Thursday 23 December 2010

“Ta vẫn thương người yêu dấu cũ”

dù hồn chơi vơi dù nhạc buông lơi tàn rồi Người còn mai sau thôi lạc kiếp mãi chờ nhau.

(Ngô Thụy Miên – Từ Giọng Hát Em)

(1 Ga 4: 7)

Trong chuỗi ngày dài những viết và lách của bần đạo, có hai sự kiện rất ư là tiêu biểu. Một là, bần đạo thường tự hỏi: làm sao tìm cho ra đề tài thích và hợp, để tản mạn. Hai nữa, là: tìm được rồi, lại phải nhẹ nhàng rong bước chân âm thầm vào chốn thi ca/âm nhạc để đầu óc cho thanh thản du hồn mình vào với thế giới thần tiên, chốn miền của nhận thức.

Thế nên, đề tài mà bần đạo rong phiếm hôm nay, là chuyện mà người ca sĩ từng bộc bạch:

“Rồi từ giọng hát em chợt vút cao vút cao

một trời một trời

Bài ca thánh đêm vang lên trong ngày dài

mệt nhoài một phận đời.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Cũng từ giọng hát em chợt vút cao ấy, người tình nào mà cũng dông dài kể cho nhau nghe giai điệu cuộc đời, chắc sẽ tính toán như bạn đời nọ vừa có thư tình lòng thòng kiểu “hành chánh”, như sau:

“Người Tình của tôi thân mến,

Tôi rất hân hạnh thông báo cho cô biết, là: tôi đã phải lòng yêu cô từ những năm tháng dài cuộc đời, sau cuộc gặp gỡ giữa cô và tôi lúc 3 giờ chiều ngày 14 tháng chạp, năm ấy. Tôi nhận thấy mình có dư tiêu chuẩn để trở thành người tình đầy triển vọng của cô. Và, để tiện cho việc tiến tới giai đoạn tìm hiểu nhau sau này, tôi có vài đề nghị như sau:

Tình yêu của chúng ta sẽ trải qua một hạn dài thử thách là 3 tháng. Và, tuỳ vào sự tương đồng giữa đôi ta, mà tôi sẽ quyết định có nên tiếp tục quan hệ thường xuyên nữa hay không. Dĩ nhiên, sau khi thời hạn thử thách đã hết, ta sẽ lại xúc tiến kế hoạch để chuyển từ giai đoạn tình yêu sang hôn nhân, rất gần.

Chi phí cho mọi khoản cà phê, trà bánh lúc ban đầu, tôi đề nghị mình sẽ chia đôi, rất sòng phẳng. Về sau, nếu kết quả của tình yêu cô thể hiện cho tôi dồi dào đủ, thì ta sẽ gánh vác thêm một ít chi phí khác. Mặc dầu thế, tôi là người rộng lượng đủ để đón nhận sự quan tâm lưu ý của cô xem có xứng hợp với khoản chi tiêu, cô bỏ ra không.

Tôi trông đợi cô sẽ vui lòng hồi đáp thư này trong vòng 30 ngày kể từ lúc nhận được thư. Nếu không, đề nghị tôi đưa ra sẽ bị coi như không khả thi. Lúc ấy, không cần phải có thư thông báo, tôi sẽ đi tìm người yêu khác. Dù rằng thế, tôi rất vui lòng nếu được cô chuyển thư này đến người em gái dấu yêu của cô, ở vào trường hợp nếu cô không xem xét một cách tích cực mọi đề nghị rất ưu ái, của tôi.

Trước khi chấm dứt lá thư đầy tình cảm này, xin cô nhận nơi đây lòng thành kính biết ơn của tôi.

Thân ái,

Ký tên,

Người yêu giống nhân vật Rômêo đang tìm kiếm Juliét.

Chỉ biết là, vào thời đó, Rômêô cũng đã đi tìm Juliét ở cõi chết. Dám hỏi rằng, anh có mang theo những lời ca sang sảng đến muộn phiền, như sau không?

“Ôi biết bao giờ ta đốt hết, từng lời ca êm

mặn nồng trong tim muộn phiền

Người đem giá băng về trên tuổi đá buồn

Ta chết theo ngày em cất tiếng

Nhạc còn buông xuôi người còn chơi vơi tìm người

Người còn xa xôi cho mùa thu úa tàn theo.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Thú thật là, bần đạo đây xưa nay chưa từng lần nào biết “chết theo ngày em cất tiếng” , hết bao giờ. Bởi “người em” của bần đạo có bao giờ chịu cất tiếng, dù chỉ là một chút du ca. Đạo ca. Hay, thiền ca đâu. Bởi thế nên, lâu nay bần đạo vẫn cứ ê a thêm một đoạn nhạc, như bên dưới:

”Thấy tiếc nuối người yêu ơi xin em một lời

Tạ từ nhau thôi cho mưa bay ngút ngàn phương trời

Ta theo lời hát đó như theo ngàn mây trôi

đẫm ướt trên bờ môi

Trời còn làm mưa rơi

cho tình mình còn thắm tươi nồng nàn.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hôm nay đây, khi nghĩ về “tình mình còn thắm tươi nồng nàn”, các vị cứ là ngâm nga hát lên lời ca trên, rồi sẽ bảo:

”Còn chờ ngàn kiếp sau

một tiếng ca tiếng ca tạ từ, tạ từ

Bàn tay đã như xanh xao đan

cuộc tình mù lòa trọn đời mình.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đã là cuộc tình, thì tình nào mà chẳng mù lòa? Tình nào mà không muốn trọn đời mình. Chí ít, là tình đôi lứa. Rất vợ chồng. Và thêm nữa, là tình anh em như chi thể một thân mình, là Đức Chúa. Chẳng thế mà, thánh nhân khi xưa vẫn từng khuyên:

“Trên hết mọi đức tính,

anh em phải có lòng bác ái:

đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.

Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô

điều khiển tâm hồn anh em,

vì trong một thân thể duy nhất,

anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.”

(Cl 3: 14-15)

Rất nhiều vị, vẫn nghĩ rằng: cụm từ “bác ái” ôm trọn rất nhiều nghĩa, không chỉ là “tình mù loà”, của lứa đôi. Mà thôi. Ví thử như, vợ chồng/chồng vợ và đôi lứa cứ áp dụng tình bác ái rất “mùa loà”, “trọn đời mình”, thì tình ấy chắc hẳn thể nào cũng là “tình mình thắm tươi nồng nàn”. Chẳng lo gì hai chữ “tạ từ, tạ từ”, hoặc: “xanh xao”, “chờ ngàn kiếp sau”…

Có bạn nọ, từng đánh đố bần đạo một câu để hỏi cho biết: cớ làm sao người Việt mình, hay cứ là bắt chước người Tây người Mỹ nay đã biết ly thân, tần ngần ly cách người mà mình từng thề hứa sẽ “ở với nhau đến bạc đầu”? Thú thật là, bần đạo rất ngại trả lời những câu hỏi theo kiểu “đố vui để học”, hoặc “học rồi sẽ đố”, cho vui. Nghe hỏi, chứ không phải bị đố, bần đạo cũng lại theo kiểu xưa là cứ “tầm thầy học đạo”, để cho biết mà thưa thốt. Nếu không, cũng đành “dựa cột mà nghe” thôi!

Và, cũng vì phương sách “học thày, không tày học bạn”, chí ít là những bạn nối khố hoặc chí thân, nên bần đạo cũng dám lân la, la cà hỏi bạn bè. Có bạn lại cứ lanh chanh cho rằng: ở quê nhà, các đức ông chồng vẫn có thói quen một thân nuôi của nhà, nên vẫn làm vua. Khi đi Tây các vị nữ lưu được chiều chuộng, nên lên nước làm “đệ nhất phu nhân”, bèn coi rẻ.

