Monday 29 September 2008

“Bàn tay năm ngón, em vẫn kiêu sa”

(Mt 17: 20-21)

Kiêu sa, đâu vì bàn tay em năm ngón. Kiêu sa - lụa là, năm ngón mỗi bàn tay, vẫn là ân huệ ta nhận lĩnh, từ Thánh Linh. Đặc sủng, hay ơn thánh vẫn là điều ta quan tâm, bằng nhiều hình thức. Cả hình thức, có tiếng hát trữ tình như từ nghệ sĩ họ Ngô, sau đây:

“Và một lần thôi, xin mắt em cay

xin hết đi hoang những chiều buồn say

và xin rằng mưa vẫn bay

tình yêu này dâng mắt ngọc

son phấn xin đừng ướt mi.” (Ngô Thuỵ Miên – Giáng Ngọc)

Son phấn, xin đừng ướt mi. Còn nhớ ngày nọ, bần đạo có dịp được người bạn thảy cho tuần san Time, số 18/2008 đề ngày 12/5/2008, trong đó thấy báo này đưa chân dung 100 nhân vật nổi bật, thời đương đại. Bần đạo, chỉ nhìn thoáng đã thấy mỗi vị một vẻ, mười phân… vẹn hết cả mười một. Duy, có một vị đặc biệt đến độ làm cho bần đạo cứ lẩn quẩn. Vẩn vơ. Suy nghĩ. Suy và nghĩ, như thế này: làm sao một bệnh nhân ung thư như vận động viên Lance Armstrong lại có nhiều nghị lực đến độ có thể vượt thắng trở ngại của chính mình, vượt cơ thể đầy những bệnh, và tật?

Và, câu giải đáp tạm thời là từ người cùng một tâm trạng, viết như sau:

“Lance Armstrong đã gợi hứng cho chúng ta, những người đang giáp mặt một trong những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, để rồi tìm đến với y khoa hiện đại, mà nói được rằng tôi vẫn sống. Sống mạnh. Sống khoẻ. Vẫn cùng bạn bè/người thân ở bên người bệnh, quyết chứng tỏ rằng niềm hy vọng của họ và sự tin tưởng của y sĩ, đều có cơ sở hầu giúp ta chiến thắng như anh.” (Elizabeth Edwards – Time sđd tr. 38)

Về hy vọng - tin tưởng, anh cũng như nhiều bệnh nhân khác, vẫn mạnh đủ để thuyết phục bạn và tôi, ta gợi nhớ lời Vàng năm xưa:

“Nếu các ngươi có niềm tin bằng hạt cải,

thì các ngươi có bảo núi này:

hãy bỏ đây qua đó,

nó sẽ chuyển qua

và các ngươi không bất lực trước điều gì.”

(Mt 17: 20-21)

Bất lực hay tin tưởng, là hai thái cực ở con người. Những người, đã và đang sống trong phân vân/chịu đựng, nhiều khổ ải. Và hôm nay, khổ ải phân vân ấy, vẫn chờ đợi quyết tâm tin tưởng của riêng ta. Mỗi người. Mọi người.

Mọi người, hôm nay, có lẽ bận tâm nhiều đến “tình yêu dâng mắt ngọc”, để rồi hát thêm câu:

“Nhạc chiều lang thang rũ say

từng hạt mưa rơi khóc trên cung đàn

rượu nồng ai say ngất ngây vì nhớ

và tình yêu đó xin ngừng bước chân…” (Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Xem như thế, có nghĩa: điều mà nhà thơ hay người thường hôm nay còn bận tâm, không là “niềm tin có bằng hạt cải”, hay hạt lựu nữa, mà là: rũ say, lang thang, mưa khóc trên cung đàn, ngất ngây vì nhớ, tình yêu ngừng bước chân…”. Chí ít, là những âu lo về tình trạng rất có tội, mà xưng thú.

