cây cối cùng loài thú, cứ thế phát-triển nhưng không một hữu-thể nào dù sinh-động cách mấy lại có được ý-thực ứng-đáp lại Tình Thương Yêu của Thượng Đế.

Cuối cùng thì, chỉ một số rất ít loài thú mới khởi-sự đứng trụ trên đôi chân hiền của mình mà phát-triển sự sống có ý-thức của chúng. Con người, cũng từ từ biến-hoá theo dạng-thức có tư duy, xúc-cảm để rồi cuối cùng cũng tự mình biết đáp-ứng với Tình Thương Yêu của Chúa Trời là Đấng tạo-dựng nên mình.

Từ vụ nổ Tình Thương Yêu rất Big Bang đến giai-đoạn đáp trả đầy ý-thức đối với Tình Thương Yêu của Chúa Trời lại đã kéo dài những 13,8 tỷ năm liền và ngang qua thời-gian dài đằng d0ẵng ấy, Chúa Trời vẫn cứ đợi và cứ đợi. Ngài vẫn đợi mãi, mà không xen vào mọi chuyện của bất cứ loài nào. Ngài vẫn kiên-tâm đến vô cùng vô tận, nên đã cho phép mọi sự được triển-khai theo nhịp-độ và cung-cách của chính nó.

Con người lâu nay, vẫn rắp ranh tìm-hiểu gốc-nguồn và ý-nghĩa của thế-giới, với thế-gian, mặc dù lần rắp ranh đầu thường chỉ dính-dự bằng truyện kể về các thần-linh tranh-chấp với các anh-hùng cùng siêu-nhân.

Và rồi, dân con Israel lại đã biết tin tưởng vào chỉ một Chúa Trời và phát-triển niềm tin-tưởng ấy viết lại cuộc hành-trình đầy đạo-đức lẫn tâm-linh của mình thành truyện kể. Hành-trình này khởi từ ý-tưởng về sự lớn lao/cao cả và trả đũa với hận-thù (Kn 4: 17-24), và rồi tuần tự dấy lên ý-tưởng tôn-trọng phẩm-cách của mọi giống nòi cùng quyền-lợi của loài khác từng tuôn chảy từ phẩm cách này như sách Xuất hành từng nói đến (Xh 20: 1-17). Rồi từ đó, lại có ý-tưởng diễn-tả đòi hỏi mọi loài phải yêu-thương kẻ đồng-loại cùng như phải yêu thương lẫn nhau như sách Lêvi còn viết dặn (Lv 19:18), và cả việc thương yêu Chúa Trời như Ngài từng yêu-thương hết mọi loài (ĐNL 6: 4-9); (Giôna 4: 9-11).

Từ đó đến nay, vẫn có những bước chân âm-thầm tiến về phía trước hoặc lui về dĩ-vãng, như truyện kể về sự tăng-trưởng đạo-đức cũng như tâm-linh phản ánh sự tăng-trưởng trong thiên-nhiên.

Có một vị tên là Giêsu, đến từ Đức Chúa, đã tiếp-nhận mọi sự tốt đẹp từ truyện này, nhưng Ngài còn đưa câu truyện tạo-dựng của Chúa Trời đi xa hơn bằng cách trưng cho thế-giới một mức-độ thương yêu từng phản-ánh từ vụ nổ tình-thương của Đức Chúa trong tạo-dựng. Ngài làm thế, để rồi có hy-vọng là mọi người và mọi loài lại sẽ noi gương bắt chước tình thương yêu này và phát-triển nó trong tăng-trưởng.

Đức Chúa xưa nay, vào mọi lúc, vẫn đợi chờ cho sự tăng-trưởng này được thành-tựu; và nếu cần, Ngài còn chờ, còn đợi mãi bao lâu kế-hoạch thiên-định được thực-hiện. Thiết tưởng, mục-tiêu tối hậu của kế-hoạch Ngài đưa ra là loài người sẽ phải tiếp-tục tặng-trưởng mãi cả về mặt đạo-đức lẫn tâm-linh, theo cách nào đó, cho đến khi biến thế-giới trở về lại với tình thương-yêu từ đó nó xuất xứ. Thật ra, chẳng ai biết được sự việc ấy mang hình-thức như thế nào, nhưng ai cũng tin tưởng là đó là mục-tiêu tối-hậu của loài người. Dù có trải dài thêm 13 hoặc 14 tỷ năm hoặc hơn nữa, cũng được đi, vì Đức Chúa đã biết chờ, thì Ngài sẽ còn chờ, còn đợi mãi cũng không sao.

Đức Giêsu khi xưa từng sống chỉ cách nay có hơn hai ngàn năm, tức một khoảnh-khắc rất nhỏ so với cả tỷ năm tạo-dựng. Và Đức Chúa vẫn cứ đợi cứ chờ bao lâu người theo chân Đức Giêsu cần phát-triển và áp-dụng ý-định của Ngài theo cách-thức nào toàn thể-thế-giới có khả-năng phát-triển cách an-toàn đi vào mục-tiêu tối hậu này.