Một bạn khác lại “xí xọn” bon chen thêm ý nghĩa, cứ bảo rằng: đó là do các luật sư xúi giục ly thân với ly dị là để có quyền thừa hưởng phân nửa gia tài, dù rất lớn. Tuy thế, phần đông bạn bè (tức bạn nhiều hơn bè) lại nhỏ nhẹ bảo với bần đạo rằng: sở dĩ có chuyện ấy, là vì người ta (tức người và ta, hoặc ta là người) vẫn cứ quên lời dặn dò của thân nhân, buổi hôm trước. Thế thôi.

Thánh nhân, cũng rất nhiều thánh có người đưa ý kiến, có người không. Thôi thì, ta cứ tìm hiểu đôi ba lẽ, để xem sao. Một lẽ thường rất hay thấy, thời bây giờ, không cứ ở bên Tây hoặc ao nhà bên ta, là: các đức ông chồng và bà chúa cứ là chê không chịu thay đổi trong cách sống cho phù hợp với xã hội. Vẫn bổ cũ soạn lại, rất khó khăn.

Vì, sao mà coi được nếu mang tiếng là vợ chồng mà chẳng sẻ chia một chút trách nhiệm nuôi nấng con cái. Cũng chẳng biết tôn trọng và cảm thông cho nhau.

Thật sự thì bần đạo chẳng bao giờ dám “vơ đũa cả nắm”, nhưng chừng như ngày nay người ta (tức ta và người), dễ chừng quên khá nhiều lời khuyên của đấng thánh, vẫn có câu, như sau:

“Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình,

đừng sống như kẻ khờ dại,

nhưng hãy sống như người khôn ngoan,

biết tận dụng thời buổi hiện tại,

vì chúng ta đang sống những ngày đen tối…

Chớ say sưa rượu chè,

vì rượu chè đưa tới truỵ lạc,

nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. “

(Êp 5: 15-18)

Thêm vào đó, cái khó và cái khổ của thời hôm nay, là: có nhiều thứ mà người thời nay tìm ra hoặc tạo ra, còn khiêu khích/hấp dẫn hơn những là “say sưa chè chén”, cũng khá nhiều. Người có kinh nghiệm, sẽ bảo là: chính đó: sắc dục, cờ bạc, “bột trắng”, nhạc kích động, “ghêm” kích dục, đầy bạo lực. Và, còn nhiều nữa.

Tuy nhiên, có một yếu tố khác, cũng nằm trong lời khuyên của thánh nhân khi xưa mà người thời nay, đà quên mất. Đó là lập trường chín chắn được thánh Phao-lô khi xưa vẫn nhủ khuyên:

“Là vợ chồng,

anh chị em hãy tòng phục lẫn nhau

trong sự kính sợ Đức Kitô,

như Hội thánh vẫn phục tòng Thiên Chúa.”

(Êp 5: 21-26)

Tương quan chồng vợ/vợ chồng, thật sự nằm ở cụm từ “tòng phục”. Tòng phục, là tòng và phục ở đôi bên chứ không chỉ một phía. Không phải, cứ thuyết phục người phối ngẫu để người ấy tâm phục/khẩu phục rồi bắt người ấy phục dịch mình, cũng không phải cứ bắt mình phục vụ người ấy, như đã tuyên hứa lúc kết hôn. Và, tòng phục gồm hai ý nghĩa: vừa tòng vừa phục. Tòng, như tòng quân. Tòng Đạo. Không tính chuyện “đào ngũ”. Và, phục, theo nghĩa tuân theo. Chịu để mình khuất phục, mà phục vụ.

Thật sự, thì: với những vị đang chịu cảnh gãy đổ tương quan đôi lứa, thì có vị cho rằng có những tình huống khả dĩ giúp một trong hai người trở về nhận lãnh ân huệ Trên ban. Ân huệ ấy, có thể là cơ hội gặp lại Thiên Chúa, qua người phối ngẫu bên kia. Để biết rằng, người ấy/bên ấy cũng từng kinh qua một khổ đau, sầu buồn như chính Chúa. Khổ đau không chỉ về thể xác, mà có thể là thần tính. Tức, tính thần thiêng, hoặc chính sự lạnh nhạt về tình yêu, cũng không chừng.

Chẳng ai dám tự hào mình thuộc loại “mình đồng da sắt” vẫn lướt thắng mọi thử thách, của thời gian. Chẳng một ai dám tự bảo mình không cần gì đến sự trợ giúp của đệ tâm nhân. Chí ít, là chính Chúa. Chúa, không ở trên cao. Nhưng vẫn hiện diện trong tâm can, của người khác. Có lúc là chính người phối ngẫu, phía bên kia. Có khi, là đệ tam nhân. Rất người trần.

Đến với người khác, dù người kia ấy, hay đệ tam nhân, chắc chắn sẽ cảm nhận được sức mạnh của Tình thương, đang hoạt động nơi mình. Nơi người. Để được thế, điều quan trọng là mỗi người/mỗi bên, hãy nhớ rằng: mình từng hứa sống thực với lòng mình. Mà lòng mình, bao giờ cũng chăm chú kiếm tìm sự thật và sự sống. Với Đạo Chúa, sự sống rất thật ấy, còn đó vẫn hiện diện ở Tiệc Thánh. Tức, tiệc của lòng mến mà cả hai đã từng cam kết những hứa và thề, với Bề Trên.

Về với “lòng mến” có Tiệc hay không, hãy tưởng nhớ đến lời ca hôm nào mình vẫn hát:

“Rồi từng ngày tháng vui,

tìm bước qua bước qua một lần thật gần

Người ta dấu yêu xin em, cho một lời

miệt mài trọn đời mình.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vấn đề là như thế. Khi vui thì “tìm bước qua thật gần”. Thật gần. Khi có vấn đề, lại cứ xin, dù chỉ là “miệt mài”, một lời”, “trọn đời mình”. Lời miệt mài ấy, thấy nhiều ở những cặp trai gái. Lứa đôi. Hoặc, thôi không còn trẻ nữa, như lời của cặp “tình già, vẫn viết thư cho nhau, dù ở tuổi 90, như sau:

Anh ngồi bấu tay vào thành giường nhìn ra ngoài trời. Hình như mưa. Mắt anh mấy ngày nay thấy nắng loà nhoà lại tưởng mưa, thấy mưa thì nhìn như đang nắng xuống. Thằng chắt nội nói, mắt cụ nhìn không rõ nữa, cụ đi đâu để cháu dắt. Nó nói thật em nhỉ, nhưng mình cần gì nó dắt, ví thử có em đến ngoài ngõ kia, anh chẳng nhìn thấy rõ mồn một sao.

Anh vẫn khoẻ. Mỗi ngày các cháu nó cho ăn năm bữa, mỗi bữa một bát cháo đã nát nhừ. Anh chỉ dám viết thư cho em mà không dám gọi điện vì tiếng của anh nói em chỉ có thể nghe như tiếng rừng phi lao xào xạc.

Sáng nào anh cũng đi thể dục, đi từ mép giường ra tới bậc cửa sổ, vị chi là bốn bước. Bốn bước mà đi mất hai giờ, mồ hôi đổ vã ra, sảng khoái ghê! Nay con cháu đông rồi, anh không phải đánh máy như ngày xửa ngày xưa nữa, các cháu giúp ông. Nhưng khi viết thư cho em, anh phải tự đánh máy lấy. Thư này anh viết từ mùa hè, giữa hè, đến đúng mùa đông thì xong, mỗi ngày anh viết quần quật được hai dòng. Ngày nào viết đến ba dòng thì phải truyền một lọ đạm. Nhớ cách đây chừng 50 năm em nhỉ, chúng mình chạy ào ào trên bãi biển. Em thì lúc nào cũng hét lên: Thích quá cơ. Còn anh thì chạy theo sau nhìn em, thấy đôi chân em trắng loáng trong ánh chiều hoàng hôn ở bãi biển mà nhớ mãi.