Về xưng thú các tội và những lỗi, bần đạo nhớ mình đã đọc một bài “xã luận” trên bản tin nọ, ở nước ngoài. Trong bài, có những ưu tư/thắc mắc, hỏi rằng: “cớ làm sao, người Công giáo nói chung nay thôi không còn nối đuôi nhau, chầu chực trước toà cáo giải, nữa?”

Chừng như câu hỏi này được khá nhiều vị còn để trong đầu. Và, có ký giả người nhà Đạo nọ, cũng đã mạo muội tìm kiếm câu đáp trả, mong được ý kiến phản hồi của bạn bè/người thân, như sau:

“Tôi có người bạn thân. Cô chẳng giấu diếm điều gì, cả với tôi. Dù chuyện riêng tư/gia đình, cô đều không giấu diếm. Cô cho biết, cô vừa về lại với nguyện đường, với giáo xứ để xưng thú tội mình, đến với cha. Sau 20 năm im vắng giáo đường, cô nói: có nhiều động lực đã thúc giục cô tìm về với toà cáo giải. Trong số đó, có việc: cô thấy tội nghiệp cho các linh mục cứ vò võ một mình trong “hộp xưng thú”, chờ dài cổ mà chẳng thấy ma nào bén mảng, lui tới mà xưng thú. Chờ và đợi, để được “ông cha” giải quyết các “việc riêng tư”, rất linh hồn.

Ngược giòng lịch sử, quay về với thế hệ trước đây, hẳn bạn đọc sẽ thấy bọn tôi, hồi trước, cứ nối đuôi nhau xếp hàng dài thườn thượt trước cửa “hộp” gọi là “toà giải tội”. Chờ mãi mới đến lượt mình vào, để thú nhận nhiều tội, kể cả những tội rất nghe quen. Thường thì, việc như thế hay xảy đến vào ngày thứ Bảy hoặc ngày của Chúa, rất Chủ nhật. Vào giờ phút ấy, chúng tôi cứ đọc thuộc lòng những câu dài quen thuộc để thưa, như: “Thưa cha, xin cha tha cho con là kẻ có tội!”

Sau đó, lại liệt kê một lô những tội là tội. Và kế tiếp, là con số những lần phạm lỗi. Hồi kế, có thể sẽ được nghe “ông cha” phán cho đôi điều về luân lý đạo đức. Và, được khuyên bảo: hãy về đọc một ít kinh, đa phần là kinh Kính Mừng, gọi là việc đền tội. Tức, đền vào những gì mình đã mắc phạm. Ở vài giáo xứ, việc xưng thú những tội và lỗi, được xếp đặt thật khéo léo. Bởi thế nên, người nối đuôi người trước toà hộp cáo giải, cứ nhích dần mau chóng. Xuyên suốt. Thẳng đuột.

Với nhà Đạo, xưng thú các lỗi lầm mình mắc phạm, vẫn là một việc quan yếu đối với niềm tin và là phù hiệu của căn tính của người Công giáo, ta không thể bãi bỏ. Vì bất cứ lý do gì. Cùng trong quan niệm ấy, còn là ý nghĩa của một thề hứa sẽ có cải sửa, và đổi mới. Nhưng thực tế, là: nay không còn thấy những cái đuôi xếp hàng xưng thú, như thời trước. Phải công nhận, rằng: việc xưng thú lỗi lầm –hoặc bí tích hoà giải, như vẫn được gọi là như thế- đã trở thành một bí tích không trang trọng mà người Công giáo nay ít muốn ràng buộc. Họ sẽ đến nhà thờ làm lễ cưới, hoặc lễ mồ. Cũng lên hiệp thông rước Mình Thánh Chúa vào lòng. Nhưng bảo rằng, thường xuyên xưng thú lỗi lầm đối với Chúa, và với “ông cha”, chừng như đã trở nên việc mà người Công giáo, nay ít làm.

Vậy thì, các người mắc tội, nay đi đâu?

Việc xưng thú lỗi và tội, không còn cần thiết nữa hay sao?