Mọi chứng-cứ sẽ chỉ-dẫn để ta thấy rằng vào những ngày sớm-sủa nhất ở truyện kể của Đạo Chúa, như nó từng là thành-phần của truyện kể bảo rằng: thế-giới này sẽ quay về với tình thương-yêu là gốc-nguồn từ đó nó được sinh ra.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce & Homosexuality  ATF Press 2015, tr. 2-5)                 

            Trích-dẫn nhận định của đấng-bậc chủ-quản từng chủ-trì Tổng Giáo-phận Sydney, hôm nay, chính là để bạn và để tôi, ta có một cái nhìn chín-chắn về sự tin-tưởng trong sống Đạo giữa đời, có nhiều lời bàn ra tán vào về nhiều thứ.
            Trích và dẫn, không chỉ dẫn và trích những gì được nói hoặc được viết trên giấy trắng mực đen, thôi.
            Trích và dẫn, còn là dẫn-giải về nhiều thứ chuyện trong đời của con người. Những sự và những việc có liên quan đến đời sống của nhiều người trong ngoài Đạo Chúa hay đạo Bụt, ở mọi nơi. Trích và dẫn, còn là cứ dẫn và cứ trích những sự vụ hoặc lời kể ở nhiều nơi, vẫn gửi vể để bà con ta có chút gì mà nhớ mà thương, như sau:   

“Có 5 điều mà các bậc cha mẹ nên học từ các bạn bên đạo Bụt tiếp tục phát triển rộng ở nhiều nước bên phương Tây ít nhiều thì giáo lý của Đạo cũng đã và đang được đưa vào thảo luận quanh đề-tài “Làm sao Trở Thành Bậc Cha Mẹ Tốt. Các khái-niệm về Thiền, Từ Bi, và Chánh Niệm dễ dàng đi vào suy nghĩ của chúng ta; nhưng các khái niệm này thực sự có nghĩa gì trong thực tập?

Tác giả cuốn sách có tựa đề là ‘Brave Parenting’ (Bậc Cha Mẹ Dũng Cảm), lấy hứng từ đạo Bụt về vấn đề làm cha làm mẹ, đã vui thích kết hợp triết lý đạo Bụt với việc làm cha mẹ trong đời sống hằng ngày. Một trong những nguyên tắc rút từ phương pháp này là kích thích sự chín chắn nơi cảm xúc và khả năng tự lực cánh sinh của trẻ/bé. Trong khi đó, việc cha mẹ chu-toàn bổn-phận cũng ngày một dễ dàng hơn.

Tác-giả khẳng định điều đó không có nghĩa mình phải giữ yên tịnh và tĩnh tâm vào mọi lúc. Đây là việc chuyển hóa quan hệ đơn thuần của ta với con cái để có mặt thật sự với con mình. Đây còn trải-nghiệm các cấp-độ cảm xúc mà không tạo phản ứng.