Giờ vẫn nhớ đấy. Hôm rồi, nhớ em quá bảo đứa cháu nó đưa ra biển. Định nhấc chân bước, định hổn hển nhắc lại lời em nói, thích quá cơ, nhưng suýt nữa người anh đổ chúi xuống vì gió biển thổi. Nhận được tin em đã hết ốm, đã ăn được mỗi bữa năm thìa cháo bột mà mừng quá. Ăn năm thìa là tốt rồi, ăn nhiều quá không nên em ạ. Anh khoẻ thế này mà chỉ ăn bốn thìa thôi là thấy no căng. Nhớ ngày xửa ngày xưa vẫn thích ăn cơm nguội với nước cá kho. Vừa rồi, tự dưng thèm cơm nguội cá kho, ăn một chút thôi mà miệng anh như ăn phải đá hộc, đau tê tái.

Anh nhắc nhé, nếu ngoài trời có gió là em không được ra ngoài. Hôm qua, mấy đứa cháu bảo ông ơi, ra sân hóng mát, gió nồm mát lắm ông ạ. Theo chân nó vừa ra tới sân, ngọn gió nồm suýt thổi anh bay lên nóc nhà, may có hai thằng cháu giữ chặt.

Sắp tới ngày sinh nhật em nhỉ. Thế là em đã tròn tuổi 80. Hôm đó anh sẽ cố gắng điện thoại. Nhưng anh nói trước, nếu em nghe tiếng xào xào tức là anh nói rằng em đấy hả. Khi nghe tiếng thùm thùm tức là anh đang chúc em sinh nhật vui vẻ. Đến khi nghe tiếng phù phù nhiều lần là anh đang hôn em. Nhớ hồi ấy, anh đưa hai tay lên nhấc bổng em quay mấy vòng giữa trời, em cười rất to. Giờ anh nhìn lại đôi tay mình, hình như tay ai, nhìn rất tội. Hôm qua anh cố nhấc con búp bê bé tý lên cao mà nghe tiếng xương cốt kêu răng rắc, sợ quá nên thôi.

Em ngủ ngon không?

Anh chợp mắt từ chập tối. đến khoảng 9 giờ là dậy, ngồi, nhìn ra trời đêm. Mấy đứa cháu nói ông ngủ ít quá. Anh bảo, thì đến khi ông ra đi, xuống đất, ông ngủ cả ngày lo gì. Thỉnh thoảng, anh vẫn mở máy tính, xem lại mấy bài viết trên blog hồi ấy, thấy rất vui. Chắc giờ mấy ông, mấy bà blogger cũng không còn mấy ai nữa, lâu chẳng thấy ai vào blog nữa. Lũ cháu hỏi, ông ơi, blog là gì. Chúng nó bây giờ chẳng có blog. Ngồi bô đi ị mà vẫn có màn hình máy tính ở miệng bô, thích thật. Thời buổi giờ hiện đại quá, mình chẳng biết gì. Nhà anh, có cái máy giặt, con cháu nó đi làm, điều khiển từ xa, điều khiển cả rôbốt. Anh ngồi, rôbốt nó đến, nó cởi áo anh ra, nó gội đầu cho anh, tắm táp, rồi còn mang áo quần đi giặt. Lũ trẻ bây giờ yêu nhau cũng nhờ rôbốt làm hộ. Máy chữ không cần đánh, muốn viết gì, chỉ cần đọc là máy tính tự gõ chữ. Nhưng tiếng anh phì phèo quá nên máy chữ nó đánh sai hết cả. Ai đời anh viết, em ơi, anh nhớ em lắm nhưng vì miệng anh móm mém phì phò nên máy nó nghe không rõ, nó đánh thành: Phem phơi, phanh phớ phem phắm. Thế mới bực!

Anh không muốn gọi em là bà. Cứ gọi nhau bằng anh, bằng em thế nghe ngọt ngào. Hai ngày nữa anh tròn 90 tuổi. Anh đợi thư em. Mà nếu không gửi được thư thì bảo rôbốt nó mang thư đến cho anh em nhé.

Anh dừng bút.

Thằng chắt nội đang mang chén cháo bột đến để cho anh ăn. Chúc em ngủ ngon nhé. Nhớ đừng ra gió.

Êu em !!!!

Thơ tình, hay tình thơ. Thứ nào cũng là tình như thơ. Dù tình ấy nay đã cửu tuần. Dù ngày tháng ấy, nay nào được như xưa. Được hay không, cứ hãy nhớ rằng: đã có lần thánh nhân nhà Đạo vẫn từng bảo:

“Anh chị em thân mến

chúng ta hãy yêu thương nhau,

vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,

và người ấy biết Thiên Chúa.”

(1 Ga 4: 7)

Hiểu đuợc như thế, ắt hẳn người người sẽ không còn tìm cách chỉ bắt người khác những là tòng và phục chỉ mình mình mà thôi. Bởi như thế, đâu còn là Nước trời ở trần gian, ta đang sống. Phải không bạn, phải không tôi? Những tôi và tớ, vẫn là bạn. Của nhau. Suốt đời. Và trong đời.

Trần Ngọc Mười hai

Cứ hay nhắn và vẫn nhủ

những tôi và bạn

rất hôm nay.

Saturday 18 December 2010

Bài thánh ca đó, còn nhớ không em?”

“Noẽl năm nào, chúng mình có nhau. Long lanh sao trời, thêm đẹp môi mắt Áo trắng em bay, như cánh thiên thần Giọt môi hôn, dưới tháp chuông ngân.”

(Nguyễn Vũ – Bài Thánh Ca Buồn”)

(1Ph 2: 16-17)

Sau gần 3 năm với chuỗi ngày dài những phiếm và phiếm, bần đạo phát giác ra được một điều để hỏi: suy và niệm, có phải để niệm suy? Chuyện Phiếm Đạo-Đời, có phải để suy niệm? Câu hỏi nay, một lần nữa, “trật đường rầy”? Và, Phiếm Đạo hôm rày, tưởng vẫn là truyện kể, để rồi phiếm. Phiếm và suy với niệm, có thơ văn, có nhạc nền rền một góc. Suy cho cùng, thì viết và lách, suy và niệm cũng chỉ để “phiếm”. Phiếm rất Đạo. Lạo xạo mấy chuyện đời có lời thơ để đời, như:

“Cùng nhau quỳ dưới, tượng Chúa cao sang,

Xin cho đôi mình suốt đời, có nhau.

Vang trong đêm lạnh, bài ca Thiên Chúa,

Khẽ hát theo câu, “Đêm Thánh Vô Cùng”,

Ôi! giọng hát em mênh mông, buồn.”

(Nguyễn Vũ – bđd)

Quả là, đời em dù đã sầu buồn cũng chẳng sầu đến độ lộ ra ngoài. Ở giọng hát. Đêm có thanh. Rất lạnh. Cũng đâu là “bài ca Thiên Chúa”, xưa em vẫn hát! Sầu buồn một nỗi, há có phải vì tình người lạnh tanh, trong hành xử, cả vào đêm Chúa giáng hạ. Thế mới chết! Chết ở chỗ: Tạo Hoá ban cho con người, những hai tai để nghe biết. Nhưng, chỉ một miệng, đế nói năng. Thế mà người người đâu biết áp dụng, cùng tỷ lệ! Để ăn và để nói!

Đời người, nay nhiều vị vẫn cứ nói và cứ giảng. Giảng cho người. Giảng cho mình, cả những điều đâu nào ai yêu cầu? Có yêu và cầu chăng, cũng chỉ cầu mỗi chữ “Yêu”! Cầu, là để có những “bài ca Thiên Chúa”, “trong đêm lạnh”. Yêu và cầu, chỉ mỗi thế, là để:

“Lời nguyện mình, Chúa có nghe không?

