Saturday 28 February 2015

“Trăng đã lên! Trăng đã lên!”




Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 Mùa Chay năm B 08/3/2015

“Trăng đã lên! Trăng đã lên!”
Hương ngát thơm bao u huyền vườn thu thiết tha.
Trăng sáng soi. Trên lá hoa
Dâng nhớ bao câu mong chờ nhạc xưa đã qua.
Xa xôi rồi nhớ thương, ai mong chờ vấn vương.
Riêng có ta tim xót xa, luyến thương bao khúc ca xưa, đã phai nhòa.”
(Nhạc: Louis Ferrari Domino – Lời: Hương Huyền Trinh Khúc Nhạc Muôn Đời)

(Galát 5: 22-24)
“Khúc Nhạc muôn đời”, ư? thử hỏi: bạn và tôi, ta có nên đưa Nhạc này vào Mùa Chay, chứ? Đó là câu hỏi từ nhà báo Robert Hiini ở Úc, khi phỏng vấn người viết nhạc Tracey Combes ở Úc, như sau:
 
“Mùa Chay năm nay tại Giáo phận Wollongong Sydney, Úc, có chương trình gọi là “Arise” đã và đang chứa-đựng một khí-cụ thầm-lặng nhưng sắc-bén trong âm-nhạc. Và, đây còn là khí-cụ không-có-gì-bí-mật, cả. Chương-trình này kéo dài khoảng 90 phút, xoay quanh loạt bài chiêm-niệm của sơ Hilda Scott dòng OSB rút từ phim nổi tiếng “The Abbey”; và của sơ Hoya Henlen, OLSH cùng Lm Michael Fallon, MSC và nhà nghệ-thuật Nelson Colo Matona đặt địa-bàn hoạt-động tại Sydney, chuyên sản-xuất các dĩa nhạc và sách trầm lắng, sống động.

Trả lời câu hỏi của phóng viên tờ The Catholic Weekly, Tracey Cobes nói: “Tôi coi âm-nhạc như thứ “thuốc trị bệnh” linh-hồn rất tốt. Và có lẽ, Thiên Chúa cũng sử-dụng âm-nhạc để nói lên điều Ngài muốn nói, hầu đi vào tâm-can con người theo cách-thức của Ngài. Âm-nhạc, là quyền-lực thiêng-liêng đích-thực ta ủy-thác cho Chúa. Và, bà con ta cũng nên xin Chúa chúc-lành cho âm-nhạc để nó xuyên-thấu tâm-can con người bằng giòng chảy nhẹ lâng, thanh-thoát. Tôi tin chắc chắn Ngài sẽ chúc lành cho chuyện này…” (x. Robert Hiini, Secret Weapon in Lenten Music, The Catholic Weekly, 15-02-2015, tr. 10)

Nghe thế thì biết thế. Vấn-đề: bạn và tôi, ta có đồng ý với tác-giả người Úc này hay không, là chuyện khác. Thế nhưng, “đồng-ý hay không?” còn tùy mỗi người và nơi chốn ta diễn-đạt loại nhạc ấy, mỗi thế thôi. Nhưng, để bà con ta có thêm chất-liệu mà góp ý, nay xin bạn và xin tôi, ta hãy nghe thêm đoạn nữa tiếp-tục ở bên dưới:

“Bạn lòng ơi! đã bao đêm thức trông trăng sáng long lanh.
Nhìn giòng sông nước trong xanh
cuốn trôi nhanh, giữa đêm thanh.
Sông mong chờ nhớ, bao khúc nhạc thắm,
Nay đâu còn nữa, đã quá xa.
Và từ đây, mỗi khi nghe khúc ca xưa giữa gió mưa.
Thì lòng ta thấy xót xa, nhớ thiết tha, phút đã qua.
Ðã phai nhòa hết. Hoa xưa tàn hết.
Nhưng, ngàn thu mãi trong tim ta.”
(Domino – bđd)

“Ngàn thu mãi trong tim ta”, phải chăng là tình-tự của thương-yêu không chỉ ở mỗi âm-nhạc?
“Lòng ta thấy xót xa, nhớ thiết tha, phút đã qua”, cả vào mùa Chay kiêng như học-giả kinh-điển nọ vốn từng bảo: “Phục Sinh, vốn dĩ có mặt cả vào mùa Chay nữa”.
Nói thế, khác nào bạn và tôi, ta lại cứ ngâm nga câu tiếp vẫn hát rằng:

“Thu đã qua! Bao lá hoa!
Theo gió bay, bay quay quần rụng theo gió đưa.
Mây vẫn xanh! Trăng vẫn thanh!
Nhưng thấy đâu, khúc ca đẹp, nhạc êm thắm tươi
Ai xa vời, có hay bao nhiêu ngày gió bay?
Bao lá khô! Theo gió thu!
Rớt trên đôi mắt, đôi môi, khắp mong chờ.”
(Domino – bđd)

Hôm nay, hát lại nhạc-bản này, ý bần đạo không phải để bình-luận thi-ca/âm-nhạc này khác, cho bằng chỉ muốn dẫn-nhập vào chuyện thần-học/tu-đức để bạn và tôi, ta có hứng mà bàn chuyện khô-cứng, cũng rất nên. Chuyện nên bàn ở đây, là chuyện từng gây tranh-cãi về tín-lý/giáo-điều được học-giả ở đây đó, vẫn tâm-tình như sau:

“Những năm còn sống trong Dòng thánh sinh-hoạt theo kiểu Trung cổ, tôi lại đã tạo được cho mình ít nhất 3 món quà của người xưa. Thứ nhất, là tên gọi do cha mẹ đặt, tức: đơn-giản chỉ mỗi chữ “Gioan”. Thứ đến, là tên đệm do Dòng thánh của tôi trao tặng, khi có vị nào đó trong Dòng tuyên-khấn sống hy-sinh tận-tụy. Và, thêm điều nữa, là điều tôi vẫn xác-tín bảo rằng: niềm tin và sự việc này khác vẫn xảy đến, như: vấn-đề mặc-khải và lý-luận mình có, không tương-phản hoặc kình-chống nhau bao giờ hết, trừ phi đầu óc mình bị lệch sai một bên; hoặc mình cứ lẫn lộn cả hai phía. Món quà thứ ba tôi có được, là: tình yêu dành cho Thanh-Nhạc, tức thứ âm-nhạc Grêgôriên thanh-thoát, cho dù mình từng hát dở đến độ phá tan ban hợp-xướng nổi tiếng của Dòng, nên thoạt lúc tôi ra đi, các đấng-bậc ở lại đều mở cờ trong bụng,do bởi các vị sẽ có cơ-hội phục-vụ Thanh-nhạc đúng mức hơn.” (x. John D. Crossan, Who is Jesus, Answers to your questions about the historical Jesus, Westminster John Knox Press, Louisville, Kentucky 1996 tr. X)

            Thế đó, lập-trường của vị học-giả vốn dĩ là linh-mục nổi cộm dạy trường thần-học De Paul ở Chicago, Hoa Kỳ. Ở đây, lại cũng thấy các quan-niệm sống riêng-tư, hoặc lập-trường chính-qui/chính-mạch của nhà Đạo chỉ muốn mọi người sống theo truyền-thống cũng rất chung của Giáo-hội, từ trước đến nay.
Thế đây có là khuynh-hướng nói chung của nhiều người không? Đây là câu hỏi, rất khó trả lời, bởi lẽ bần đạo đây không có đủ số-liệu thống-kê để giải-mã cho phải lẽ.
            Khó thật đấy, nhưng cũng xin đưa ra một it ý-kiến ở đây đó, để mỗi người và mọi người có cơ-hội nhận-định hoặc tuân-giữ. Trước nhất là ý-kiến riêng lẻ của một số nhân-vật như sau:

“Âm-nhạc lâu nay từng đổi thay cuộc sống của con trẻ, ở khu phố nghèo khổ xứ miền Châu Mỹ La-tinh. Cateura, là thị-trấn ngoại ô thủ-đô Asuncion của Paraguay, chỉ gồm mỗi 25 ngàn dân sống chen chúc mãi tận khu đổ rác, chất đống. Nhưng, có thể gọi nơi đây là một trong các khu “ổ chuột” lớn nhất ở Nam Mỹ…

Tuy là thế, nơi này còn được coi như chốn miền cũng khá kỳ lạ cho sự lạ về âm-nhạc. Bởi, tại chốn miền bị quên lãng rất ô-nhiễm của thế-giới, lại thấy xảy ra một thứ phiêu-lưu/mạo-hiểm đầy gợi hứng cho nhiều người. Tôi muốn nói đến “Dàn nhạc Cateura” gồm các nhạc-cụ được tái-chế…” (xem thêm Pedro Dutour, Recycling Mozart, MercatorNet 19/6/2013)


Nói đến nhạc Nam Mỹ, có lẽ không thể không nhắc đến điệu Tango nổi tiếng được người trẻ ở Sydney từng nhận-định như sau:

“Tango” với người dân Argentina cũng dễ thương như người em 'má đỏ môi hồng' và thiêng liêng như núi Fuji đối với người Nhật Bản vậy.  Người nước ngoài khó có thể tưởng tượng nổi tâm hồn người dân Argentina chao đảo đến thế nào khi vũ điệu “Tango” được cất lên.  Đặc điểm của “Tango” là nó kết hợp giữa những lời ca mộc mạc của đồng quê châu Âu, ai oán thở than cho kiếp nghèo luôn phải vật lộn với cuộc sống 'trôi sông, lạc chợ'.  Từng ấy giai điệu lời ca đan-xen nhau thành một thứ nhịp điệu Phi châu dập-dìu mạnh-mẽ, nửa như lả lơi mời gọi đôi tình nhân hãy mau dìu bước trên sàn nhảy. 
Trong truyền thống “Tango”, là nhạc cụ tiêu biểu nhất vẫn là đàn Bandonéon, một loại phong-cầm như accordéon xuất xứ từ nước Đức, phát ra những thanh-âm nỉ-non gợi tình, cực kỳ lôi cuốn. Thoáng nghe, tôi cứ tưởng như tiếng “phèng la” mà đồng bào Thượng ở nước ta thường hay thổi trong những dịp hội hè, đình đám.  Đàn Bandonéon có tất cả 71 nút bấm, và có thể chơi được cả hai nốt nhạc cùng một nút, tùy thuộc nút mở hay đóng. Đây là một nhạc-cụ rất khó sử-dụng, nhưng âm-thanh bi-thảm của nó lại hết sức hòa-hợp với xúc cảm Tango.  Vì vậy, nó được xem là biểu-tượng cho “Tango”, 'bà chúa của vũ trường'.
Trước khi biến-thành một điệu hát bình-dân, Tango đã xuất-hiện ở quận La Boca thuộc thủ-đô Buenos Aires vào cuối thế kỷ 19 như một phong trào khiêu-vũ. Lúc đầu, vũ-điệu tango chỉ là thể-loại nhạc-khí đơn-thuần chứ chưa có ca từ, gồm có một cây guitar, sáo tây (flute) và vĩ cầm (violin), là những nhạc-cụ duy-nhất được sử-dụng để diễn-đạt thể-điệu này. Sau đó, mới thêm đàn Bandonéon vừa được chế tạo xong, và nhập từ Đức sang.  Nhưng vẫn còn thiếu phần nhạc cụ tối thiểu để giữ nhịp và làm nền cho bản nhạc.  Phải đợi đến khi có sự hội nhập của hai loại đàn đắt tiền là dương cầm (piano) và đại hồ cầm (double bass) chơi nhịp chõi làm nền thì “tango” mới có được cái tên đích thực của mình như hiện nay.
Mấy chục năm sau, lời ca mới được viết theo ngôn-ngữ giang-hồ của đám dân thường ở phố chợ, lời lẽ thô-tục và sử-dụng khá nhiều tiếng “lóng” địa-phương. Trong màn đêm u tối của các xóm nghèo tạm-bợ, vũ điệu Tango đã được nhảy ngoài hè đường, trong quán rượu, cà-phê, sòng bạc và các hồng lâu, nhà thổ, nhậu nhẹt say sưa suốt canh-thâu.  Tại đây thường tụ-tập nhiều dân tứ chiếng đến từ khắp các nước châu Âu nhập lậu vào Argentina, trong đó chủ-yếu là nam-giới đến từ các nước như: Đức, Ý, Tây Ban Nha, sống chui rúc với đám da đen Phi châu trong những khu ổ chuột ngoại thành.  Ban ngày họ thường đi làm thuê gánh mướn, nhiều nhất là đi chăn bò tại các nông-trại xa thành phố. Mấy anh chăn bò nhà quê này, người dân thành-thị hay gọi chế-diễu là gauchos.  Làm quần quật suốt ngày, chỉ khi màn đêm buông xuống, họ mới được nghỉ ngơi, ăn uống hội hè. 
Và họ tự sáng-tạo nên điệu vũ mới mang tên Tango để tìm quên trong giây lát nỗi sầu viễn-xứ, thân phận bị bạc đãi, cũng như bộc-lộ tâm-trạng thất-tình qua giai-điệu não-nùng của giòng nhạc Tango qua âm-thanh khổ-đau, lãng mạn, tuyệt vọng. Bởi, hầu hết họ là những gã đàn ông cô-độc, thiếu đàn bà, ra đi bỏ lại đằng sau tất cả mà mục đích chỉ để tìm kiếm sự thành-đạt nhỏ nhoi nơi quê người. Họ gặp nhiều trở-ngại trong việc diễn-đạt ngôn ngữ, vất vả trong cuộc sống, đồng thời tiếc-nuối hạnh-phúc đã vụt-thoáng mà họ để lại trên quê-hương trong bước đường bỏ nước ra đi. Chỉ âm-nhạc và khiêu-vũ mới có đủ khả-năng lôi kéo người người lại gần với nhau, bất kể thân-phận thấp hèn, màu da hay ngôn-ngữ.  Thế là điệu nhảy Tango ra đời giữa đàn ông nhảy với nhau, và thường diễn ra trong các động chứa hay hộp đêm, quán rượu. Chính ở nơi đây, bọn họ tụ tập nhau lại để tìm quên lãng qua những ván bài, tìm hơi ấm qua các chầu nhậu say túy lúy, hay rơi vào vòng tay của các ả làng chơi nghiện ngập. Từ khoảng giữa hai thập niên 1860 và 1880 trở đi, lịch sử của Tango đã ra đời từ các khu ổ chuột bẩn thỉu nói ở trên mà dân thường ít dám bén mảng tới.