Trả lời những câu hỏi nêu ở trên, thật khá khó. Khó thứ nhất, là bởi không thể nói rõ, có hay không. Khó khăn thứ đến, là: chẳng ai dám nói, dám trả (những) lời nêu trên, mà không có phép của Hội thánh. Của Giáo hội rất thánh, gồm nhiều bậc thánh thiện, vẫn cho mình là có tội.

Việc nên làm ở đây, có lẽ chỉ nên điểm qua một vài câu nói thoáng còn thiếu xót, của đôi người. Trước nhất, là từ cuốn Giáo lý Hội thánh Công giáo, rất như sau:

“Hội thánh, lâu nay vẫn nhấn mạnh: Thiên Chúa vẫn thứ tha mọi lỗi lầm lớn nhỏ, cho bất cứ ai biết sám hối, về các lỗi lầm mình sai phạm, hoặc mắc phải. Nói rõ hơn, không tội nào dù nghiêm trọng đến mấy, mà Hội thánh lại không thể thứ tha. Không hối nhân nào, dù có sai phạm đến thế nào đi nữa, mà lại không kỳ vọng được Chúa miễn lỗi, trừ phi họ không thật lòng hối cải. Đức Kitô chết cho mọi người. Ngài vẫn muốn, nơi Hội thánh của Ngài quyền tha thứ mọi tội khiên, luôn mở rộng vòng tay đón vào lòng mình bất cứ ai biết quay lưng với tội, hoặc lỗi phạm.” (GLHTCG đoạn 982)

Cụ thể hơn, có lần bần đạo được đọc ý tưởng của thánh Âu Tinh, khi thánh nhân nói về niềm hy vọng được nhận từ việc tha thứ các lỗi phạm. Và thánh nhân, đã cổ vũ người nghe hay người đọc tư tưởng của thánh nhân; những người biết cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân cao cả này qua câu nói: “Nào, chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho cả và Giáo hội ơn lành to lớn như thế.”

Với các cụ không thẩm quyền trong nhà Đạo/thần quyền, các suy tư/hiểu biết, tựa như sau:

“Ở mặt ngoài, việc giảm sút con số người xưng thú nói ở trên, có thể được coi là không có gì đáng ngạc nhiên sửng sốt.

Đối với cộng đoàn kẻ tin còn hãi sợ, sau các vụ tai tiếng về bôi bác tình dục xảy ra trong cộng đồng linh mục ở nhiều nơi, việc đến với linh mục để nhận phép lành hoá giải, nay trở thành việc ít hấp dẫn. Và chuyện sám hối đều đặn không chỉ là bí tích duy nhất của Đạo Chúa đã giảm sút đáng kể, dạo gần đây. Ngay cả số người trẻ Công giáo dấn thân vào với công cuộc đào tạo để trở thành linh mục/ngôn sứ, đã làm cho Hội thánh thiếu hụt trầm trọng, chức thánh này.(Andrew Santella – The Sin Box, New York Time Book Review, Commonwealth, and GQ 2006).

Để chỉnh đốn tình trạng này, nhiều vị đã và đang thực hiện nhiều giải pháp khác nhau, như: giải tội tập thể, xưng tội trên mạng/truyền hình, vv. Nhưng Hội Đồng Toà Thánh về Truyền Thông Xã Hội, năm 2002 đã quả quyết là: “Không được cử hành phép bí tích nào trên Mạng Truyền Thông”. Peter Steinfels, chuyên gia hay viết về các vấn đề đạo đức, trong một bài viết nhan đề “cốt tuỷ của tiềm lực bí tích trong Giáo hội Công giáo” đã nhắc nhớ nhiều người về điều mà ông cho là căn bản: Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác đem đến cho ta ơn lành của Chúa.