Sao bây giờ, mình hoài xa vắng,

Bao nhiêu đêm, Chúa xuống dương gian.

Bấy nhiêu lần, anh nhớ người yêu.”

(Nguyễn Vũ – bđd)

Thế mới biết, bà con/anh em lâu nay hát câu “mênh mông buồn”, là bởi: mình những yêu và vẫn cầu người người hãy cứ “suốt đời có nhau”. Yêu và cầu, để rồi “bao nhiêu đêm, Chúa xuống dương gian”, cũng chỉ để “bấy nhiêu lần” anh “nhớ người yêu”.

Nhớ người yêu, em lại cứ thêm tĩnh từ “buồn”? Thành thử, “mỗi đêm Chúa xuống dương gian”, người vẫn buồn! Buồn rồi, mới hỏi. Buồn rồi, mới có lời đáp trả từ đâu đó, có thể từ Nguyễn Vũ “buồn” như sau:

“Dạo ấy, tôi chỉ là thiếu niên 14 tuổi hằng ngày đi lễ nhà thờ Con Gà (Đà Lạt). Sở dĩ tôi “siêng” đi nhà thờ đến vậy là vì tôi phát giác có một cô gái rất đẹp và...rất ngoan đạo. Hằng ngày cô vẫn đi lễ ngang qua ngõ nhà tôi.

Trái tim non nớt của đứa con trai mới lớn như tôi, thổn thức đến tội nghiệp! Đi theo cô suốt ba tháng, với 3 kilômét đi-về mỗi ngày, “mòn nhẫn” con đường nối liền nhà tôi và nhà cô ấy, gập ghềnh lũng đồi, như lòng tôi thấp thỏm ôm mối tình câm. Trầy trật mãi, tôi mới biết tên cô ấy là Th., hơn tôi 2 tuổi...

Cho đến một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh, vừa tan lễ thì trời đổ mưa, cô nép vào một mái hiên trú mưa, tôi trú ké bên cạnh. Văng vẳng từ đâu đó, vọng ra bản thánh ca quen thuộc “Đêm Thánh Vô Cùng”, Giây Phút Tưng Bừng”, Đất Với Trời, Se Chữ Đồng...”

Th. đứng trú mưa và hát theo nho nhỏ. Thu hết can đảm, tôi đưa tay vuốt hờ lên những hạt bụi bám trên chiếc áo ấm của Th. Cô ấy nhoẻn miệng cười, nói: “Cảm ơn nghen!” và ánh mắt của cô cứ ám ảnh tôi mãi...

Tình yêu đơn phương, đến bây giờ người nhạc sĩ vẫn còn ôm ấp bằng hoài niệm. Bằng, ký ức đẹp để thành bài ca (x.www.nhacso.net/Music/Artist/2005/11/05F5F602).

Thánh Ca Buồn, à thì ra là thế. Thánh Ca Buồn, có là “tình buồn” bạn và tôi, ta cứ tưởng có mỗi thế? Thánh Ca Buồn, tình đời của người thanh niên muốn làm thánh lúc ban đầu. Nhưng lại ngần ngại, để rồi thành tác giả lạnh tanh, nhưng nổi tiếng!!

“Thánh Ca Buồn”, có là tình buồn để bầu bạn bần đạo nhớ về một truyện kể ngày Chúa giáng trần, của hôm nay. Truyện, là truyện để kể. Cũng dông dài. Lễ mễ như sau:

“Từ lâu, ở Đan Mạch, cứ vào độ tháng Chạp, người xem đài bất kể là có Đạo hay không, vẫn muốn biết về chuyện Đạo. Nên có thói quen theo dõi phim truyện nhiều tập ở truyền hình. Phim truyện dạo ấy, lại kể về Chúa-Giáng-Hạ-Làm-Người, kéo dài tận Giáng Sinh, linh đình lễ hội những 24 xuất chiếu.

Linh đình, là tình đã tỏ ở truyền hình Đan Mạch vào mọi năm. Những năm, có phim dài nhiều tập, cứ hoà trộn với văn hoá có tình tiết rất mới, nhưng cốt truyện lại y nguyên. Tình Giáng Sinh năm nay, như có chuyện gì đó xảy đến rất bất chợt, khiến người xem chẳng tài nào đoán trước sự việc sắp xảy đến. Phải chờ đến năm nay 2010, người dự khán mới thấy xuất hiện kịch bản khá ý nghĩa về một nhân vật thủ vai Giêsu Trẻ, thấy cũng lạ. Lạ hơn cả, là tựa đề “Giêsu và Diệu Sa, hai bé em”.

Giêsu và Diệu Sa, là trẻ đồng trang lứa. Cùng một ngày sinh, linh đình lễ tháng Chạp. Rất đẹp. Diệu Sa, là tên của bé em vốn ghét cay ghét đắng lễ hội Chúa-Giáng-trần. Đơn giản, chỉ vì Giêsu-Trẻ đã lấy đi mất sinh nhật vui nhộn của bé. Nên, dù còn nhỏ, bé cũng đã biết ưa và biết ghét. Ghét cả Giêsu bạn mình, chẳng muốn chơi chung. Đến khi gặp bạn lớn hơn, tên gọi là Diên Tử, cũng thù ghét Giáng Sinh, đến thê thảm. Diên Tử, tuy là bạn mới quen nhưng đã lang bạt kỳ hồ từ nhỏ, biết sáng chế máy du hành không gian, khá đặc biệt.

Diệu Sa gặp máy du–hành hình Máng Cỏ, được thiết dựng theo hình thái có ma lực ảo thuật, rất ít thấy. Ma lực của thiết bị có khả năng đưa người sờ chạm lãng du về chốn không gian vượt thời gian, không hạn chế. Hễ ai sờ vào thiết bị, đều có khả năng đi - về, từ Đan Mạch đến Galilê, đất miền đầu thế kỷ. Diệu-Sa rất thích thiết bị, vì nó có khả năng đưa bé đi đây đó mãi xứ miền của Giêsu-Trẻ Bé, hằng ngày. Bé Diệu Sa có thể ra vào đất miền văn minh tiến bộ, hoặc quê mùa thời tiên khởi, chẳng khó khăn gì.

Một hôm, Giêsu Trẻ bất chợt sờ vào thiết bị hình Máng Cỏ, bỗng được máy du hành ghé thăm nhà thờ lớn/nhỏ ở Đan Mạch, mà Giêsu chưa một lần mục kích. Sau đó, lại còn đặt chân đến Galilê, đích thân gặp mặt một Giêsu Khác to lớn, chững chạc đang nằm chết trên thập tự. Giêsu-Trẻ muốn tìm hiểu Giêsu kia là ai, nên Trẻ Bé bèn hỏi han những người hiện diện quanh đó, đến độ thiên hạ cứ tưởng Giêsu Trẻ là bé bất thường. Bèn, đưa vào bệnh viện tâm thần, để chữa trị. May thay, Diệu Sa kịp thời đến cứu và Giêsu Trẻ vội dùng máy du hành về lại quê nhà.

Diệu Sa tự hỏi: giả như Giêsu Bạn Mình cứ sống đời bình thường như mọi người, đâu cần Đạo giáo với thập giá làm gì cho thêm mệt! Để, mọi người phải sống đời khkổ hạnh. Đạo đức, rất nhiêu khê?