Dưới đây là năm nguyên tắc căn bản lấy hứng từ đạo Bụt hầu giúp bạn trong hành trình sống:
1. Thấy được tâm định tĩnh là tâm vững vàng
Theo đạo Bụt, cuộc sống là một giòng chảy liên tục. Chính vì thế sự ổn định không có từ ngoại cảnh, mà từ cung-cách ta tiếp-cận với nó thế nào: ta có thể gieo trồng hạt giống của tâm định tĩnh.
Hầu hết chúng ta đều có trạng-thái tinh-thần hứng-khởi rồi huỷ-diệt trong các hoạt động thường ngày. Ta tiếp-cận chúng với động-thái xấu/tốt lẫn lộn. Chẳng hạn như, bằng cách ôm hôn, cười với con là đều tốt; cả khi bị kẹt xe và trễ giờ đi họp có thể là xấu. Đạo Bụt khuyên ta nên xem các sự việc ấy bằng tâm xả. Vạn vật đều như thế. Và chính mình cũng cảm nhận cách sâu sắc sức mạnh nằm ở việc chấp nhận như thế. Bạn có thể dạy con cái mình bằng tấm gương của chính mình. Thiền tập như thế là cách hay nhất để nuôi dưỡng hạt giống tâm-định rất tĩnh.
2. Mỉm cười với vô thường
Văn hóa của ta, phần lớn đều lo ngại do bởi ý niệm vạn-vật vẫn liên hồi thay đổi. Ta thích lề thói, tập quán và mọi sự vĩnh cữu. Nhưng, Bụt dạy: vạn vật vẫn liên-tục vận-động và hơn nữa, tất cả đều vô thường.
Ta không muốn bị bệnh tật hoặc chết chóc, nhưng chính những cái ấy là một phần của cuộc sống. Có sinh có diệt. Điều đó là chuyện tự nhiên của kiếp người, thôi! Ta có thể dạy con biết điều này không làm cho chúng sợ  mà cho chúng hiểu về quá-trình của kiếp sống: hoa cũng tàn, cây trái cũng có ngày bị hư hoại, lá vẫn rơi rụng vào mùa thu.
Trong cuộc sống hàng ngày, ta học cách chấp nhận hơn là lo sợ, đó là sự chuyển vận to lớn. Ta dạy cho con cái biết: thay đổi là việc tự nhiên. Và cách tốt nhất để am-hiểu lẽ vô thường nơi vạn-vật là thái độ cảm-hoá biết ơn vào mỗi ngày mình sống, bởi mỗi ngày đều duy nhất, rất khác biệt.
3. Hãy nói ‘Cũng tốt thôi!’ với những điều mình đang lo lắng
Người thường đều rõ biết, do tính vô thường mà nỗi-niềm lo lắng luôn tiềm-ẩn, tồn tại. Nỗi niềm ấy là dấu hiệu cho thấy có cái gì đó ‘không ổn’; nó là trải nghiệm của tình trạng sống trong thế giới vô thường này. Thế nên, đây không là những gì ta có thể tự ‘chỉnh sửa’ nơi người mình, cũng như nơi con em của ta. Nỗi-niềm lo-lắng là cảm xúc thường-tình mà mỗi người đều cảm nhận. Nỗi-niềm chịu đựng sự việc như thế sẽ chóng tiêu tan khi ta nhận diện và chấp nhận nó.
4. Biết quan tâm đến những cảm xúc của trẻ; các cảm xúc ấy được Đạo khuyến khích ta quan tâm ngang qua những thăng trầm của cuộc sống và nhận biết rằng ta đang trải qua giai-đoạn đó. Chính vì thế, mà mọi cảm xúc đều không xấu, không tốt. Người người nên nhận biết cho đúng cảm xúc ấy để hiểu được rằng: chúng là những ‘nhân tố’ báo cho ta biết tình trạng hiện thời của ta ra sao.
Hiểu được sinh khởi và hoại diệt của cảm xúc, ta sẽ dạy cho con cái mình biết đối diện với cảm xúc của chúng theo cách tự nhiên nhất. Đó là  bình-an trú-ngụ trong hiện tại và trải nghiệm được cảm xúc ấy cho tới khi chúng biến mất. Bậc cha mẹ không cần xen vào việc tiến-trình này để chỉnh-sửa hay chuyển-đổi cảm nhận của con cái.
5. Tin rằng con mình đủ sức tự lập
Trong đời sống hàng ngày, dĩ nhiên có mất mát và thất vọng. Các bậc phụ-huynh ngày nay thương yêu bảo bọc con em mình khỏi mặt trái của cuộc sống và đây là bản năng tất yếu, không thoát khỏi. Tuy nhiên, ta cũng thách-thức bậc phụ huynh để cho con mình tự giải quyết các vấn đề do chúng mắc phải.
Các vấn đề mà trẻ thường hay mắc phải là sự thất vọng trong sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy khó khăn khi mang bài tập về nhà, hoặc cứ cãi vã với anh chị, bạn bè, hoặc chống-đối nội quy, công việc, v.v.... Khi con em được phép đấu tranh, chúng có xu hướng khởi-đầu giải quyết vấn đề và tập sống tự lực trước mọi khó khăn cũng như các thuận lợi của cuộc sống mà không cần cha mẹ giúp đỡ.
Đại sư Tịch Thiên từng dạy, là: ‘Đi trên đất với đôi chân trần bạn có thể bị đứt. Bạn có thể trải miếng da trên đường đi, hoặc bao bọc chân mình bằng miếng da gọi là giày dép.
Làm cha mẹ, ta đang bọc lót các miếng da bảo vệ con cái mình, hơn là dạy chúng biết cách tự làm giày để chúng biết xoay sở trước những trở ngại và để chúng phát huy tính tự lực cánh sinh của chùng. (Theo mindbodygreen.com)

Kể thế rồi, nếu như bạn và tôi, ta vẫn chưa thấy thuyết phục cho lắm về các ý-kiến này, nay lại xin gửi đến tôi và đến bạn truyện kể mang tên “Kẻ lang thang muốn đổi chỗ cho Bụt ở Chùa, giống thánh hiền Đạo Chúa đứng ngồi như tượng thần, cũng rất thần và rất tượng như sau:

Có một kẻ lang thang, đi vào chùa, thấy Bụt ngồi trên Đài Sen nhận cúng bái của mọi người, anh ta vô cùng ngưỡng mộ. Kẻ lang thang nói với Bụt: 
-Tôi có thể đổi chỗ ngồi với Người một lát không?”
Bụt trả lời: 
-Chỉ cần anh không mở miệng.
Kẻ lang thang ngồi lên Đài Sen. Trước mắt anh là cả một ngày hỗn loạn và ầm ĩ, người đến viếng hầu hết đều cầu điều này chuyện nọ. Anh vẫn cố chịu đựng trước sau không mở miệng. Một ngày nọ, có phú ông đến. Phú ông xin:
-Cầu Bụt ban cho con đức tính tốt.
Nói xong ông dập đầu, đứng dậy, ví tiền rớt xuống mặt đất. Kẻ lang thang vừa muốn mở miệng nhắc nhở, nhưng kịp nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi.
Sau khi phú ông đi, có người nghèo nọ bước vào, nói:
-Cầu Bụt cho con ít tiền. Người nhà con lâm bệnh nặng, đang rất cần tiền ạ.
Cầu xong ông dập đầu, đứng dậy, nhìn thấy một túi tiền rơi trên mặt đất. Người nghèo thốt lên câu:
-Bụt đây quả thật rất linh. 
Ông cầm túi tiền cất bước ra đi. Kẻ lang thang muốn mở miệng nói không phải linh với hiển gì đâu, mà chỉ là đồ người ta đánh rơi, nhưng anh nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi. Lúc này, lại có ngư-dân bước vào. Ngư dân cầu xin cùng Bụt như sau:
-Cầu Bụt ban cho con bình an, ra biển không gặp sóng gió.
Đoạn dập đầu, đứng dậy, ông vừa muốn đi, lại bị phú ông túm chặt áo đòi lại túi tiền. Chỉ vì túi tiền, mà hai người đánh nhau túi bụi. Phú ông cho rằng ngư-dân này đã lấy túi tiền của ông, còn ngư-dân lại thấy oan-ức không chịu nổi. Kẻ lang thang, ngồi trên nhìn xuống không thể nhịn được nữa, anh liền hô to:
-Dừng tay! Nói thế rồi, anh đem hết câu truyện kể lại cho hai người hiểu. Nhờ thế, hai người này không còn tranh chấp, cãi vã hoặc đánh nhau nữa, nên đã yên.
Lúc ấy Bụt bèn nói:
-Ngươi thấy làm như thế có được không? Hãy tiếp tục làm kẻ lang thang đi mà sống đúng chức-năng của mình! Ngươi mở miệng, tự cho mình là công bằng, nhưng người nghèo vì vậy mà không có tiền chữa-trị người thân; người giàu không có cơ-hội tu-thân tạo đức hạnh; ngư-dân ra biển gặp sóng gió chôn thân dưới đáy biển. Nếu ngươi không mở miệng, mạng sống người nhà của kẻ nghèo sẽ được cứu; người giàu có tốn chút tiền thật đấy, nhưng lại giúp được người khác hầu tích đức; ngư dân cũng vì dây dưa không cách nào lên thuyền, tránh được mưa gió, bão bùng có thể còn sống sót.”
Kẻ lang thang im lặng bước ra khỏi chùa chiền, suy-nghĩ rất nhiều. Nghĩ rằng: nhiều sự việc trong đời, nó có thế nào vẫn là như thế. Cứ để nó tiến-triển theo luật tự nhiên, kết quả sẽ tốt hơn. Khi đối mặt với sự việc, ai biết được kết quả đem lại cho mình và cho người, chứ? Cứ yên-lặng theo dõi mọi diễn biến, đó chính là năng-lực có thực! Thuận theo luật tự nhiên, lại cũng là một loại hạnh phúc, ở trên đời! (truyện kể do Minh Quân dịch)

                Truyện kể hay những đoạn trích-dẫn ở trên, vẫn dẫn đưa bạn và tôi trở về tình-huống có lời ca tiếng hát vẫn nhắc nhở mọi người, bằng ca-từ đầy ý-tứ như sau:

Ngày tôi đi vàng nắng
Nghiêng nghiêng một hàng cau
Mai ta nhìn mây trắng
Gửi lời về thương nhau
Chiều nay buồn viễn xứ
Nhớ người em gái xưa
Tôi thấy phương trời cũ
Giăng giăng một hàng mưa.”
(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hát thế rồi, tôi và bạn lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng cứ tiến thẳng về phía trước, không sợ đớn đau, sầu buồn hoặc trở ngại ở đâu đó, dù rất khó.
Hát thế rồi, nay xin bạn và tôi, ta lại sẽ triển-khai những gì học được từ đấng bậc rất hiền lành, ở trong Đạo hoặc ngài đời, rất thức thời.