Ít ai ngờ rằng một vũ-điệu táo-bạo và hấp-dẫn từng chinh phục thế giới như thế, lại có một quá khứ trụy-lạc đến như vậy. Nhất là khi ngắm đôi nam nữ cọ xát vào nhau, phóng mình theo từng nhịp thở, ai cũng thấy bước nhảy của họ thật thú vị nhờ hai động-tác căn-bản đặc-trưng của “Tango”. Một được gọi là Quebrada, tức: cô đào phải gập đầu gối ngả người xuống phía sau. Động tác thứ hai được gọi là Corte, tức: là lúc đôi trai/gái đang nhảy ngon trớn bỗng phải chững lại một hồi, nhạc cũng ngưng hẳn một đoạn trước khi quay vòng chơi tiếp.  Quí vị biết tại sao lại thế không? Vì “Tango” bắt đầu bằng sinh-hoạt của các anh chăn bò Argentina. Họ lười tắm, trên người còn đẫm mồ hôi ngựa, nhưng lại thích bước vào các hộp đêm đông nghẹt mời các cô gái nhảy. Người họ hôi quá, nên các cô chỉ móc tay trái vào khuỷu tay phải của gã chăn bò, chứ không dám ôm sát để nhảy; và đầu ngửa về phía sau cho đỡ nặng mùi. Còn tay phải thì buông thõng xuống dưới hông gã, chỗ gần túi quần như để móc túi lấy tiền công nhảy.
Từ điệu nhảy lò cò nhà quê của các gã chăn bò nghèo hèn, “Tango” được sàng lọc qua thời-gian trở nên đại-chúng-hoá, thành vũ-điệu xã-giao phổ-biến khắp mọi nơi trên thế-giới hiện nay. Trong giai-đoạn phát-triển tột bực 1880-1930, phong trào “Tango” cuốn hút giới trẻ và đặc-biệt là tầng lớp nghèo sống ở kinh-thành đến mức mà các góc phố ngoại-ô thuộc khu-vực La Boca, nam-giới công-khai nhảy với nhau giữa ban ngày chứ không sinh- hoạt về đêm như trước nữa. Nó phần nào giống đám thanh-niên ngày nay quay-quần tụ-tập để trình-diễn nhạc “rap” vậy. Lối khiêu-vũ ngoạn mục và hình tượng của “Tango” rất ăn khách trong các khu đông dân, giới khuân vác tại bến cảng thủ-đô, đã lập tức bị nhà cầm quyền quy-kết là sinh-hoạt đồi-trụy khiêu-dâm, nên tìm cách dập tắt phong-trào này nhưng không thể ngăn cấm họ được. Đến khi đó thì phong-trào đã lan rộng ra khắp thủ-đô, con em giới trung-lưu/trưởng-giả cũng bắt chước nhảy theo.
Nhờ vào đóng góp của giới phong-lưu/trí-thức mà những phần thô-tục của lời ca dần-dà bị loại-bỏ bằng nét bay bướm, thể hiện qua lời ca chứa-chan tình-cảm, xót-thương da-diết. Thế rồi, từ thủ đô Buenos Aires, Tango truyền qua Âu châu du-nhập hồi thập niên 1910s. Đầu tiên, được hoan-nghênh nhiệt-liệt ở Paris và sau đó đã lan rộng. Các hội-quán “Tango” nảy sinh khắp nơi. Từ Paris, London, Berlin, cho chí các tỉnh lẻ tại Hòa Lan, Phần Lan, người ta có thể nhảy “Tango” suốt đêm. Ở Nhật và Trung Quốc, “Tango” biến thể theo hình-thức riêng. Riêng Việt Nam chúng ta, dù trong nước hay hải ngoại, mỗi khi nghe thấy điệu “Tango” trổi lên là bà con kéo nhau ra sàn nhảy đông chật cứng! Các ca-khúc Tango Việt Nam được sáng-tác nhiều khủng-khiếp. Không mấy ai là không biết điệu Tango, cho dù là không biết nhảy. Và dĩ nhiên, phải biết đến các 'giọng buồn chơi vơi' bên 'khúc Tango đắm say' của các nữ-hoàng chuyên trị “Tango” như Lệ Thu với “Bài tình ca mùa đông” của Trầm Tử Thiêng. Hoặc, Khánh Ly với bản “Kiếp Nghèo” của Lam Phương.
Cuối cùng thì, mấy ông nhà giàu ở thủ đô Argentina đành bó tay xuôi theo thời thế mà lao vào cuộc vui khiêu vũ. Lúc đó, dân giàu ở Buenos Aires rất ưa xuống thuyền đi Âu-châu du-lịch, ít nhất là mỗi năm một lần. Họ đều có biệt-thự nghỉ mát ở Paris hoặc London. Dạ tiệc của họ thường quy tụ giới quý tộc nổi tiếng. Người Pháp bấy giờ thường rỉ tai nhau qua câu nói: 'nó giàu giống như người Argentina để chỉ sự giàu có đến cực kỳ của họ. Con cái xuất dương du học, mang theo điệu Tango Argentina vào giới thượng-lưu Paris, rồi từ đó tạo nên làn sóng điên-cuồng với “Tango”. Mọi người mở dạ-tiệc khiêu-vũ với dàn nhạc Argentina và nhảy Tango. Y phục phụ nữ cũng thay đổi, những váy thụng và xòe của loại nhạc Luân vũ (Waltz) cao sang nay được thay bằng bộ váy đầm gọn gàng, buông thả hơn. Với sự ủng hộ nhiệt tình của dân Âu châu, “Tango” tái 'nhập cảng' ngược về thủ đô Buenos Aires. Và lần này, được cả nước hoan nghênh.
Cho nên muốn đi tìm vũ điệu Tango truyền thống không lai tạp thì chỉ có thể tìm thấy ở chính tại quê hương phát sinh ra nói mà thôi.  Nếu bạn là người đam mê lịch sử hay văn hóa cổ truyền như tôi, thì bạn sẽ không thể bỏ qua một địa chỉ thật đặc biệt của thủ đô Buenos Aires.  Đó là quận La Boca, nơi điệu Tango ra đời.  Nơi đây từng là bến tàu chính của thành phố, nhưng do vì nước thải quá ô nhiễm nên tàu bè đã bị chính phủ bắt phải dời sang chỗ khác.  Hiện nay, khu phố sống nhờ vào du lịch và vẫn cố giữ lại những nét đặc thù của ngày xưa.  Tôi đã bỏ ra cả buổi để đi tìm hiểu về quá trình hình thành “tango” tại nơi đây, đến tối lại đi xem show ca vũ nhạc Tango có kèm ăn uống tại hý viện Carlos Gardel nữa, nên cũng biết được chút đỉnh gọi là....” (trích du ký Nam Mỹ- Anthony Trần)
Không cần biết em là ai, ca-sĩ hay nhạc-sĩ có sáng-chế ra nhạc-cụ hay tiết-điệu lạ-kỳ như “Tango” Argentina không. Chẳng cần hỏi, em có sử-dụng âm-nhạc làm công-cụ như Giáo-hội và xã-hội từng làm không. Chỉ cần cảm-thông với em, người em đang hát đôi giòng chảy của người viết nhạc như sau:

“Trăng sáng soi! Trên lá hoa!
Dâng nhớ bao câu mong chờ nhạc xưa đã qua.
Xa xôi rồi, nhớ thương, ai mong chờ vấn vương.
Riêng có ta tim xót xa, luyến thương bao khúc ca xưa, đã phai nhòa.”
(Domino – bđd)

Nếu bảo rằng: “không cần biết em là ai”, kể thì hơi quá đáng. Nhưng nếu nói: bạn và tôi ta vẫn quan-tâm đến những điều và những ý chuyển-tải khi rao-truyền lời Chúa, như nhận-định của người ở Úc, từng viết như sau:

“Rao-báo Tin Mừng tuyệt nhiên không chỉ là giảng giải Lời Chúa thôi, nhưng lại là và chính là sống thực Lời Ngài trong mỗi động-tác tương-giao với mọi người.