Diệu Sa nghe Diên Tử thuyết phục bằng lý lẽ trần tục, đã bắt đầu nghi ngờ nhà thờ, cùng Chúa Mẹ. Nghi ngờ cả sự hiện hữu thánh thiêng, của mọi Đấng. Bắt chước Diên Tử bạn hiền, bé bắt đầu chẳng tin gì chuyện tốt/xấu, với thần thánh. Vẫn sống kiểu vật chất như mọi người ở Đan Mạch. Bé, còn tưởng tượng thời vô tính, con người chẳng cần tên tuổi mà chỉ dùng con số, để phân biệt thôi. Và, mọi người vẫn cứ làm việc và làm việc như cỗ máy theo lệnh của chủ-nhân-ông luôn giấu mặt. Từ đó, lại cho rằng Đan Mạch là đất miền trần gian/trang trại của các thần rất điên và dễ chết như tên của bạn hiền, Diên tử. Và Diệu Sa, nay nghĩ: mẹ mình thật có lý khi bà cứ coi Đan Mạch là chốn ngục thất trần gian, rất bất hạnh. Chính vì thế, năm nay thiên hạ sẽ không tổ chức hội Giáng Sinh, linh đình. Hấp dẫn. Như năm trước.

Diệu Sa trở về kể cho Giêsu-Trẻ nghe biết về con người đích thật. Về, cách thức người xứ Đan Mạch cư xử với nhau không khác nào địa ngục, ở dưới thế. Giêsu-Trẻ nghe kể mà chẳng hiểu Diệu Sa muốn nói gì. Về nhà, lại nhớ về người đàn ông nằm chết trên thập giá, cũng cùng tên. Giêsu-Trẻ chìm vào giấc điệp lạ, qua đó bé thấy mình cũng trùng tên trùng tuổi. Cũng sinh ra ở Bét-Lem, như Đấng Bậc trùng tên kia. Trong giấc điệp, Giêsu –Trẻ thấy mình cũng lớn lên trong âm thầm. Cũng chết trên thập tự, mà mọi người đều nghe biết. Trong phút chốc, Giêsu-Trẻ quyết chối bỏ, không chấp nhận những điều lạ lùng như thế. Bé chỉ muốn trở thành tay “giác đấu” to lớn, khoẻ mạnh ở hý trường Côlôxêum, thời La Mã. Giêsu-Trẻ chối bỏ căn cước người Tử tội cùng tên vốn đã chết trên thập tự, thời buổi trước.

Lại một giấc điệp khác trờ đến với Giêsu-Trẻ. Với giấc điệp này, Giêsu-Trẻ lại gặp chính mình, qua hình hài Người Đàn Ông lực lưỡng, rất chững chạc. Người Đàn Ông ấy nói với Giêsu-Trẻ: Ta chính là ngươi đó. Nhưng, Ta sẽ không có mặt ở cõi trần, vì ngươi chẳng muốn trở thành như Ta, mà chỉ muốn làm tay giác đấu người La Mã, mà thôi. Nghe vậy, Giêsu-Trẻ bèn thổ lộ: Tôi đây nào muốn chết đứng trên thập tự, từ bao giờ? Người Đàn-Ông to lớn là Giêsu trong mộng nghe vậy bèn nói: Đúng! Nhưng, nếu ngươi không là Ta, thì kìa những người không mặt, không tên lại nghèo hèn, họ đang bị các chủ-nhân-ông, ở Đan Mạch, chèn ép chẳng thể nào có được hy vọng cho tương lai, mai ngày hết. Hãy đứng dậy mà sống và làm điều gì đó, cho họ. Rất có thế, đám ăn trên ngồi chốc ở trên kia đang tìm cách bắt ngươi, đem đi giết. Họ cũng treo ngươi trên khổ giá, là thập tự. Chính đó là việc ngươi cần làm. Hãy hy sinh, để họ được hạnh phúc.

Giêsu-Trẻ suy nghĩ rất nhiều về điều ấy. Đến một hôm, Giêsu-Trẻ bèn chạy đến với máy du hành vượt thời gian trở lại Đan Mạch. Lần này Giêsu-Trẻ yêu cầu Diệu Sa cho mình gặp những người nghèo, vô vọng. Cả những người lê la đầu đường xó chợ đang lê lết ở các nẻo đuờng của xứ Đan. Và Giêsu-Trẻ đã gặp họ. Nên đã hiểu. Và đã thương yêu. Giêsu-Trẻ đặt tay lên máy du hành vượt thời gian do Diên Tử sáng chế, khởi đầu hành trình đi Galilê. Ở nơi đó, Giêsu-Trẻ trưởng thành dần. Vội vụt đứng, mà đi đến với người nghèo hèn, cặn bã của xã hội Đan Mạch. Và cũng từ đó, Giêsu-Trẻ bị người đời bắt đem đi giết chết trên khổ giá vì dám chống lại cung cách họ đòi sống. Giêsu-Trẻ kể cho Diệu Sa nghe hết hành trình tuyệt vời ấy. Diệu Sa hỏi: thế bạn có chấp nhận được như thế không? Giêsu Trẻ nói: Dĩ nhiên là có. Bởi, nay Tôi đã hiểu nên đã thương yêu hết mọi người. Nên Tôi mới làm như thế, để họ sống. Kể từ đó, Giêsu-Trẻ trở về với Người Cha yêu quí. Rất mãn nguyện” (tóm tắt kịch bản của phim tập, ở Đan Mạch)

Truyện kể về một Giáng Hạ, kể cũng lạ. Lạ hơn nữa, vẫn là vấn nạn của người nghe kể thường vẫn hỏi: truyện ngày lễ như thế, xem ra không khá hơn gì mấy những tín điều trong Đạo. Phải chăng những truyện trong Đạo cũng mang dáng dấp nặng nề. Lê thê. Của bản kịch tập phim dài, chuyên che đậy trạng thái “Thánh Ca Buồn”? Nói rõ hơn, thì: “chuyện ngàn năm mây bay” ở chốn này, có là kịch phẩm người xưa viết, không còn hấp dẫn nữa không? Hoặc, cuộc đời đi Đạo của người thời đại, nay có thấy gì vui đâu?

Kể cũng lạ. Giáng sinh là lễ vui mà sao cứ gọi “Thánh Ca Buồn”, khiến người người cứ là hát:

“Rồi những đêm thánh đường đón Noel,

Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.

Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,

nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn,

“Đêm Thánh Vô Cùng” lạnh giá hồn tôi…”

(Nguyễn Vũ – bđd)

À thì ra, “lạnh giá hồn tôi”, là như thế. Ừ đúng rồi, tín điều buồn/chán rất có thể. Có thể, là có thể rằng: sở dĩ nhà Đạo mình cứ nghĩ rằng: tín điều/lời khuyên từ Hội thánh gồm nhiều chữ “Phải!” Có thể, là có thể rằng: tín hữu Chúa, vẫn cứ quên những lời khuyên từ bậc thánh hiền, hiểu rất rõ:

“Anh em hãy hành động như những người tự do,

không phải như những người lấy sự tự do

làm màn che sự gian ác,

nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa.

Hãy tôn trọng mọi người,

hãy yêu thương anh em,

hãy kính sợ Thiên Chúa,

hãy tôn trọng Vua.”

(1Ph 2: 16-17)

Hãy “yêu thương anh em”, và đừng coi đó như chữ “Phải”. Bởi, đó mới là thiên đường. Là, chốn phúc hạnh của lễ hội cũng rất vui. Là, niềm khát khao của người trần. Bởi, thiên đường đích thị là trạng huống cao cả nhất, của hạnh phúc. Hạnh phúc có đó, là cho con người. Hạnh phúc, chỉ có nghĩa khi con người biết “yêu thương anh em”. Yêu trong tự do. Thứ tự do không bị che khuất bởi những tối tăm của “gian ác”. Dù, người đời gọi đó là niềm vui chất ngất, ngày đại lễ. Và, niềm vui tự do chỉ xuất hiện khi con người biết “kính sợ” Thiên Chúa. Biết “tôn trọng” Vua.