Trần Ngọc Mười Hai
Và những quyết tâm
Sẽ học mãi hết mọi người
Cả trong Đạo lẫn ngoài đời


Saturday 18 July 2015

“Bạn lòng thân mến,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 17 thường niên Năm B 26/7/2015

“Bạn lòng thân mến,”
đây giây phút thần tiên
Nghe chan chứa hương đời.
Nhạc lời êm ái tôi ca ấm vành môi,
Mong sao đến bên người.”
(Nhạc: Hoàng Trọng/Lời: Hồ Đình Phương – Bạn Lòng)
(Lc 6: 36-38)
Lời nhắn gọi như trên, mà lại nghe được từ loa phóng thanh hơi bị lớn tiếng vẫn không hay bằng những tâm tình tỉ-tê trên ipod, ipad hoặc iphone, đấy chứ nhỉ? Chưa đâu. Bắt đầu bài hát chỉ là lời nhắn hoặc tiếng gọi mời mà thôi. Trứ-danh hơn, phải nghe câu tiếp mới thật trời ơi…sao lại như thế, đến thế này:
    
“Bạn là trăng sáng,
Trong đêm tối hồn tôi,
Soi lên bao ánh tươi.
Bạn là hoa thắm,
trên hoang vắng tình tôi,
vun lên một mùa mới!
Gặp nhau năm ấy,
trao câu hát làm tin,
Đem cung phím gieo tình.
cùng yêu sông núi,
yêu duyên nước trời xanh,
yêu hương lúa thơm lành.
Đời ta chung hướng,
bao nhiêu ý chờ mong,
Xay đắp nên mái tranh.
Để cùng vui sống,
Say sưa đón bình minh,
Chứa chan mộng ngày xanh.”
(Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Quả có thế. Chẳng cần ới gọi gì nhiều. Sơ sơ chỉ vài ba lời nhắn thôi, người nghe hát hay nghe được lời nhủ này, cũng sẽ thấy tuyệt vời trên mức tuyệt diệu. Ai đời, sống vui, sống mạnh chỉ những là: “Say sưa đón bình minh”, “Chứa chan mộng ngày xanh”, “Xay đắp nên mái tranh”.
Thế còn, đắp xây mái nhà thần-học của Hội rất thánh là Nước Trời thì thế nào?
Để trả lời thật vắn gọn, thì đây, xin mời bạn và mời tôi ta nghe thử những lời nhắn rất nhè nhẹ của đấng bậc chủ quản cả một Giáo hội/hội rất giáo điều, như sau:

“(Anh chị em) hãy cởi mở đối với chiều-kích xã-hội và Giáo-hội rộng lớn hơn, mời gọi cả những người có dịp tiếp-xúc với đoàn sủng của anh chị em, tuy không thường xuyên tham-dự các sinh-hoạt của nhóm…
Thật là đẹp, khi giúp đỡ cả những người gặp khó khăn và vất vả nhiều hơn trong việc sống đức tin của họ, giúp họ tiếp xúc với Mẹ Giáo-hội…
Tôi khuyến khích anh chị em hãy ‘luôn đi xa hơn!’ trung-thành với đoàn-sủng của mình! Hãy giữ cho lòng nhiệt-thành, ngọn lửa của Chúa Thánh Linh luôn thúc-đẩy các tín-hữu Chúa tìm đến những người ở xa, ra khỏi cuộc sống tiện-nghi, thoải-mái của mình và có can-đảm đi tới mọi khu ngoại-ô đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (Phong trào Cursillo trích Lời Đức Phanxicô kêu gọi trong buổi tiếp 7,000 thành viên Châu Âu hôm 30/4/2015, Lm Trần Đức Anh, OP dịch) 

Vâng. Rất đúng như thế. Nếu không đi xa, ra ngoài khuôn khổ đạo-giáo/nhà thờ, thì làm sao nghe được những ‘lời nhắn’ không từ iphone, ipad hoặc ipod, mà từ loa phóng thanh hồi đó những lời lẽ rất như sau:

“Tôi đang còn ghi nhớ sớm nào,
trời đẹp màu nắng.
Ta cùng hòa nhịp đồng tâm trong câu:
"Ôi không gì êm ấm cho bằng,
Tinh bạn vừa kết tâm đầu,
Rồi hẹn đừng có xa nhau.
Bạn lòng thân mến,
đây tôi hiến bài ca.
mong ai hát vui hòa.
Bạn là xuân thắm,
Cho tôi đón nhiều hoa,
gieo hương mái tranh nhà.
Rồi ta chung ngắm,
Đôi chim lướt trời xa,
Say sưa muôn tiếng ca.
Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa,
Nay dâng đẹp tình thơ.”
(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Rất như thế, một lời vừa nhận-định đúng múc, vừa nhắn nhủ rất dễ thương như thấy nhiều trong cuộc đời ở ngoài, nhiều hơn trong “nhà thờ”. Bạn không tin ư? Thế thì, xin mời bạn và mời tôi, ta cứ tiếp tục ‘đi xa’ hơn nữa, rồi sẽ thấy sẽ nghe được những lời lẽ như thế vầy:

Có phải Ngài muốn đưa người khác đi vào sứ-vụ của Ngài? Phải công-nhận là: việc dùng cụm-từ “sứ-vụ” cốt để mô-tả những gì Đức Giêsu từng thực-hiện, bởi: việc Ngài làm, mang nhiều ý-nghĩa hơn lối sống riêng-tư của Ngài.
Dĩ nhiên, ý của tôi không phải bảo: ta nên hiểu cụm-từ “sứ-vụ” là toàn-bộ công-trình Ngài quyết làm; chẳng hạn như hành-trình kéo dài nhiều tháng/ngày của ông Phaolô xuyên vùng Địa Trung Hải, cũng là những điều nói về việc rao-giảng Tin Mừng của các tín-hữu thời sau này.
Nhưng đối với riêng tôi, rõ ràng là: Đức Giêsu có tầm-nhìn tuyệt-vời về Vương-Quốc-Nước-Trời ở đây, dưới đất này; và Ngài đã sống-thực tầm nhìn ấy.
Cũng thế, những gì còn rõ hơn nữa, đối với tôi, là việc Ngài trợ-lực rất nhiều người khác để tất cả sẽ tham-gia/can dự một cách năng-động trong sứ-vụ này, với Ngài.
Hẳn bà con còn nhớ, chính ông Gioan Tẩy Giả cũng đã lập nên cộng-đoàn gồm những người được tẩy rửa, để rồi họ sẽ lan-truyền xuyên-suốt đất/miền người Do-thái ngõ hầu kỳ-vọng Thiên-Chúa có hành-động trả thù giùm cho họ.
Tôi vẫn nghĩ: Đức Giêsu khi xưa cũng thiết-lập phong-trào nào đó, nhưng Ngài vẫn đính kèm một sứ-điệp rất khác từ một Thiên-Chúa, cũng khác lạ. Ta có thể gọi sự việc này là tình thân-thương kết bạn nhiều hỗ-trợ và đỡ-nâng,.
Đức Giêsu thực-thi “tiệc bàn rộng mở” và Ngài cũng đã chữa-lành miễn phí rất nhiều người. Theo tôi, sứ-vụ của Ngài đặt nền-tảng thế này: Ngài mời gọi mọi người mặc vào mình lối sống có thách-thức, nhưng đầy trợ-lực.
Trọng-tâm cuộc vận-động do Ngài thành-lập từ đầu là cùng tham-gia “tiệc bàn rộng mở” và Ngài còn chữa-lành miễn phí cho nhiều người. Phối-hợp việc sẻ-san chất-lượng ăn uống bằng chất-liệu thiêng-liêng để chữa-lành như thế, còn thấy rõ nơi cốt-lõi của sứ-vụ Đức Giêsu thực-hiện.
Tiến-trình này, còn đưa vào thứ linh-đạo khác biệt hẳn về nền-tảng. Sự việc này, nhằm mục-tiêu đưa các bản-thể gộp chung vào cộng-đoàn vốn trải-nghiệm tình thương-yêu Chúa đặt nơi bạn đồng-hành cùng một cảm-tính, không chỉ ngang qua mỗi động-thái đồng-hành ấy, mà thôi.
Ngài không theo hệ-cấp trên/dưới nối kết chủ-nhân với người trung-gian/môi giới; cũng chẳng kết-hợp với người ở thế đứng trung-lập trong xã-hội vốn tạo cơ-cấu Đạo/đời ở Địa Trung Hải. Đức Giêsu sống-thực quan-hệ rộng mở và trực-tiếp với Thiên-Chúa và Ngài mời gọi mọi người hãy hành-xử giống như Ngài.
Vương-Quốc-Nước-Trời không là chương-trình dành cho người đơn chiếc, tách-biệt nhưng là đường lối sống đại-đồng có trợ-lực người tham-gia/can-dự để họ có thể tiếp-cận trực tiếp với Thiên Chúa, thay vì trở-thành thứ gì đó thay cho thách-thức này.
Tiếp theo đây là đoạn Tin Mừng từng đề-cập đến sứ-vụ này:

“[Đức Giêsu] bảo các ông: Anh em hãy ra đi. Này, Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.”
           