Tôi đồng ý với thánh Phanxicô thành Átxizi khi thánh-nhân từng tuyên-bố: “Hãy rao giảng Tin Mừng của Chúa và nếu được, hãy sử-dụng lời-lẽ cho chính-đáng…” Theo tôi thì, rao giảng Tin Mừng là tìm cách sống thực Tin Vui An Bình từng chi-tiết, trong cuộc sống giữa đời. Sống như thế, là sống tử tế, có ân-huệ keo sơn vẫn đan xen với sự cảm-thông/hiểu biết của người khác, với thời-gian mình bỏ ra để lắng nghe bậc cao-niên đang nhớ lại thời vàng son của Giáo-hội, cứ hăng say diễn-tả không ngừng nghỉ. Sống Tin Mừng, còn là sống và làm việc cật lực cho sự việc chính-đáng, phải lẽ. Là, bộc-lộ nỗi ngạc-nhiên đầy hứng-thú, có niềm vui khi ta hành-xử theo cung-cách Đức Kitô từng làm, vào thời trước. Sống rao giảng Lời Chúa, còn có nghĩa sống vui-tươi, quyết làm chứng-tá cho Tin Vui An Bình mỗi khi ta quyết sử-dụng thời-gian để trở-thành người tốt cho chính mình, tức: thứ quyết-tâm nào đó mà ta không thể lúc nào cũng hoàn-thành cách tốt đẹp nhất thứ là khi ta cảm thấy như điên-cuồng, mê sảng khi mở hộp-thư ra thấy nhiều điều vui/buồn, ở trong đời.” (xem thêm Ann Rennie, How wil they know if we really love them, Australian Catholics, Summer 2014, tr.16) 

Sống thực điều mình rao-truyền Tin Vui An Bình và/hoặc làm chứng-tá cho Đạo, còn là và phải là: sống như con trẻ, tức: các bé em từng có “giòng chảy” tư-tưởng be bé, ngắn gọn từ điện-thư gửi Chúa, được thày cô gom góp ở đâu đó, rất trường lớp như sau:

-Jane: “Lạy Chúa con, thay vì Chúa cứ để cho con người chết, rồi Chúa lại sinh ra người khác, sao Chúa không giữ lại những người mà Chúa đang có bây giờ được không? Ký tên, Jane người con nhỏ của Chúa.”
 -Neil: “Lạy Chúa, hôm qua con đi nhà thờ dự lễ cưới của chị con, nghe mọi người hát rất hay, thấy mọi người mặc áo rất đẹp, nhưng có một chuyện mà con không thích, đó là: anh chị con chưa xong đám cưới mà đã hôn nhau trước mặt mọi người, coi kỳ quá phải không  Chúa? Chúa phải khuyên họ chấm dứt chuyện ấy mới được.”
-Jennifer: “Chúa ơi, vào thời Chúa viết Sách Thánh, người ta có hát loại nhạc lạ kỳ như con vẫn nghe ở nhà thờ không?”
-Elliot: “Lạy Chúa, đôi lúc con cũng nghĩ về Chúa. Nhất là vào lúc con đọc kinh và đi hát lễ với mọi người.”
-Robert: “Chúa à, con là người Mỹ, thế Chúa là người gì? Có kỳ-cục như tụi con không?”
-Joyce: “Con cảm ơn Chúa đã cho mẹ con sinh ra em bé, nhưng con đây từng cầu Chúa cho mẹ sinh chú Tôtô chứ đâu phải thằng bé kia đâu!”
-Nan:“Thưa Chúa, Con chắc là Chúa thương yêu hết mọi người trên thế-giới. Trong nhà của con có mỗi 4 mạng người thôi mà chẳng ai làm được thế hết.”
-Ginny: “Chúa dấu yêu, có thể nào Chúa ban thêm cho bọn con một ngày nghỉ khác giữa Giáng Sinh và Phục Sinh được không? Có như thế, con mới hát nhiều hơn ở nhà thờ.”
-Chris: “Chúa thân yêu, Con cũng muốn được sống đến 90 năm như ông kia ở Sách Thánh, nhưng biết làm sao bây giờ, hả Chúa?”…
-Raphael: “Nếu Chúa ban cho con cây đèn thần như Alladin, con quyết sẽ cho Chúa tất cả những gì con có, ngoại trừ số tiền ở trong bóp hoặc bàn cờ tướng mẹ mới mua cho con.”
-Donna: “Chúa ơi, Con đọc truyện tranh thấy người ta nói ông Tôma Êđison chế ra ánh-sáng, nhưng đi nhà thờ lại thấy cha xứ bảo là: Chúa làm hết mọi chuyện. Vậy, con dám chắc là ông kia đã cóp nhặt ý của Chúa, phải không?” (trích điện-thư thày cô chuyển đến mọi người)            

            Không cần biết em là ai, con trai hay con gái, mà lại có ý-tưởng lạ đời như thế. Chỉ cần biết, em có trung-thành tin vào điều em học được ở trường lớp hay không, thôi.
            Vâng. Đúng thế. Không cần biết bạn là con trai hay con gái, ở nhà Đạo, mà chỉ cần hỏi là bạn có trung-thành tin vào những điều nhà Đạo dạy bạn từ nhỏ không thôi. Và, chỉ cần biết: nhà Đạo nay có còn dạy những điều “không ăn-khớp” những gì mà em và tôi đã và đang học vào thời này, thôi.
            Đó, là tư-tưởng của người viết những giòng chảy ở sách vở, như sau:

“Như tôi đã đề-nghị cung-cách trở-thành người Công-giáo thời nay, ở đây rồi. Bây giờ, tôi sẽ chuyển câu “Thế nào là người Công giáo” sang thể hỏi “Tại sao làm người Công-giáo?” như vẫn được dạy từ hồi nhỏ. Từ đó đến nay, tôi thấy được lý-do rất rõ và cũng thuyết-phục được mọi người, đó là: con đường duy-nhất dẫn đến Ơn Cứu-Chuộc mà thôi. Nói thẳng ra, thì: xưa giờ ta được dạy rằng: con người dễ có mối nguy phải rơi vào chốn hoả-ngục đầy lửa bỏng, nếu không trở thành người Công-giáo. Nguy-hiểm này rất cao, lại khó lòng tưởng-tượng ra cung-cách đe-nẹt/doạ-nạt mạnh-bạo nhiều thuyết phục hơn thế, vào thời ấy.