Niềm vui thiên đường, luôn vượt quá khả năng của ngôn ngữ. Của những bài ca, ngày hội lễ mà người viết nhạc gọi là “Thánh Ca Buồn”. Thế nên, thiên đường ngày đại lễ đâu thể nào để ta coi đó như nỗi niềm chán ngán, rất tín điều. Thiên đường ngày đại lễ, chẳng bao giờ là ngày tháng dài, một nối tiếp cả. Thiên đường là bể tình yêu thương. Là, hạnh phúc miên trường, như Đức Giáo Chủ Bênêđíchtô 16 từng định nghĩa:

“Cuốc sống vĩnh cửu -chốn thiên đường- là trạng huống ta đắm chìm trong biển tình yêu thương vô bờ. Là, khoảnh khắc lúc đó –cả lúc trước lẫn về sau- không còn thấy xảy ra nữa. ta chỉ có thể bắt chụp một ý tưởng để thấy rằng khoảnh khắc như thế trong cuộc sống tràn đầy ý nghĩa của những ngụp lặn cứ lặp lại mãi đến thiên thu trong tính chất mênh mông, của hiện hữu. Khoảnh khắc, trong đó ta chỉ bị thoáng ngợp vì vui sướng.” (x. Hiến chế Niềm Hy Vọng Cứu Rỗi, # 12)

Với một định nghĩa rất như thế, quả là: không còn chỗ cho các sự kiện được định danh bằng tĩnh từ “chán/ngán”. Chán sao được, khi người người thấy mình lúc nào cũng vui cũng tươi, đầy hy vọng. Chán sao được, khi hy vọng nay chan hoà khắp chốn. Khi vui tươi, càn quét rất kiên quyết. Nếu còn chán, ta lại vội hát lời ca hôm trước của nhạc sĩ buồn họ Nguyễn, rất như sau:

“Rồi mùa giá buốt cũng qua mau,

Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu.

Rồi một chiều áo trắng phai mầu,

Em qua cầu xác pháo bay sau…”

(Nguyễn Vũ – bđd)

“Xác pháo bay sau”, ở đây, có thể là pháo nổ vào ngày cưới. Nhưng ai bảo, không thể là xác pháo vui mừng ngày Chúa Giáng Trần chứ? Thôi thì, ngày nào thì cũng được, miễn cứ là ngày kéo dài nhiều vui tươi, chan hoà hạnh phúc. Hạnh và phúc, của đất trời trong/ngoài nhà Đạo, những là lạo xạo một truyện kể để thư giãn. Buông lỏng. Ngồi rung đùi mà thưởng thức, cũng gọn nhẹ:

“Truyện rằng:

Giáng sinh năm ấy, một ngày rất chán trong đời người bạn trẻ không biết làm gì cho qua đêm, bèn lang thang chốn phố phường mìền tịch liêu, bèn chứng kiến một sự kiện.

Sự kiện là: hôm ấy, bạn trẻ thấy cô gái nọ lẳng lặng đứng trên cầu, vào giờ “G” buổi tối đêm 25, chừng như đang chuẩn bị để nhảy xuống sông Tiền, định tuẫn tiết (?)

Người bạn trẻ đi qua thấy thế, liền hỏi:

-Bộ, cô dự tính trầm mình dưới giòng sông, mà tự vẫn hay sao thế?

-Đúng vậy, em đang có ý định đó! Có gái trả lời rồi quay lại nhìn người vừa gạn hỏi.

Thấy cô gái khá xinh đẹp mà lại có ý định trầm mình tự vẫn thế, chàng trai liền yêu cầu cô trao tặng một nụ hôn để đời, trước khi cô tự vẫn. Không ngần ngại, cô gái liền đồng ý. Thế là, đôi bên liền có nụ hôn ngọt ngào, hiếm quý. Lợi dụng tình thế, chàng trai cố kéo dài thời gian hy vọng sẽ thuyết phục để cô gái đổi ý. Và, câu hỏi vỏn vẹn, chỉ một câu:

-Cô xinh đẹp và đáng yêu như thế kia, sao lại muốn tự vẫn?

-Dạ bố em cứ mắng rầy: tại sao em chỉ thích ăn mặc …như con gái?!? “

Cũng rất may, truyện kể có thể: chỉ là chuyện hư cấu. Tức, kể để mà kể cho qua đi cơn buồn chán, dù rơi vào ngày lễ hội. Ở đây, hôm nay, phải chăng ta lại đã “phát giác kinh khủng” thêm một sự rất thật, rằng: sở dĩ có buồn chán, đâu vì ta cứ suy và nghĩ những chuyện mang tính giáo điều, hoặc tín lý. Chán và buồn, có lẽ chỉ vì ta cứ quên đi những câu chuyện cười “huề vốn”, chẳng chết ai, như đời thường vẫn cứ gặp.

Vậy thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ thế mà thề nguyền: nhất quyết không buồn và không chán nữa. Vì, đã nhận ra được chân lý ở lời khuyên, rất như trên. Từ đấng thánh, rất Phêrô, rằng: “Hãy hành động như những tôi tớ của Thiên Chúa…” Biết “tôn trọng mọi người”. Và “Yêu thương anh em.” Vì tình thương chắc chắn sẽ giải thoát con người, khỏi nỗi chán. Của cuộc đời. Con người.

Trần Ngọc Mười Hai

Nay đã nhận ra

lời khuyên rất mặn mà,

của đấng thánh, sẽ không chán.

Dù, chán đó có là chán đời.

Chán Chúa. Hay, chán Hội thánh.

Con người.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.giadinhanphong.com )

Saturday 11 December 2010

“Mây có bay và em có hay”

ta ngại ngùng yêu em lần đầu? (Ngô Thụy Miên – Bản Tình Cuối)

(Mt 2: 13-15)

Nếu cứ hỏi và cứ nói, về những mây bay và người em yêu như bài trên, thì câu trả lời cũng chẳng khó. Càng không khó, nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người nghệ sĩ cứ coi các vị mà mình gọi là “Em” là thành viên Hội thánh, càng dễ tính. Bởi, một khi “đã say”, và “hồn ta ngất ngây” rồi, thì “men yêu thương (cũng) thấm cuộc đời” của “em” và của người anh/người chị trong thánh Hội nữa.

Và, khi cuộc đời đã “thấm” đậm như thế, ta lại hát:

“Yêu em, ta yêu em như yêu tuổi ngây thơ.

Bên em, bên em ta hát khúc mong chờ.

Ngày nào, người cho ta biết tình yêu đắm say

Ngày nào, đời cho ta biết tình là đắng cay.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đến đây, bần đạo phải thú thật với bà con bạn bè mình thêm lần nữa, rằng: trên quãng dài những “phiếm” và “phiếm”, bần đạo từng biết “tình yêu đắm say” rất nhiều thứ. Đắm say cuộc tình thật, đã đành. Với một số người đời, có khi còn đắm và say nhiều chuyện nữa. Như chuyện chiêm tinh, chiêm ngưỡng lẫn chiêm nghiệm những là chuyện “tiên tri”/“bói toán”, chẳng hạn.

Về chiêm ngưỡng tài nghệ những vị tiên tri, đoán được cả chuyện xảy ra trong tương lai, mai ngày, vẫn là chuyện thường ngày ở huyện. Chí ít, là huyện đạo nhà thờ nhỏ. Nghe cũng nhiều. Ngày nay, bạn và tôi, ta vẫn nghe/vẫn biết nhiều thứ về những thứ/những điều nói lên tâm trạng lâng lâng, thắc mắc về người đời. Sự đời. Thắc mắc và trăn trở, cũng tợ như những lời hoặc câu nói từ Kinh Sách khiến bận lòng người nghe, như bên dưới:

“Và, ông đã ở đó mãi đời Hêrôđê;

ngõ hầu được nên trọn điều Chúa đã phán

nhờ vị tiên tri nói rằng:

từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta về.”