Trong chiều hướng tưởng nhớ thời đã qua, nhiều đấng bậc Công giáo đã tỏ bày một tiếc nuối thời buổi 40 năm về trước, hầu hết mọi người đi lễ đều không dám rước Mình Chúa, nếu chưa xưng tội. Thời nay, thì ngược lại: cộng đoàn dân Chúa dự lễ, đều hân hoan lên rước Mình Thánh, bỏ toà cáo giải còn lại đó: vò võ. Trống trơn.

Theo Hội Đồng Khảo Sát Dư Luận Toàn Quốc, thì thời gian từ 1965 đến 1975, tỷ lệ người Công giáo ở Mỹ thường xưng tội hàng tháng đã suy giảm từ 38% xuống còn 17%. Công cuộc khảo sát của Viện Đại Học Notre Dame, thì hồi thập niên ’80 con số giảm sút này mỗi ngày còn sụt giảm nhiều hơn. Năm 1997, Trung Tâm Roper chuyên thăm dò công luận có cho biết: 10% số người tham gia trả lời, nói là họ vẫn còn xưng tội mỗi tháng một lần, 10% số người khác nói họ chẳng bao giờ đi xưng tội, hết.

Câu chuyện ở Hoa kỳ, lạ kỳ như thế. Thế còn, ở các nước khác thì sao? Câu trả lời xin dành để cho bạn và bè. Ở Sydney, ư? Đến giờ này, bần đạo chưa nắm được con số chính xác, nên không dám có ý kiến. Thật ra, thì lâu nay Sydney hay Úc Châu vẫn được coi như một trong các xứ đạo của con cháu người Ái Nhĩ lan, tức những người sống Đạo không khác mấy giới nhà Đạo Y-Pha-Nho hoặc Phi-Luật (rất) Tân, nhưng không tân cải luật đạo. Thành ra, bần đạo chỉ xin thưa bằng câu nói của bọn trẻ: không dám đâu.

Hôm nay, chỉ dám trích đăng một truyện kể ngăn ngắn, để thư giãn, như sau:

-Tôi kêu cầu Chúa cất khỏi tôi, mọi lỗi phạm và thói quen rất xấu, đớn hèn. Thì Chúa bảo: Không được đâu. Việc ấy không dính gì đến Ngài. Và, tôi vẫn phải làm.

-Tôi lại xin Chúa cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn, nguyên vẹn. Chúa lại dạy: Không nên thế. Tâm linh cháu vẹn toàn. Còn thể xác, thứ tạm bợ, chẳng cần lo.

-Tôi cầu Chúa ban cho tôi sự nhẫn nhục, để chịu đựng. Chúa bảo: Không. Nhẫn nại là phó phẩm của lao tác cực hình. Kiên nhẫn không là quà cho- không biếu- không, cần tạo ra.

-Tôi nài Chúa ban cho hạnh phúc. Thì, Chúa nói: Đừng làm thế! Ta chỉ ban cho con phép lành, thôi. Còn, hạnh phúc là tuỳ nơi con.

-Tôi ao ước Chúa cất khỏi tôi, mọi đớn đau xác hồn. Và, Chúa trả lời: Không! Khổ đau kéo con ra khỏi các lo toan thế trần và đem con lại gần với Ta, hơn.

-Tôi mong Chúa gia tăng niềm tin yêu linh đạo, nơi tôi. Chúa lại thầm thì: Không nên thế. Con phải tự mình mà tăng trưởng. Nhưng Ta sẽ tỉa bỏ để con sinh hoa kết trái.

-Tôi khẩn khỏan Chúa ban cho những gì làm cho đời tôi them hưng phấn, sống vui. Ngài cũng phán: Ta ban cho con sự sống để con vui hưởng mọi thứ, trên đời.

-Tôi nguyện Chúa giúp tôi yêu hết mọi nguời, nhiều hơn tôi. Chúa bèn gật đầu, đắc ý: À thì ra, cuối cùng con cũng hiểu được ý Ta.