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình-an cho nhà này!" Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình-an, thì bình-an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình-an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. [Với tác-giả Luca thì như thế; còn tác-giả Mát-thêu lại gọi đó là thực-phẩm] Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.
“Vào bất cứ thành nào được người ta tiếp đón, hãy cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa-lành người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều-Đại Thiên-Chúa đã đến gần các ông."
Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em hãy ra quảng-trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông nên biết điều này: Triều-Đại Thiên-Chúa đã gần kề." (Lc 10: 2-11, cộng thêm một đôi điều để nhấn mạnh)
Ở đây, một số câu hỏi cần đặt ra để ta tra-vấn đoạn này. Trước nhất, hỏi rằng: Ai là người được Đức Giêsu sai lên đường thực-hiện sứ-vụ như thế? Trình-thuật tác-giả Thomas ghi, chỉ nói: họ là những người “dấn bước theo” Ngài, thôi. Còn, trình-thuật Tin Mừng Nguồn (tức Quelle) lại qui về “70 tông-đồ khác”.
Trong khi đó, trình-thuật tác-giả Mác-cô qui về nhóm “Mười Hai”. Nên, câu trả lời của tôi ở đây, cho vấn-nạn này là: các vị được Đức Giêsu sai đi, không thuộc nhóm/hội gần-cận với Ngài và chẳng phải môn-đồ đặc-biệt.
Nhưng, có thể là, một số các vị lại không là người từng tự-ý từ-bỏ hết mọi sự, mà là thừa-sai vừa để mất tất cả mọi thứ. Các vị này được định-danh là người tách-bạch nghèo đói khỏi niềm tuyệt-vọng.
Ở nơi đó, đã thấy ló rạng tiến-trình thành-thị-hoá do người La Mã áp-đặt nặng-nề lên những người nhà quê chân-chất, ở thôn làng. Không phải mọi nông-gia đều ra như tuyệt-vọng hết, nhưng cuộc sống của họ lại đã trở-nên bấp-bênh, bất ổn.
Theo tôi, Đức Giêsu đã tạo hệ-thống chữa-lành mang tính khải-huyền sẻ-san cho mọi người hệt như ông Gioan cũng đã tạo hệ-thống các kỳ-vọng được san sẻ.
Điểm đặc-trưng/đặc-thù tôi đưa ra để bàn về chuyện này, là cụm-từ “vốn dĩ là người…” Kịp khi tác-giả Mác-cô kể truyện, ông đã đặt vào miệng Đức Giêsu lệnh-bài sai nhóm Mười Hai ra đi từng hai người một.
Ở đây, ta nên hỏi: sao lại thế? Nhìn về đoạn trước, khi hướng về truyện kể mang tính biểu-trưng để ta được học nhiều điều hơn nữa. Học kỹ-lưỡng các chương/đoạn nói về Phục Sinh –như truyện “Trên đường Emmaus” chẳng hạn, ta nhận ra được ý-nghĩa làm nền cho việc thực-hiện thừa-sai theo phương-cách đi từng cặp “hai người một”.
Truyện kể hai đồ-đệ dấn bước theo chân Đức Giêsu đi từ Giêrusalem đến Emmaus vào Chúa Nhật Phục Sinh hôm ấy, thì: một vị mang tên Cleopas, là nam-nhân. Còn vị kia, không được nêu danh-tánh, nhưng ta vẫn đoán được vị ấy là nữ-phụ.
Tuy thế, cũng nên nhớ rằng: thừa-tác-viên nữ này chưa từng được Kinh Sách định-danh gọi là vợ của đồ-đệ mang tên Cleopas, bao giờ hết. Nên, ta phải hiểu câu “Hãy đi từng cặp hai người một” theo nghĩa nào, ở đây?
Tác-giả Phaolô, khi bàn về sinh hoạt mục-vụ của ông ở “thư thứ nhất gửi giáo-đoàn Côrinthô”, ông lại viết: “Phải chăng tôi không có quyền đem theo một chị/em tín-hữu như tông-đồ khác, như anh em của Chúa và như ông Kê-pha sao?” (ICor 9: 5)      
Tiếng Hy-Lạp, nghĩa đen của cụm từ “chị-vợ” dịch sang Anh-ngữ lại trở-thành “là vợ và cũng là kẻ tin”. Ông Phaolô, trên thực-tế, không lập gia-đình với ai hết. Thế nên, theo tôi thì, khi định-danh bằng cụm-từ “chị-vợ”, ta không nên qui về người phối-ngẫu trong hôn-nhân, mà chỉ là thừa-tác-viên nữ từng tháp-tùng các nam thừa-tác-viên như ta thường thấy thế-giới bên ngoài làm thế.
Nữ-phụ đi cùng đồ-đệ Cléopas ấy, chắc-hẳn không là ai khác ngoài bà vợ của ông. Thế nhưng, hỏi rằng: Sao phải đi từng cặp hai người một như thế? Câu trả lời, hẳn sẽ rõ là: có làm thế mới, bảo-vệ được nữ thừa-tác-viên về mặt xã-hội, vốn dĩ là người từng lữ-hành ở thế-giới do nam-nhân chuyên cầm-cân-nẩy-mực, chuyên khuynh-loát theo cung-cách rất bạo-lực.
Theo tôi, đó là chủ-đích ban đầu của Đức Giêsu khi Ngài sai-phái mục-tử “đi-từng-cặp-hai-người-một” cốt để cho nữ-giới cũng được phép làm công-tác mục-vụ, như nam-nhân.
Sinh-hoạt mục-vụ “đi-từng-cặp” như thế có nghĩa rất rõ ở điểm: nó không chỉ giúp ta hiểu được ý của Đức Giêsu, nhưng còn cho phép nữ-giới có vai-trò đáng kể nơi Đạo Chúa, ở thời hiện-đại.
Đoạn trên, giúp ta có cái nhìn thận-trọng hơn qua lời dặn: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép [đó là lời dặn-dò các giới-chức]. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Đây là hình-ảnh về những gì mà ngày nay ta thường gọi là “qui-định về sắc-phục” đặt ra cho cuộc vận-động Vương-Quốc-Nước-Trời. (X. John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1999, tr.88-89)