(Mt 2: 15)

Lại cũng xin thú thật thêm một điều nữa, rằng: lâu nay, bần đạo chỉ biết phiếm, chứ chả dám luận bình hoặc giải chú Lời Chúa dạy, tựa như trên. Nhất là, khi thoạt nghe biết những cụm từ như “tiên tri”/ngôn sứ được lập đi lập lại, rất nhiều lần trong Kinh Sách.

Hôm nay, có nhiều vị cũng thắc mắc về các cụm từ như: “tiên tri”, “tiên đoán” hoặc “sấm Trạng”, tức những điều hoặc các việc khiến họ những tưởng xảy đến trong tương lai/mai ngày. Người người ở đời còn gọi đó là những tiên đoán rất sớm về số phận của mình. Lại một đề tài khá lớn, rất khó phiếm. Thôi thì, bần đạo xin phép cả bạn lẫn tôi, ta lại ngâm nga đôi ba ý/lời của nghệ sĩ ở bên trên, mà hát những lời ở bên dưới, rất như sau:

“Ta đã yêu và ta đã mơ,

mơ trăng sao đưa đến bên người.

Một lần gặp gỡ đã như quen thuở nào,

một lần gặp gỡ nhưng tình đã xa xưa.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Về những điều, mà bầu bạn gọi là “đã yêu và đã mơ”, đôi khi bày tôi là bần đạo đây cũng thấy “trăng sao đưa đến bên người”. Trăng sao, “đã như quen thuở nào”. Quen, khi gặp gỡ. Quen, trong tư tưởng. Tức, đã gặp và đã quen, như hôm nào “tình đã xa xưa”.

Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, rằng: rất nhiều lần, bạn đạo bọn mình cũng từng gặp/từng biết những tình huống “có trăng có sao” ở đâu đó, rất bên trên. Gặp biết rồi, mà cứ ngỡ đó là chuyện thật. Là, sự sẽ xảy ra mai ngày. Vừa chợt nghe/chợt thấy đã tưởng thế nào rồi cũng xảy đến.

Nói nôm na dông dài, cuối cùng chỉ để minh định một cảm nghiệm, rằng thì là: nhiều bạn đạo từng đi sâu đi sát với bạn bè ngoài đời, đã có kinh nghiệm gặp gỡ những trăng sao. Có cả suy nghĩ rất “lung” về một thắc mắc, bảo rằng: suy tư tưởng chừng chuyện trăng sao/tinh tú, đẩu số, rất “tử vi” mà không tin không thờ, như thế có tội/có vạ gì không?

Một lần nữa, bần đạo thấy mình chẳng có tư cách để trả (những) lời rất lãi hậu, cho câu hỏi tinh tế/bén nhạy ở trên, bèn cả gan vời đến đức ngài trưởng thượng từng có lập trường rất vững chãi,/chính mạch, để thỉnh ý. Hôm nay, ngày rộng tháng dài nhân có vài phút giây chấm hết niên lịch hai nghìn lẻ mười, bần đạo nhận được lời chỉ giáo, rất đạo mạo. Đạo đức. Như sau.

, để cho tinh thần của bạn mình, được thoải mái/thư giãn trước khi nghe đức ngài phán và phê về thắc mắc trên, cũng nên “trích ngang” chuyện mình đang bàn, bằng một truyện kể về những tiên và đoán rất “tiên tri”, như sau:

“Truyện rằng:

Người vợ hiền hôm ấy, thong thả bước vào chốn miền nhiều khói bếp, đã bắt gặp đức lang quân của mình đang làm cử chỉ rất ư là “đằng đằng sát khí”, bèn hỏi:

-Anh yêu ơi, anh đang làm gì mà mặt mũi trông nghiêm chỉnh thế?

-Ấy chết! Để yên anh thực hiện vai trò “Dũng sĩ diệt ruồi”, đi em!

-Vậy thì, dũng sĩ của em đã diệt được chú nào chưa, thế?

-Có chứ. Bộ, em không thấy sao? Không những chỉ chút ít, mà còn nói được là khá nhiều. Một phát giác kinh khủng cho em biết: anh còn đoán được là có bao nhiêu chú ruồi đực, bao nhiêu nàng ruồi cái, nữa đấy nhé.

-Chà. Dũng sĩ của em nay lại nói chuyện tiên đoán với tiên tri rồi đây. Làm sao đoán được chú nào đực chú nào cái, cơ chứ?

-Cũng dễ thôi. Anh từng nghiên cứu khoa tử vi đầu số nên cũng biết rất rõ là ba chú gục trên loong bia, tự khắc là đực. Còn 2 em sõng xoài trên tay cầm điện thoại, đương nhiên là cái, chứ gì nữa. Nếu đúng, em cứ bỏ tiền quẻ lên dĩa, là xong ngay

-Quả là, dũng sĩ của em đoán như thần đoán. Ý em, anh đoán việc như thần, cần gì phải tiên tri với bói bài, hoặc ra sấm làm gì cho mệt xác, chứ

Chẳng cần xét xem vợ chồng “dũng sĩ diệt ruồi” nọ, có là chiêm-tinh-gia chuyên đoán già/đoán non chuyện tình duyên gia đạo, đúng sai ai biết. Chỉ biết mỗi chuyện là: thói đời bạn và tôi, cùng rất nhiều người ta vẫn cứ là hay thích chuyện lạ những tiên đoán. Rất tiên tri. Gọi đó là tiên tri hay nói “trạng”/nói trại gì nữa, cũng đặng thôi.

Thôi thì, nay hãy về với đức thầy nhà-Đạo-rất-đạo-mạo xem ngài phán thế nào về việc đoán già đoán non chẳng qua đoán mò kiểu “ta-rô” hay “tô thêm ra”, cho có vẻ tiên tri, để xem sao:

“Có thnói: thói đời, nay tràn lan kỹ nghệ xét chuyện tương lai/mai ngày, xảy đến rất “đại trà” với mọi người. Tức, kỹ nghệ tiên và đoán đang nở rộ, thời cao điểm. Trong số những người đó, còn có cả những vị vẫn tự cho mình là Công giáo, còn ngụ ý bảo rằng làm thế để tỏ lộ thông tin mà người thường không thể kiếm tìm theo ngã thông thường. Rất an nhiên tự tại. Và, sinh hoạt của họ nay xuất hiện tràn lan trên truyền thanh/truyền hình cùng sách vở hoặc phỏng vấn đếm cả triệu. Nhất là, ở Mỹ.

Vấn đề này, người Công giáo cũng như Kitô hữu của Giáo hội bạn, phải có thái độ thế nào mới đúng?

Trước hết, phải nhận rằng con người luôn có giới hạn về chính mình. Tức, mình chỉ là hữu thể bình thường không thể nói rằng mình biết hết mọi sự. Cả những chuyện tương lai. Thật ra, con người chẳng thể nào biết được sức khoẻ của mình rồi sẽ ra sao. Cũng chẳng đoan quyết được rắng ông cậu/bà mợ của mình vừa quá vãng, có chắc đang hiện diện tả/hữu bên cạnh Chúa Thiên Đàng, hay không. Hoặc, chuyện đầu tư kinh doanh chắc gì mình nắm chắc được thành công mỹ mãn như đã tính?

Đơn giản, ta chỉ cần đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất muôn vật. Ngài quan phòng/chăm sóc hết mọi sự. Ngài dựng nên muôn loài, qua bàn tay quan phòng của Cha Nhân Hiền, luôn ưu ái. Quả thật là thế. Ngài vẫn mời gọi ta hãy tin vào Ngài, như Kinh Sách từng nói: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được phép có thần nào khác nghịch với Ta.” (ĐNL 5: 6-7)

Trở về với chuyện bói toán, coi chỉ tay, hoặc bói bài Tarô, theo cung cách nào đó, tức “dám tạo một thần khác để kính thờ”. Tức, tin vào sức mạnh của người phàm dám bộc lộ cả những chuyện chỉ mình Chúa biết.