Vâng. Tất cả câu truyện và mọi chuyện, đều tóm gọn duy nhất, chỉ điều ấy. Điều, cần lưu tâm thực hiện trong đời mình. Lúc trước cũng như hôm nay và mãi mãi sau này, là: thuận ý Chúa. Trong yêu thương. Chân tình. Dù, “bàn tay năm ngón (ta) vẫn kiêu sa”. Dù có, “đi hoang những chiều buồn say”, hay: “muốn chuyển đổi, đồi núi này” mà không được. Vì, niềm tin ta có và tình thương “kiêu sa” như hạt cải nhỏ, ta chưa có.

Để rồi,

“Và xin rằng mưa vẫn bay

Tình yêu nầy dâng mắt ngọc

Son phấn xin đừng ướt mi ... (Ngô thuỵ Miên –bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ thân thưa cùng bạn

cùng tôi, xin như thế.

Monday 22 September 2008

“Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt”

trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa

anh lạy trời mưa phong toả đường về

và đêm ơi xin cứ dài vô tận…

Anh cứ xin mưa phong toả đường về

Anh vẫn xin mưa phong toả đường về.

(Ngô Thuỵ Miên – Tháng sáu trời mưa)

(Châm ngôn 3: 20)

Có một lần, nhân buổi trình làng “Chuyện Phiếm tập I”, có bạn đến với tác giả thân mật hỏi: cơ duyên nào đưa đẩy anh cầm bút viết “chuyện phiếm”, thế? Một lần khác, lại có người em linh mục trẻ viết một bài trên blog “giađìnhanphong”, đã phân minh:

“Nói đến phiếm, chuyện phiếm, người ta thường nghĩ đến ‘chuyện đùa vui, không thiết thực, không đâu vào đâu…(x. Từ điển TVPT, tr. 710), kiểu bác Mười Hai có nói trong bài nọ: ‘Phiếm ở đây, là phiếm cho vui…’ nhưng đọc nhiều bài của tác giả phiếm, đôi khi cũng thấy đau đầu kinh khủng!”

(Lm JB Hồ Quang Lâm, giadinhanphong.blogspot.com).

Vào lần khác, bần đạo cũng đã phân minh: phiếm hôm nay, dù về Đạo hay chỉ mỗi chuyện đời, là nói với nhau. Và cho nhau. Nói hai chiều. Có nghe và có nói. Thế mới vui. Vui nhất, là: từ khi viết phiếm, bần đạo nói rất ít. Chỉ dám sẻ san những điều mình nghe biết. Nghe nhiều. Viết in ít. Nhưng, nhất định không giảng. Dù chỉ giảng duy nhất, cho một người.

Và có lẽ, bởi nghe nhiều, nên bần đạo cảm nhận được tính thơ văn đậm nét nơi tư tưởng của đàn anh, nơi nhà Đạo. Và cả với bầu bạn, trong đời. Đời có Đạo, có người. Và, thơ văn đậm nét ấy, có thể chỉ là nhạc bản được trích dẫn ở trên. Có thể là, tư tưởng sâu sắc của Kinh Sách, ở bên dưới:

“Nhờ tri thức của Người,

vực sâu được khai mở

và mây trời đổ mưa.

(Cn 3: 20)

Có thể, vẫn chỉ như nhận định vào cuối đời của một Hồng Y trọng tuổi, nay truyền đạt:

“Những người lâu nay giữ vững niềm tin, hiện giờ chẳng còn muốn người khác đem đến cho mình thứ lương tâm không mấy tốt đẹp, nữa. Nhưng, họ cần nhiều hỗ trợ để mong giữ lương tâm nhạy bén, thẳng thắn. Một điều mà chắc chắn mọi người sẽ cần đến, là chất xúc kích liên hồi để ta có thể suy tư. Nghiền ngẫm…

Quả thật, ta vẫn cần đến lề luật và qui định ranh giới để sống, nhưng Thiên Chúa chẳng cho phép bất cứ một ai tạo lằn ranh hạn chế với qui định quyết cột trói Ngài bằng luật lệ. Ngài vượt lên trên mọi lằn-ranh hạn chế, con người tạo ra.