Thế nhưng, nay tôi không còn tin như thế nữa. Và đa số người Công-giáo ở miền Bắc Hoa Kỳ, cũng không còn tin những chuyện như thế nữa. Không tin như thế, là bởi hiện thời, mọi người ở nhiều nơi, còn tìm ra nhiều lý-do mạnh hơn thế. Một trong các lý-do thấy rõ nhất vẫn xuất hiện mỗi khi ta đặt vấn-đề tương-tự, đó là: Hiện nay mọi người đều nhận ra được chiều-hướng của chủ-thuyết đa tôn-giáo. Thời nay, con người biết nhiều về đạo-giáo khác theo phương-cách khác biệt, như: từ trường lớp, báo-chí, truyền thanh hoặc truyền-hình, vi-tính và/hoặc qua các tiếp-xúc ngày càng nhiều với đủ mọi người theo đủ mọi tôn-giáo rất khác nhau. Dĩ nhiên, chuyện này dễ thấy nhất là ở Châu Âu và các nơi khác trên thế-giới, thế nhưng chỉ tập-trung xem xét những gì xảy ra ở miền Bắc Hoa-Kỳ thôi cũng đã đủ. Và, câu hỏi đặt ra cho mọi người là: tại sao phải là người Công-giáo mới có được Cứu rỗi?

Thật sự mà nói: ta chỉ hiểu được Đạo Chúa khi nhìn về Đạo trong bối-cảnh của chủ-thuyết đa tôn-giáo mà thôi. Thuyết đa tôn-giáo là yếu tố dân-gian ở thời-đại ta đang sống bởi nó cung cấp cho ta thấy được các đạo-giáo –trong đó có cả Kitô-giáo- rất mới mẻ. Một khi ta nhận ra Kitô-giáo trong khuôn-khổ các đạo-giáo như một tổng-thể, thì khi ấy ta sẽ thấy Kitô-giáo  -với bản-chất và mục-tiêu của mình -  cách rõ ràng hơn và hiểu Đạo Chúa hơn. Vậy thì, câu hỏi: “Tại sao phải là người Công-giáo?” Thì, câu trả lời trước nhất rất ngắn gọn của tôi lại có khác nhiều điều mang tính xây dựng: thực-tại dân-gian của thuyết đa tôn-giáo, một cách-thức nhìn đạo-giáo từ khi có Thời đại Khai sáng; sự thông-hiểu về sự khác-biệt và giống nhau giữa các đạo, và: vai-trò của Đạo-giáo trong cuộc sống của ta với Chúa…” (x. Marcus J. Borg, Heart and Home Being Christian in an Age of Pluralism, The Heart of Christianity How We Can Be Passionate Believers Today, HarperOne 2003, tr.207-208)

Nói cho cùng, có sống đúng vai-trò hoặc thế-đừng của người con Chúa không, đó là vấn-đề. Và vấn đề sẽ mãi mãi đặt ra như bậc thánh-hiền từng nhắc nhở mọi người ở Kinh sách rằng:

“Hoa quả của Thần Khí là:
bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu,
từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.
Không có luật nào chống lại những điều như thế.
Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt
vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
Nếu ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.
Ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau.”
(Thư Galata 5: 22-24)

Hiểu thế rồi, nay ta hãy cùng nhau tiến bước với lời ca hôm nào mình từng nghe hát, như:

“Mây vẫn xanh! Trăng vẫn thanh!
Nhưng thấy đâu, khúc ca đẹp, nhạc êm thắm tươi
Ai xa vời, có hay bao nhiêu ngày gió bay?
Bao lá khô! Theo gió thu!
Rớt trên đôi mắt, đôi môi, khắp mong chờ.”
(Domino – bđd)

Vâng. Đúng thế. Mây vẫn xanh. Trăng vẫn thanh. Dù bạn dù tôi, ta có hát hoặc quyết-tâm thế nào đi nữa, trời/trăng vẫn như vậy. Suốt đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng từng hát những bài như trên,
Nhưng quyết-tâm lại rất khác. Làm sao biết.  


Saturday 21 February 2015

“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”,



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Chay năm B 29/02/2015

“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”,
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc,
Bằng lời dịu dàng anh đã giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa, nhắm mắt với nỗi đau, ngọt lịm dạ.”
(Nhạc: Killing Me Softly – Lời Việt: Lê Hựu Hà – Nỗi Đau Dịu Dàng)
(Rm 5: 1-2)
            Không hiểu sao, khi nghe lại nhạc-bản này vào đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 13/11/2014, bần đạo cứ như đi vào một thứ “mê-hồn-trận” của âm-nhạc, có lời dịch rất thi-ca kiểu “liêu-trai”, rất trữ-tình.
            Không hiểu sao, mỗi lần đầm mình vào giòng chảy đầy nhạc “trẻ” có những tâm-tình hay như thế, bần đạo đây lại cảm-nghiệm một thực-tại nhiều hy-vọng thấm dần vào tâm can, hơn bao giờ.
            Quả thật, cũng dễ hiểu, là: khi diễn-tả tâm-tưởng của người trẻ các nơi, người diễn thường đưa ra sức sống nào đó nghe như “hát tình ca”, tựa hồ ca-từ bài hát trên, còn nói thêm:

            “Ngồi nghe anh hát thiên tình ca.
Ngỡ như đất trời giao hòa.
Và tai nghe thấy một rừng âm vang.
khúc hát dâng đời ta.
Cỏ cây muôn loại điều hân hoan.
Nhưng riêng em tưởng như anh.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Riêng phần bần đạo, mỗi lần diễn-dịch tâm-tư và ý-tưởng của ai đó, thường thì bần đạo dùng ngòi bút trẻ để diễn-tả tâm tình mình; dù đó chỉ là tâm-can/tình-tự để diễn-tả một hiểu-biết về thần-học/tu-đức, nữa.
Thế nhưng, nhiều lúc diễn và dịch quá nhiều về thần-học lẫn tu-đức, bần đạo thấy mình ra như người đi trên mây trời lồng lộng, thiếu thiết thực. Đôi lúc, lại phải nhờ vào thi-ca hoặc âm-nhạc để có thêm hứng mà suy tiếp.
Nghĩ thế rồi, bần đạo lại đã thấy cứ hiên ngang mà về với lời ca trên, mà hát tiếp những giòng chảy như sau:

“Rồi khi cơn sốt đun tình tôi.
Bỗng theo cõi nhạc xa vời.
Và anh lên tiếng gọi hồn em.
đang khóc bên con vực sâu.
Hãy mau lên đường về uyên uyến.
Khi nghe thân xác nài van.
Giờ đây ai hát lên tình ca.
Khiến tôi thấy minh xa lạ.
Lời ca âu yếm vỗ về em.
Nhưng vẫn thấy xa thật xa.
Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên.
Tim em vẫn còn nghe.”
(Lê Hựu Hà – bđd)     

            Phải thú thật thêm rằng thì là: viết “Chuyện Phiếm” lai rai/dài dài như bần đạo vẫn làm, đôi lúc cũng thấy mình trẻ ra rất nhiều tuổi. Một thứ tuổi trẻ mà chỉ những ai thường xuyên tiếp xúc với lớp trẻ/bé mới thông cảm. Có tâm-hồn trẻ, tức: có tâm-trạng như những người vẫn kể về cảm-nghiệm của riêng mình ở nhiều nơi, trên báo chí, trqng mạng hay cuộc đời, rất thực-tế.
Trên thực tế, không chỉ mỗi người nghệ-sĩ trẻ tên Lê Hựu Hà mới viết nên tâm-tình của người mình cũng rất trẻ; mà, cả đến những người không-còn-trẻ như tác-giả nọ từng kể lại thứ tâm-tình-lạ-vẫn-rất-trẻ bằng trang viết như sau:

Ông cụ quay sang nhìn người bạn già đi bên cạnh mình, ông mỉm cười:
-Bà này, mỗi buổi sáng, dậy sớm, đi tập thể dục, nghe chim hót, ngắm mặt trời lên, có bà bên cạnh, với tôi cứ như là đã chờ đợi từ lâu lắm rồi.
-Thì ông công tác xa, lại được giữ lại làm cố vấn, tôi ở xa ông cũng quen rồi. Có khi bây giờ ông về, tôi lại chưa quen ấy chứ!
-Cái bà này, tôi kể cả là ở xa, nhưng khi ở bên bà, tôi có thấy lạ gì đâu? Tôi vẫn thấy lòng mình thanh thản lắm.
-Thì giờ già rồi, chỉ mong thanh thản thôi.
Ngày nào họ cũng cùng nhau đi như thế. Dưới con mắt ngưỡng mộ của cả người trẻ và người già. Người trẻ nhìn ông bà mà ước: Ước gì già mình cũng được như thế. Người già thì ghen tỵ vì có người còn có người bạn đồng hành, có người thì không. Nhưng nhiều khi già rồi, lại trái tính, trái nết, mấy ai mà được tình cảm như hai ông bà. Tình già vẫn còn vương, nhất là cụ ông, cũng xấp xỉ bẩy mươi tuổi nhưng vẫn phong độ nhanh nhẹn lắm. Đúng là quân nhân có khác. Được rèn luyện qua gian khổ nên mới được như vậy. Còn cụ bà có vẻ yếu đuối hơn, lưng bà cũng đã không còn thẳng nữa, nhưng khuôn mặt phúc hậu khi nào cũng lấp lánh ánh cười.
Ông kéo ghế cho bà ngồi xuống bên cạnh, còn mình thì ngồi chiếc ghế gỗ nhỏ, ông chăm chú nhìn nồi cháo đang sôi, lát lại lấy cái giá ngoáy cho cháo đỡ bị dính dưới đáy nồi. Bà bảo để bà làm cho, nhưng ông nhất định không chịu, ông cười:
-Bao nhiêu năm, chỉ toàn bà nấu cháo cho các con tôi, cho bố mẹ tôi, bây giờ, tôi có nấu cho bà ăn tới hết đời cũng chưa thỏa lòng mà!
Bà nhìn ông, đôi mắt nâu đã nhạt màu vì thời gian ngân ngấn nước, mấy sợi tóc bạc trắng của bà phất phơ trước mặt. Bà vén mấy sợ tóc cho gọn rồi nhìn ông:
-Thứ tôi nuối tiếc duy nhất là khi còn trẻ chúng ta không được sống gần nhau. Ông là một người đàn ông dịu dàng. Nhưng bây giờ, ông về rồi. Với tôi thế là đủ!
Ông nhìn bà, ánh mắt lấp lánh niềm vui, và ngập tràn yêu mến. Đúng là khi già, người ta mới cần người làm bầu làm bạn, có người sớm tối bên nhau, câu chuyện câu trò thì cùng nhau ăn bát cháo trắng cũng ấm lòng biết mấy.
Bà nhìn giàn mướp trổ đầy hoa vàng, những con ong mật từ đâu kéo về bay vo vo trước hiên nhà. Ánh nắng buổi sáng chưa gắt, chút gió mát từ ngoài sống thổi lại khiến không khí thoáng dịu vô cùng. Bà nhắc ông:
-Thằng cả nó bảo hôm nay nó cũng nghỉ phép đưa cả vợ con nó về đấy. Ông tính mua cái gì về làm cơm bây giờ?
-Ôi dào, bà kệ chúng nó, nó về khắc biết mua gì mà ăn. Bà chăm nó mấy chục năm, phải để nó chăm lại bà chứ?
-Nhưng mà chúng nó về đây, biết cái gì mà mua.
Ông nhìn bà, ánh mắt cười vẫn không đổi.
-Thì mua được cái gì, ăn cái đó!
Bà cũng cười nhìn ông:
-Vậy thì nghe ông! Rồi như sực nhớ ra điều gì, bà bảo ông:
-Quên mất, nhà mình có gà đấy, việc gì phải mua cái gì nữa. Chuyện đó cứ để đấy, tôi với bà ăn cháo đã.
Ông bưng hai bát cháo để lên chiếc bàn nhỏ ở góc sân, hai ông bà ngồi ăn cháo và nói chuyện gì đó rất vui, khiến bà cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười hoài. Những nếp nhăn trên mặt cứ xô vào rồi lai dãn ra, như dấu bước của thời gian, cứ im lìm, lặng lẽ nhưng không thể xóa nhòa.
Khi còn trẻ, hai ông bà cùng mệnh kim, nên người ta nói, ở với nhau rất hay va chạm. Bà là người phụ nữ thông minh, lại chịu thương chịu khó, nhưng cũng khá bướng bỉnh, nên khi nào ông cũng là người nhường nhịn bà. Ông cười:
-Thua ai mới sợ, chứ thua vợ là đương nhiên! Này nhé: Tôi làm sao mà đẻ được cho bà được hai đứa con vừa ngoan ngoãn như bà, làm sao mà một lúc chăm cả bốn đứa trẻ (ý ông nói là cả bố mẹ chồng, các cụ xưa chả có câu: Một già một trẻ bằng nhau là gì)…
Ngoài ra, bà biết sửa điện, biết tháo lắp các đồ điện trong nhà bị hỏng, bà biết nấu những món ăn ngon mà chỉ về nhà ông mới được ăn. Nói chung là vì bà vĩ đại như thế, nên ông thua là cái chắc. Có lẽ suốt cuộc đời bà, chưa khi nào phải cãi nhau với ông. Nói ra thì chẳng ai có thể tin. Bà biết vì ông lúc nào cũng thương và trọng bà.
Trong thâm tâm bà cũng vậy, khi còn trẻ, lấy ông vì yêu ông, và cho tới tận bây giờ, tình cảm đó vẫn không thay đổi. Ngày ấy trẻ, những lần ông về buổi tối khi nào hai ông bà cũng nằm tâm sự tới khuya, có lần bà ôm ông nói:
-Sau này chúng mình già, anh không được chết trước em, em không muốn mình sống cô đơn một mình. Em đã sống cô đơn một mình nhiều rồi, nay mai anh về, em không muốn mình lại phải một lần nữa sống như thế. Vì vậy, nhất định anh phải sống lâu hơn em đấy! Em sẽ rất sợ nếu một sáng nào đó em tỉnh dậy và chỉ còn lại một mình. Em sẽ khóc đến hết nước mắt! Em không muốn sống cô đơn không có anh lần hai. Anh nhớ đấy nha!
Từ đó, bà thấy ông ít uống rượu hơn, nghe nói, ông còn bỏ cả thuốc lá mặc dù ông nghiện nặng. Không phải vì ông muốn sống lâu hơn bà, mà vì ông muốn, khi về già, ông phải khỏe mạnh hơn bà để có thể chăm sóc bà, và cũng có thể, để sống bên bà tới cùng thì thôi. Ông cũng sợ phải sống một mình, nhưng ông sợ bà phải sống một mình hơn. Nhưng nỗi niềm ấy, ông không nói cho bà biết. Đàn ông thường là thế. Yêu ai yêu hơn cả tính mạng của mình, nhưng vẫn cứ lặng lẽ mình mình biết, mình mình hay.