Thiên Chúa yêu thương loài người. Ngài muốn con người chỉ thờ phượng mỗi mình Ngài, thôi. Điều này được ghi rõ trong Cựu Ước, với những câu: “Anh em, không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em.” (ĐNL 18: 10-12)

Ở đoạn tiếp theo đó, Môsê cũng giải thích thêm để dân con Chúa biết nghe theo những điều do từ miệng Chúa nói ra: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” (ĐNL 18: 15) Và, theo giáo huấn của Hội thánh, thì Ngôn Sứ ấy không ai ngoài Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Chúa nhập thể, làm người.

Chính Đức Giêsu cũng dạy ta chỉ tin tưởng vào Cha trên trời. Đừng lo lắng về sự sống, của chính mình: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?... Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó.(Mt 6: 26-33)

Có người lại hỏi: phải chăng Chúa đã mạc khải cho ta biết một chút sự thật, về tương lai của con người, ch? Câu trả lời, là: có. Đôi lúc Ngài cũng làm như thế đối với những kẻ được Ngài đoái thương. Như trường hợp Ngài đã mạc khải cho 3 trẻ ở Fatima, ngang qua Đức Mẹ, về sự lạ xảy đến vào ngày 13/10/1917. Hoặc, một mạc khải về nữ phụ nọ đã chết, nay còn đang ở chốn luyện hình.

Nhưng, cứ sự thường, Chúa không tiết lộ những sự việc như thế. Và, ta vẫn cứ phải từ bỏ chính mình mà phó thác trọn vẹn toàn thân trong tay Ngài. Tin chắc rằng: mọi sự dù xảy đến, cũng là điều tốt đẹp Ngài phú ban cho ta, đúng như các thánh từng quả quyết: “Ta biết rõ: Thiên Chúa làm cho mọi sự để sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài, tức những kẻ được Ngài kêu gọi theo ý Ngài định đoạt.” (Rm 8: 28)

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng viết: “Thái độ đúng đắn của tín hữu Đức Kitô là đặt mình trong bàn tay Quan Phòng của Chúa, dù mọi sự xảy đến trong tương lai, có thế nào đi nữa cũng vẫn nên từ bỏ tính tò mò tọc mạch về mọi chuyện.” (GLHTCG #2115)

Sách Giáo Lý còn thêm: Mọi mưu toan tìm hiểu những gì có liên quan đến thiên tính, tức: tìm cách khám phá những điều mà tính tự nhiên con người không biết được, đều phải từ bỏ. Điều này được ghi rất rõ, như sau: “Quay về với Satan quỷ quái , tiếp xúc cầu cơ với linh hồn đã quá vãng hoặc làm những chuyện đại loại để tìm biết tương lai/mai ngày, như tham khảo chiêm tinh, đẩu số, coi chỉ tay, bói quẻ bói bài, chú giải những điềm gở/mộng mị hoặc các hình thức bói toán để nắm bắt chuyện đã hoặc sắp xảy ra, về chính mình hoặc người khác, cả đến những rắp ranh giao hoà với âm binh/âm quyền, đều nghịch chống sự danh giá, trang trọng và tôn kính yêu thương cần phải có đối Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới xứng đáng được như thế thôi.” (GLHTCG #2116)

Đàng khác, cũng nên nhớ một điều là những quyền lực nào khác không tự nhiên để có được hiểu biết chỉ xuất từ Thiên Chúa, hoặc Satan, thôi. Vì thế nên, những ai tìm cách nắm bắt những kiến thức như thế từ những nguồn lực sai trái , chắc chắn đang nằm trong tay Satan/quỷ dữ. Chắc chắn đang nằm trong bàn tay sai khiến của các quyền lực tăm tối, mà thôi.” (x. Lm John Flader,The Catholic Weekly 3/10/2010, tr.11)

Đức ngài phán và phê như thế, đà quá rõ. Nào còn gì nữa để bàn thêm? Nhưng khổ nỗi người đời, vẫn không phải là thần thánh. Nên, vẫn cứ tìm những trái cấm, để thử thời vận, chút rồi thôi. Dù, biết và tin rằng: tất cả là ân huệ và vẫn luôn cảm tạ những gì mình nhận được và dù ta có ưng ý hoặc bất ưng. Một lần nữa, bần đạo lại xin thưa: mình chưa đủ tư cách để phê và phán. Nên, chỉ muốn nghe. Vì muốn nghe, nên đôi lúc vẫn văng vẳng như có tiếng hát từ đâu đó, hát rằng:

Mưa đã rơi và nắng đã phai

trên cuộc tình yêu Em ngày nào

Ta vẫn yêu hồn ta vẫn say

qua bao nhiêu năm tháng ơ thờ

Một ngày nào đó tóc xanh xưa bạc màu.

Một ngày nào đó ta có thôi hết yêu người.

(Ngô Thụy Miên –bđd)

Mưa rơi trên cuộc tình, yêu Em ngày nào”. Phải thế không anh? Phải thế không chị? Anh và chị vẫn thấy lời đức thầy nói, cũng có lý, đấy chứ nhỉ? Thế nhưng, như lời người nghệ sĩ ở đây, vẫn cứ bảo: vấn đề là, một ngày nào đó, ta vẫn không thôi hết yêu người? Và vẫn yêu Ngài?

Nếu câu trả lời là: không! ta không thôi hết yêuy người dù vật đổi sao dời. Và , ta vẫn còn yêu, vẫn cứ yêu và mãi mãi yêu Ngài, xin hãy vin vào lời đấng thánh xưa kia từng nói: “Hãy cứ yêu đi, rồi thì mới làm điều mình muốn.”(thánh Âu Tinh) Miễn là điều mình đang làm và muốn làm, không phản lại tình Chúa, mình vẫn ôm ấp. Thực thi. Là được.

Và, một khi đã quyết được như thế, cũng nên nhớ lại lời của Phaolô thánh còn nói trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô rằng:

Chúng tôi luôn mang nơi thân mình

cuộc thương khó của Đức Giê-su,

để sự sống của Đức Giê-su

cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.”

(2Cr 4: 10)

Và nhất là:

Cho nên chúng tôi không chán nản.

Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi

có tiêu tan đi,

thì con người bên trong của chúng tôi

ngày càng đổi mới.”

(2Cr 4: 16)

Xem thế thì, một khi tâm can ta được đổi mới với Đức Kitô rồi, thì thiết tha mà làm gì chuyện bói và toán rất vẩn vơ, để rồi cứ tin vào đó, mà mất đi con tim chân chính, đã thuộc về Chúa. Chí ít, là khi mọi người và mỗi người đã lĩnh nhận bí tích thanh tẩy, chết cho Chúa.

Bởi, cuối cùng thì chuyện bói toán cũng chẳng nên tạo ảnh hưởng lên niềm tin, ta vẫn có. Cuối cùng, chỉ như thế. Cuối cùng, vẫn là tình yêu. Vậy, hãy đem hết khí thế mà hát với người nghệ sĩ câu tình ca rất cuối, để mà yêu:

Mưa có rơi và nắng có phai

trên cuộc tình yêu em ngày nào

Một lần nào đó bước bên em âm thầm

một lần nào đó ta vẫn không nói yêu người.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hát xong, ta hiên ngang mà tin chắc: mình đang ở trên chính lộ của tình yêu muôn thuở. Chúa phú ban. Rất vững vàng.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng trăn trở,

không kém.

Nhưng vẫn tin rằng

Tình Yêu Chúa

giải quyết hết mọi chuyện.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào: www.giadinhanphong.blogspot.com )