Về những người chưa có niềm tin, ư? Khác tôn giáo ư? Chúng ta thường có thói quen hay nói với họ về nền tảng đạo đức, ta vẫn sống. Nhưng, mọi người vẫn có thể cùng chung nguyện cầu với những người có niềm tin khác với mình. Hãy thân mời họ đến cùng nguyện cầu, chung với ta. Mỗi khi có dịp, ta cũng nên tham dự nghi thức nguyện cầu hoặc tế lễ của các người anh em/chị em thuộc tôn giáo khác. Làm như thế, không có nghĩa sẽ đẩy ta xa rời Đạo Chúa. Không hẳn là như thế. Nhưng, có làm thế, ta mới đào sâu hơn ý nghĩa của chính cội nguồn niềm tin, ở trong ta. Đừng hãi sợ, là mình sẽ phải giáp mặt với những gì xa lạ, và khác biệt. Bởi hiện nay, nền văn minh tiên tiến đang có vấn đề lớn ta phải đương đầu, là: có sự thiếu xót quan trọng trong sự tin tưởng lẫn nhau. Thiếu niềm tin cần có, thì sự quan hệ giữa những người đang sống trong cùng hành tinh, nhưng khác địa danh, khác chính kiến, sẽ chẳng còn ý nghĩa.” (ĐHY Carlo Maria Martini, SJ – Chuyện nói buổi tối ở Giêrusalem, laRepublica.it 19/5/2008)

Phiếm, là dám nói lên những điều nghe qua có vẻ nghịch nhĩ. Nhưng rất thực. Và rất đúng. Nói vào buổi tối, hay ban ngày, điều đó không quan trọng. Nhưng, tuyệt nhiên không chỉ phán thôi. Nhưng, nói ở mọi nơi. Khắp chốn. Ở đời thường. Một đời có đủ chuyện Đạo. Lẫn việc đời. Có nhạc bản với nhịp điệu. Có âm vận thi ca rất “nền nã”, như sau:

“Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống

trời không mưa, em có lạy trời mưa…” (Ngô thuỵ Miên – bđd)

Tháng sáu hôm nay, không hẳn là năm tháng của niên lịch, trời đất. Cũng chẳng là, ngày tháng của những chiêm bao, mộng mị. Nhưng, là những giờ phút tháng ngày của ân huệ trời mưa, Chúa đang rưới. Chúa rưới mưa vào ngày lễ Ngũ Tuần, những năm về trước. Và cả ngày Ngũ Tuần của năm nay. Của ngày hôm nay. Ngày, mà mọi người còn gọi: là ngày hội của đám trẻ trung. Có liên hoan. Có vui mừng. Ngày, mà mọi người được lĩnh nhận thần lực, của Thánh Linh. Lĩnh nhận, để rồi mình làm nhân chứng cho Ngài. Không chỉ là với người nhà Đạo. Nhưng, muôn người. Ở đời.

Về ơn mưa móc, Thầy Chí Thánh từng quả quyết:

“Người cho mặt trời của Người

mọc lên soi sáng kẻ xấu

cũng như người tốt,

cho mưa xuống

trên người công chính

cũng như kẻ bất chính.

(Mt 5: 45)

Ơn mưa mà Chúa phú ban, không chỉ đổ tràn nội nhật tháng sáu, của mỗi năm. Cũng chẳng tặng riêng cho dân con nhà Đạo, một đời. Mà, cho hết mọi người. Mỗi ngày. Như nội dung bài thánh vịnh ta thường hát, như sau :

“Ta sẽ đổ xuống

muôn hồng ân,

cho Xi-on

được lương thực dồi dào,

và ban cho kẻ nghèo

được no nê cơm bánh.”

(Tv 132: 15)

Hồng ân ấy, Ngài đổ xuống như mưa. Mưa Hồng Ân. Mưa cơm bánh từ trời, người xưa từng gọi manna, ơn mưa móc. Mưa ân sủng, người người vẫn trân qúi. Trân trọng và yêu quí, như Phê-rô thánh-nhân từng nhắc nhớ:

“vì họ cũng được hưởng sự sống

hồng ân Chúa ban.”