            Thế đấy! Ra đi với người ở ngoài, ngoài Đạo/ngoài đời là như thế. Không sắc-phục lộng-lẫy, cũng không phận-biệt gái/trai, già/trẻ. Ra đi, trong tư-thế thoải-mái, dễ chịu như những người không còn gì để sợ mất. Nhưng, là giúp người khác không sợ mất mát gì. Bởi, người đời vẫn cứ bảo-ban và nhắn-nhủ những lời như:

Bạn lòng thân mến
đây tôi hiến bài ca
mong ai hát vui hòa
Bạn là xuân thắm
Cho tôi đón nhiều hoa
gieo hương mái tranh nhà
Rồi ta chung ngắm
Đôi chim lướt trời xa
Say sưa muôn tiếng ca
Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa
Nay dâng đẹp tình thơ.”
(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Nay dâng đẹp tình thơ” qua điệu nhạc, là như thế. Như thế, tức: vẫn đẹp một cuộc đời giống như lời kể ở cốt truyện nhè nhẹ như sau:

Tại một quán ăn ở Thượng Hải, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.
Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rớt xuống, rơi xuống chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng tôi nhảy dựng lên, nộ khí xung lên, khuôn mặt trở nên sầm xuống.
Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì, con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”
Nữ hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp da của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”
Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch rồi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu, không cần phải đặt nặng trong tâm đâu ạ.”
Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn. Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.
Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.
Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, khi hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự:
Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm. Để huấn luyện tính tự lập cho nó, tôi và chồng không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, chúng tôi muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.
Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn, khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước, những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.
Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.
Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.
Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.
“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.” giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.
“Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: Em gái, em không sao chứ?”
Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!
Đối với con, ngay đến cả một chữ nửa câu trách móc cũng không có!”
Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ.
Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”
Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.
Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”
Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm, tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…
Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết: “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thiết thân của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”
Bạn thân mến, chúng ta cảm động khi người khác cảm động, điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình, hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta sẽ đều là hạnh phúc và may mắn!” (Theo NTDTV)

            Nghe truyện kể nhè nhẹ như thế rồi, nay lại xin bạn, xin tôi ta hãy về với vườn nho đầy Lời Nhắn rất thanh tao, nhè nhẹ ở Kinh Sách, như sau:

            “Anh chị em hãy có lòng nhân từ,
như Cha anh chị em là Đấng nhân từ.
Anh em đừng xét đoán,
thì anh chị em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.
Anh chị em đừng lên án,
thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.
Anh chị em hãy tha thứ,
thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
Anh chị em hãy cho,
thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.
Người sẽ đong cho anh chị em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn,
mà đổ vào vạt áo anh chị em.
Vì anh chị em đong bằng đấu nào,
thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh chị em bằng đấu ấy."
(Lc 6: 36-38)

Nghe Đấng Thánh Nhân-hiền trong Đạo bảo thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta lại nghe hát thêm một lần nữa, những lời êm ả, nhè nhẹ như câu ca vẫn nghe thấy:

Bạn lòng thân mến,
đây tôi hiến bài ca,
mong ai hát vui hòa.
Bạn là xuân thắm,
Cho tôi đón nhiều hoa,
gieo hương mái tranh nhà.
Rồi ta chung ngắm,
Đôi chim lướt trời xa,
Say sưa muôn tiếng ca.
Để hồn vui nhớ,
câu mơ ước ngày xưa,
Nay dâng đẹp tình thơ.”
(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Có hát lời ‘dâng hiến một bài ca’ thôi, cũng rất đủ. Bởi, cứ hát như thế mãi rồi ra cũng có ngày bạn và tôi, ta thực hiện được những lời nhắn ở trong Đạo, lẫn ngoài đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nghe những lời
Từng nhắn và nhủ cũng rất nhiều.
Nhưng, nhớ và thực hiện  
Vẫn chẳng được bao nhiêu.
Thế mới chết!