Từ ngày có ông về nhà, bà vui vẻ lên nhiều, sức khỏe cũng tốt hơn, bệnh huyết áp thấp của bà cũng đỡ hơn nhiều. Sáng nào ông cũng dậy sớm hơn, đánh thức bà và họ lại nắm tay nhau đi tập thể dục. Vậy mà đột nhiên mấy hôm nay, khi nào bà tỉnh dậy cũng chỉ thấy có một mình trên giường, ông thức từ khi nào? Ông đã đi tập thể dục một mình sao? Bà thầm nghĩ: Cái ông này, làm gì cũng được vài bữa, Thật ra cái vài bữa bà nói ấy cũng đã hơn ba năm rồi.
Bà dậy, mặc thêm cái áo len, trời sang thu nên buổi sáng hơi lạnh. Bà thấy ông từ đằng xa, tay xách tùi đồ ăn sáng, khuôn mặt có vẻ đăm chiêu. Nhưng vừa nhìn thấy bà, ông lại mỉm cười ngay được. Bà nhìn ông, người đàn ông cao lớn, đẹp trai ngày nào, rồi cũng thành một ông già, thời gian trôi cứ ngỡ mới là hôm qua, nhưng thời gian cũng thật khắc nghiệt với con người và với cả tình yêu. Thấy vẻ mặt suy tư của bà, ông cười:
-Bà lại đang nghĩ gì thế?
-Tôi chỉ nghĩ không biết ông đi đâu? Ông cười:
-Tôi đi mua bánh khúc của bà Dần đấy. Món này bà thích nhất mà. Gớm, bà bà ấy làm bánh khúc cỡ cũng ba bốn chục năm rồi ấy nhỉ?
-Bánh khúc của bà ấy, thì chẳng ai làm ngon được bằng ông ạ. Từ ngày hai đứa con nhà mình mới hai ba tuổi, đã ăn bánh của bà ấy rồi. Mà ăn bánh khúc của bà ấy, thì đi ăn ở đâu cũng không thấy ngon nữa. Nhưng vừa rồi bà ấy bảo, bà ấy bán nốt tuần này thôi. Bà ấy thấy mệt rồi.
Bà thở dài, nhìn ông:
-Thì chúng ta già cả rồi mà. Ông nhìn xem, cây mít này tôi trồng khi thằng Hải mới được mấy tuổi, vậy mà năm nay nó cũng đã cằn cỗi rồi! Có ra được quả nào nữa đâu!
-Cứ để nó đấy làm kỉ niệm bà ạ, nhưng sao dạo này không thấy ông dậy đánh thức tôi dậy cùng thế? Ông nhìn xa xa, rồi quay lại nhìn bà, ánh mắt vẫn âu yếm như thế:
-Tôi thấy bà ngủ ngon quá, nên không đánh thức bà dậy làm gì.
-Lần sau, ông cứ đánh thức tôi dậy đi cùng ông!
Ông biết tâm tình của bà. Ông đưa tay nắm lấy tay bà bảo:
-Thôi tôi với bà về ăn bánh khúc thôi!
Nhưng tất cả những buổi sáng sau nữa, ông vẫn không đánh thức bà. Khi nào tỉnh dậy trên giường, bà cũng chỉ thấy có một mình. Lúc đầu bà có chút hốt hoảng, nhưng sau vài buổi sáng, bà biết, ông không đi đâu xa, ông chỉ đang ngồi ở ngoài sân hoặc lại đi lại mua đồ ăn sáng, nên bà vẫn thấy an lòng. Bà chỉ thấy thắc mắc, dạo này nhiều lúc vắng bà, là ông lại trâm ngâm đến lạ. Có lần bà về rồi, nhưng ông không biết, khuôn mặt ông nặng trĩu suy tư. Chợt bà thấy lòng mình có chút bất an.
Ông đang ngồi nấu cháo bên chiếc bếp than nhỏ quen thuộc ở góc sân. Nhưng nối cháo đã trào cả ra ngoài mà ông không biết. Bà cầm chiếc áo khoác lên người ông rồi mở vung nồi cháo cho đỡ trào. Giọng bà vẫn dịu dàng như mọi khi:
-Buổi sáng cuối thu rồi, trời sắp chuyển lạnh đấy ông ạ. Mà dạo này, tôi thấy ông gầy đi!
Ông đưa mắt nhìn bà, miệng nở một nụ cười:
-Bà yên tâm, tôi ốm sao được! Nhưng dạo này, tôi thấy ông cứ suy nghĩ đi đâu ấy!
-Tôi thì nghĩ đi đâu được ngoài bà!
Mấy tháng sau, người ta không còn thấy hình ảnh hai vợ chồng già dắt tay nhau đi dạo nữa. Mà chỉ thấy có một mình bà cụ đi vào mỗi buổi sáng. Khuôn mặt bà không còn rạng rỡ như ngày nào. Đôi mắt dường như mờ đục hơn, như được phủ mờ bởi một lớp sương mỏng. Bà đi quanh một vòng rồi lặng lẽ về nhà, nấu cháo, múc hai bát và đặt trên bàn. Bà ăn cháo và ánh mắt bà lại lấp lánh ánh cười.
Một năm sau, đúng ngày ông mất, bà cũng ra đi. Khi con gái dọn dẹp đồ đạc của cha mẹ mới phát hiện ra lá thư của ông viết cho bà, nét chữ run run nhòe ướt, không biết vì nước mắt của ông khi viết hay của bà mỗi khi đọc, cô chỉ thấy những nếp gấp gần như bị rách ra:
“Mình à!
“Tôi muốn được sống lâu hơn mình để có thể nấu cháo cho mình ăn mỗi sáng, đánh thức mình dậy mỗi sáng và để mình không phải sống cô đơn một mình những năm tuổi già. Khi trẻ, tôi đã để mình sống cô đơn như vậy. Tôi muốn bù đắp lại cho mình.
Những ngày tháng này, là những tháng ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Khi được sống bên mình, được chăm sóc cho mình để bù đắp những tháng ngày tôi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nhưng ông trời không chiều lòng người rồi.
“Tôi biết, nếu đột ngột một sáng nào đó mình tỉnh dậy và không còn thấy tôi ở bên cạnh nữa, chắc hẳn mình sẽ không chịu nổi đâu. Nên khi tôi biết tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi biết tôi sẽ chẳng sống được lâu nữa. Tôi đã hết sức lo lắng bởi tôi lại thất hứa với mình rồi. Sáng nào tôi cũng tỉnh giấc trước mình và để mình lại đó. Tôi muốn mình quen cảm giác ấy đi. Để sau này khi tôi đi rồi, mình  không quá hụt hẫng. Không biết mình đã quen chưa?Nhưng dù sao, khi thức dậy một sáng nào đó, không có tôi bên cạnh, mình cũng đừng khóc đấy!
“Khi không có tôi bên cạnh, mình vẫn phải chăm sóc bản thân và sống vui vẻ. Nếu mình cảm thấy cô đơn quá, thì có thể về ở với thằng cả. Vợ chồng nó sẽ thay tôi chăm sóc mình.
Tôi vẫn chưa nói câu này với mình: Tôi yêu mình!”
Bức thư trên tay cô gái chữ đã nhòe gần như không đọc được nữa. Lau nước mắt, cô gái lặng lẽ đặt bức thư của bố dưới bức ảnh của mẹ trên bàn thờ. Dù không thể cùng đi với ông, nhưng cuối cùng bà cũng đã thỏa nguyện được về gần ông. Cô gái thấy tự hào về bản thân mình, vì cô được sinh ra từ chính tình yêu sâu đậm, đẹp đẽ của cha mẹ mình. Và cô tin, ở một nơi nào đó, chắc hẳn, bố cô lại sáng sáng đánh thức mẹ dậy, hai người cùng nhau thong dong đi tập thể dục mỗi sáng, trong ánh mắt mờ đục vì thời gian của họ, hạnh phúc vẫn cứ hiện lên rạng ngời hơn cả ánh bình minh!” (Tuệ Minh - Ohay TV - Sưu tầm)