(1P 3: 7)

Hôm nay, ở nơi nào, cũng đều có mưa. Mưa hồng ân rơi không ngớthay chỉ là “mưa phong toả đường về”, theo diễn tả của người nghệ sĩ dẫn ở trên. Hoặc, vẫn là mưa “tình nồng thắm”, gửi đến cho dân con/mọi người, ở muôn nơi. Mưa tuôn theo nhiều kiểu. Có kiểu rất thời thượng, đương đại, như truyện kể ở bên dưới:

“Như thường thấy, vào những ngày của Chúa: vị mục sư từ tốn bước lên bục giảng nói đôi lời tâm huyết với bà con tham dự. Trước khi ban bố Lời của Chúa, vị mục sư dành để đôi ba phút riêng tây hầu vắn tắt giới thiệu một thừa-tác-viên khách lạ, khá trọng tuổi, đến với cộng đoàn chiều hôm ấy.

Khi giới thiệu, mục sư chỉ đơn giản nói rằng: vị thừa-tác-viên khách lạ là một trong những người bạn thân thiết nhất của ông, thời niên thiếu. Vị này sẽ lên nói đôi câu để san sẻ những gì ông trân trọng nhất, trong phụng tự. Được giới thiệu, vị thừa tác viên trọng tuổi bước lên bục, đứng cạnh vị mục sư, bắt đầu nói:

Có 3 người, một ông bố, một người con và người kia là bạn của con mình, cùng lên thuyền ra khơi, chạy gần bờ. Thuyền đi được một quãng, bỗng dưng phong ba từ đâu dồn dập tới, ngăn chặn mọi nổ lực của ba người, khiến họ không thể quay đầu về với đất liền. Sóng vỗ cao, tới tấp dồn dập đánh liên hồi, khiến người cha có kinh nghiệm đi biển rất nhiều lần, vẫn không thể giữ cho thuyền ở thế cân bằng, đành để sóng xô đẩy thuyền lật úp, gần mạn bờ.

Vị thừa-tác-viên trọng tuổi bèn do dự, ngừng câu truyện kể chừng dăm phút, nhìn về phía hai người bạn trẻ ngồi ở hàng đầu, thích thú chờ nghe tiếp câu truyện kể.

Ông tiếp tục: người cha vội chụp dây phao cứu hộ và định thần biết rằng mình phải có quyết định khó khăn nhất đời ông là: ông sẽ ném giây phao cho đứa nào đây, con trai hay người bạn của con nình. Ông chỉ có vài giây ngắn để quyết định. Và, người cha biết con ông là một tín hữu ngoan đạo, còn bạn của con, thì không. Ông không còn thời gian để cân nhắc nữa. Phải quyết định ngay, vì cơn sóng dữ tiếp tục nổi như cồn và hai người trẻ đang chiến đấu, trong tuyệt vọng. Ngay lúc ấy, người cha kêu lớn tiếng: “Hai ơi, cha thương con lắm!”. Cùng một lúc, ông ném dây phao cứu hộ cho người bạn trẻ của con ông.

Thoạt khi ông kéo được người bạn của con trai ông về gần với chiếc thuyền lật úp, thì đó cũng là lúc ông thấy con mình đã chìm hẳn trong cơn sóng căm hận, đi vào vùng tăm tối của biển đen. Thân xác của con ông, sẽ không bao giờ được tìm thấy.

Kể đến đó, hai người trẻ đang nghe giảng bỗng ngồi thẳng người, hồi hộp chờ đợi từng tiếng và từng lời thốt ra từ miệng của vị thừa-tác-viên trọng tuổi. Và, câu truyện được kể tiếp: Người cha, tin chắc con trai mình sẽ về nơi vĩnh hằng, có Đức Chúa. Và ông không thể sống nổi với ý nghĩ, là: bạn của con ông không chắc đã được vào với Nước Chúa, vì anh không hề nhận biết có Thiên Chúa…Vì thế, ông quyết hy sinh con của mình để cứu vớt, bạn của con.