Viết về tâm-tình của người trẻ nơi truyện kể ở đâu đó chỉ cốt tạo niềm vui hy-vọng cho mọi người, cả người già và người trẻ nữa. Viết về tâm-tình cần phải trẻ, còn được thấy nhiều đoạn viết ngay cả văn-bản của nhà Đạo mình để tạo cho người đi Đạo có hy-vọng mà sống. Sống hiên ngang, vì có đấng bậc hiển thánh trên đời vẫn từng bảo:

Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta
vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay;
chúng ta lại còn tự hào về niềm hy-vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”
(Rm 5: 1-2)

Viết về tâm-tình trẻ, còn thấy viết trên rất nhiều trang giấy, cả những trang báo đạo hoặc báo đời có những sự-kiện về lối viết và lối trình-bày tâm-tư rất trẻ của người mình. Viết về những tâm-tình trẻ cần phải có vào mùa Chay-tịnh, còn là lối viết của vị Giáo Hoàng có tâm-hồn trẻ là Đức Phanxicô, hôm vừa rồi như sau:

“Anh Chị Em thân mến,
Mùa Chay là thời điểm canh tân cho toàn thể Giáo Hội, cho mỗi một cộng đoàn và hết mọi tín hữu. Trước hết nó là "thời điểm của ân sủng" (2Corinto 6:2). Thiên Chúa không xin chúng ta bất cứ điều gì mà chính Ngài không ban cho chúng ta trước. "Chúng ta hãy mến yêu vì Ngài đã yêu mến chúng ta trước" (1Gioan 4:19).
Người không cách xa chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có một chỗ ở trong cõi lòng Ngài. Ngài biết đích danh chúng ta, Ngài chăm sóc cho chúng ta và Ngài tìm kiếm chúng ta những khi chúng ta trở mặt với Ngài. Ngài chuyên chú tới từng người chúng ta; tình yêu của Ngài không cho phép Ngài được dửng dưng lạnh lùng với những gì xẩy ra cho chúng ta.
Bình thường, khi chúng ta được lành mạnh và thoải mái, chúng ta quên mất người khác (những gì Thiên Chúa chẳng bao giờ làm): chúng ta chẳng quan tâm gì tới các vấn đề của họ, các khổ đau của họ và các thứ bất công họ phải chịu...
Cõi lòng của chúng ta trở nên lạnh lùng. Bao lâu tôi còn tương đối lành mạnh và thoải mái, tôi không nghĩ đến những ai kém may mắn. Ngày nay, thái độ dửng dưng vị kỷ này đã đạt tới tầm mức toàn cầu, đến độ chúng ta có thể nói đến một thứ toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng. Nó là một vấn đề mà chúng ta là thành phần Kitô hữu cần phải đương đầu. 
Khi dân của Thiên Chúa hoán cải trở về với tình yêu của Ngài thì họ thấy được những giải đáp cho các vấn nạn được lịch sử liên tục khơi lên. Một trong những thách đố khẩn trương nhất tôi muốn nói đến trong Sứ Điệp này đó chính là vấn đề toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng.
Thái độ dửng dưng lạnh lùng với tha nhân của chúng ta và với Thiên Chúa cũng cho thấy một chước cám dỗ thực sự đối với cả Kitô hữu chúng ta nữa. Mỗi năm, trong Mùa Chay, chúng ta cần nghe lại một lần nữa tiếng của các vị tiên tri kêu lên khiến cho lương tâm của chúng ta day dứt. 
Thiên Chúa không tỏ ra dửng dưng lạnh lùng với thế giới của chúng ta; Ngài đã quá yêu thương nó đến ban Con của Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Trong việc Nhập Thể, nơi đời sống trần gian, nơi cái chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, cánh cổng giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, một lần nữa được mở ra cho tất cả mọi người.
Giáo Hội như thể bàn tay giữ cho cánh cửa mở ra, nhờ việc Giáo Hội loan báo lời của Thiên Chúa, việc Giáo Hội cử hành các bí tích và nhờ chứng từ đức tin qua đức ái của Giáo Hội (Gal 5:6).
Thế nhưng thế giới lại có khuynh hướng co mình lại và đóng lại cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đã tiến vào thế gian và thế gian có thể đến với Ngài. Bởi thế mà bàn tay, tức Giáo Hội, không bao giờ được tỏ ra ngạc nhiên khi bị loại trừ, chà đạp và đả thương. 
Bởi vậy, dân của Thiên Chúa cần đến cuộc canh tân nội tâm này, kẻo chúng ta trở nên dửng dưng lạnh lùng và thu mình lại.” (trích Sứ Điệp Mùa Chay 2015 của Đức Phanxiô, do Đa Minh Maria Cao Tấn Tĩnh dịch từ www.zenit.org/en/articles/pope-francis-homily-at-celebretiong-of-vespers-at-the-basilia-of-st-paul)

            Sứ điệp Mùa Chay 2015, thật ra còn là sứ điệp của mọi ngày, rất chay kiêng. Chay không ở mỗi chuyện hãm mình phạt xác. Kiêng, không chỉ mỗi việc kiêng thịt mỡ mà thôi, nhưng lại cứ “xơi” “đồ biển” rất đắt tiền.
            Sứ điệp Mùa Chay rất hằng ngày, còn là lời nhắn nhủ gửi đến muôn người từ đấng bậc linh-mục nọ vẫn cứ nhủ và cứ khuyên mọi người “hãy sống Phục Sinh mọi ngày, cả trong Mùa Chay nữa”.
Sống như thế, sẽ thấy niềm vui/hy-vọng ở đường hầm đầy tăm tối vẫn le lói ánh sáng của sự “trỗi dậy” rất Phục Sinh, ở mọi ngày. Mọi thời, và mọi nơi. Sống Phục Sinh vào cả Mùa Chay là sống trong hy-vọng “được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” như đấng thánh hiền vẫn nhắn nhủ người dân thành Rôma thời nào, như trích dẫn.
            Sống niềm vui Phục Sinh cả vào Mùa Chay và mọi mùa còn là và vẫn là sống rất vững chãi trong tin-tưởng như câu truyện kể để kết-luận, rất như sau:

Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.

Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.

Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.

Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.

Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo  ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau. Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục là cây cỏ bừng mạch sống, lam là giòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!” (trích truyện kể do St sưu-tầm/phổ-biến trên mạng toàn cầu).

Nghe kể rồi, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà sống mạnh sống vững chã, hy-vọng sẽ thấy  niềm vui chan hoà, vào phút cuối. Thế đó, là niềm vui hy-vọng của tôi, của bạn, vào mọi ngày trong đời, vẫn an-bình hiền hoà.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn hy vọng đó là niềm-vui-hy-vọng
Tồn-tại mãi trong đời.
Của mọi người.