Truyện ở đây, đích thị nói lên lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình thương yêu bao la Ngài làm cho chúng ta, Thiên Chúa đã hy sinh Con Một của Ngài để cứu vớt hết mọi người.

Nói đến đây, người kể mời gọi và thúc giục mọi người hãy hoan hỷ đón nhận sự hy sinh cao cả của Đức Chúa và hãy nắm bắt dây phao cứu hộ Ngài ném cho chúng ta trong lễ này”. Nói xong vị thừa-tác-viên trọng tuổi bước về chỗ ngồi của ông, ở hàng ghế cạnh những người trẻ. Cả nhà thờ chìm đằm trong yên lặng. Để suy nghĩ.

Vị mục sư bước chậm rãi lên bục và kết thúc bài giảng bằng lời mời ngắn gọn mọi người đáp ứng ý tưởng của vị thừa-tác-viên khách đưa ra. Quá xúc động về câu truyện kể, nên không ai đáp lại điều gì.

Sau buổi lễ, hai người trẻ ngồi ở hàng đầu đến gặp vị thừa-tác-viên khách lạ, và thưa với ông:”Bài chia sẻ của ông rất xúc động. Nhưng, con không nghĩ là trong thực tế cuộc đời, lại có người cha nào dám hy sinh mạng sống của con mình chỉ để hy vọng rằng bạn của con sẽ có cơ hội lĩnh nhận một niềm tin, đến như thế.”

Đưa mắt nhìn xuống cuốn Thánh kinh đã sờn gáy cầm trên tay, ông nhoẻn nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt gầy guộc, và đáp lại: “Này bạn trẻ, anh đã nhìn ra điểm cốt lõi rồi đó”. Rồi ông nhìn hai người trẻ bằng cặp mắt thân tình, và nói: “Anh không tin điều đó đã thực sự xảy ra ư? Như lão tôi đang đứng cạnh đây để kể cho anh về điều mà chính Chúa đã hy sinh Người Con Một của Ngài cho lão tôi. Anh bạn xem đó…Lão tôi đây chính là người cha trong truyện kể; và vị mục sư của anh đang đứng kia lại chính là bạn của con trai lão tôi, năm xưa đó.”

Nghe kể truyện, hẳn bạn và tôi, ta đều vẫn nghĩ: truyện kể ra, chỉ để minh hoạ cho hành động đầy ắp những thương yêu của Đức Chúa. Ngài quả đã ban ơn mưa móc, những “manna” ân huệ, cũng là để ban cho hết mọi người. Chẳng trừ ai. Mưa “Manna”, hay cơn mưa bình thường, khi đã rơi xuống, đều làm ướt đầu em tôi, ướt áo bạn, cả thân mình tôi. Mưa ân huệ, đâu có gạn lọc cho riêng ai. Đâu có kỳ thị, chừa một ai.

Thực tế đời thường, thường là như thế. Làm cha làm mẹ, chắc ta cũng khó có thể hành động như vị thừa-tác-viên trọng tuổi, nơi truyện kể. Nhưng, có một điều khiến ta có thể đoan quyết được, đó là: mình vẫn có thể đến với hết mọi người. Cả người trong Đạo, lẫn ở ngoài. Đến, như cha già Hồng y Carlo Martini đã xác quyết như trên. Đến, giúp đào sâu thêm được đức tin.

Hãy cứ ra khỏi vỏ sò cục bộ - địa phương, riêng tây. Của tôi và bạn. Ra khỏi nơi đó, bạn và tôi, mình sẽ thấy còn rất nhiều việc để làm. Làm trong say mê. Phấn khởi. Suốt một đời.

Trần Ngọc Mười Hai

vẫn kỳ vọng

rằng bạn và mình,

ta rồi sẽ thế.