Saturday 29 December 2012

“Và mối tình sống êm đềm”



Chuyện phiếm đọc trong tuần lễ Chúa Chịu Phép Rửa Năm C 13-01-2013

Và mối tình sống êm đềm
         “Là tình riêng trong lòng Anh yêu em.”
(Y Vân – Tình Lính)

            Anh yêu Em. Em yêu Anh. Lâu nay vẫn là chuyện thường tình hay tình thường, mà sao tác giả Y Vân lại cứ gọi đó là “Tình Riêng Trong Lòng..” thế vậy? Lại càng không phải, chỉ riêng là “Tình Lính” hay người lính rất tình, bao giờ hết!
            Thú thật với bạn đang đọc các giòng chữ đầy những “phiếm loạn” này, rằng: bần đạo chỉ mỗi vấn nạn và nhận thức như thế, mới đây thôi. Còn thuở trước, mỗi lần nhớ và hát câu cuối của bài hát trên, bần đạo đều nghĩ: bài hát này là nói về người lính “Việt Nam Cộng Hoà” rất đa tình, mà thôi.
            Nay, bần đạo đặt lại nghĩ như thế này: Nếu có ai quyết một lòng hay để nguyên một đời bỏ ra mà rao giảng và phục vụ Chúa thì ta có gọi họ là “ngôn sứ” hay “nhân chứng” Đức Kitô, không? Và, nhà thơ hay người nghệ sĩ viết nhạc, có còn hát những lời như sau, không:

            “Anh là lính đa tình.
Tình non sông rất nặng.
Tình hải hồ ôm mộng.
Tình vũ trụ ngát xanh.
Và mối tình sống êm đềm,
            Là tình riêng trong lòng. Anh yêu em.”
(Y Vân – bđd)

            Của đáng tội, là lính tráng, tiên tri hoặc ngôn sứ/chứng nhân của Chúa, vẫn là những vị dám sống và dám chết cho lý tưởng nào đó. Chí ít, là lý tưởng “Tình yêu”, viết rất Hoa. Tức, Tình Yêu lý tưởng, của Đức Chúa cũng rất thật.
            Nhưng, vấn đề lại đặt ra hôm nay, là: người lính tráng rất “đa tình” hoặc linh mục, rất ngôn sứ của Chúa còn nhiều lắm không mà sao cứ bảo: nay ta thiếu linh mục cùng ngôn sứ? Để trả lời, để nghị bạn đề nghị tôi, ta nghe tác giả Michael Williams trần tình như sau:

“Trên trang blog của Hiệp Hội Linh Mục Công giáo Ái Nhĩ Lan, tác giả Teresa Mee có cho biết: vấn đề căn bản hiện nay của Hội thánh không phải là chuyện thiếu hụt linh mục để sắp xếp tổ chức các giờ lễ cho ngày Chúa Nhật ở các nơi. Thay vào đó, “vấn đề thực sự đặt ra cho Hội thánh chính là sự vắng bóng người đến nhà thờ dự Tiệc Thánh; chí ít là với cả ba thế hệ trẻ, ở mọi thời”.
 Nói chung, thì thế này: vấn đề chính hôm nay, là: chuyện lang thang và lưu lạc. Lang thang, tức người đi Đạo nay lang thang ở đâu đó. Và, lưu lạc là người sống Đạo đang thực sự ở nơi nào khác chứ không ở nhà thờ. Và thực ra, thì khi thấy vấn đề gì xảy đến, động thái đúng đắn và đàng hoàng nhất, là: phải khởi sự tìm cho ra nguyên nhân, mới là thái độ tích cực và nghiêm túc. Vả lại, cho đến nay, vấn đề thiếu vắng người trẻ đi nhà thờ những 3 thế hệ, thế mà chẳng thấy ai lo điều tra, nghiên cứu. Thay vào đó, giới chức có thẩm quyền trong giáo hội lại tìm cách đổ lỗi cho chủ nghĩa này khác, nên mới khó.
Tuy thế, đề cập đến chuyện này tác giả Teresa Mee lại đã phản ánh chuyện lớp người trẻ hôm nay dù không đi nhà thờ thường xuyên như trước, nhưng họ vẫn tham gia công tác tỏ bày tình thương nâng đỡ rất truyền thống có liên quan đến các tổ chức của Giáo hội nhiều hơn nữa; chẳng hạn như: Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, phong trào gây quỹ giúp đỡ người nghèo đó, tật bệnh, vv.., hoặc đề ra nhu cầu, thảo luận nghiêm chỉnh các đề tài tín lý, đạo đức cũng như siêu hình có liên can đến cuộc sống, rất thực tế, vv…(x. Michael Williams, Blog Watcher, Priest Shortage Not the Problem, CathNews 28/10/2012)

Nói theo kiểu lý luận và tìm hiểu theo cung cách nhà Đạo, là như thế. Còn, nói theo kiểu nghệ sĩ viết nhạc, hoặc nhà thơ là nói và hát giống như sau:

                        “Có lúc muốn lấy hoa rừng
Anh gửi về em thêu áo
Cả ngàn vì sao trên trời
Kết thành một chuỗi em đeo
Dù rằng đời lính không giàu
mà chắc không nghèo tình yêu.”
(Y Vân – bđd)

            Nói như thế, giống như thể bảo rằng: bạn và tôi, ta có thể hát những bài rất giựt “soul” hoặc nhún nhẩy nhịp “Twist” như ở trên mà không mệt; hay vẫn cứ long rong thả hồn theo gió bay đi, với khúc nhạc tình tự rất “thính phòng”, thì lại khác.
            Nói cách khác, hát nhạc thính phòng hay hát nhạc trẻ rất giựt “Twist” hoặc nhịp “bebop”  “A gogo” là hát và giựt với tất cả tâm tình có lời lẽ như sau:

                        “Anh là lính đa tình.
                        Tình non sông rất nặng.
                        Tình hải hồ êm mộng.
Tình vũ trụ ngát xanh
                        là, mối tình rất êm đềm
                        là, tình riêng trong lòng:
Anh yêu Em.”
                        (Y Vân – bđd)

            Nói hay hát, những “tình riêng trong lòng”, hay “tình vũ trụ ngát xanh”. Cũng đều là thứ tình nóng bỏng, “rất êm đềm”, “riêng trong lòng” để nói lên một điều, rất khó nói nhưng dễ làm, là: Anh yêu Em.
            Một lần nữa, nói tóm tắt, hay nói rộng ra, là vẫn bảo rằng: tình gì thì tình, vẫn luôn là tình “Anh yêu Em” hoặc “Em yêu Anh” ngọt ngào, rền khắp. Ví thử, bạn và tôi, ta tìm cách thay đổi chủ từ và túc từ Anh/Anh Em/Em bằng những danh xưng/tên gọi rất hiếm quý như Đức Chúa, hoặc Mẹ Hiền Maria, hoặc thánh cả Giuse, thánh tổ/quan thày vinh hiển, ta sẽ có được một trời mới/đất mới rất hữu tình đầy Phục Sinh. Như bao giờ.
            Phục Sinh là gì? Nếu không phải là “trỗi dậy” trong cuộc sống. Tức, sống một cuộc sống không còn thói tục “quen quen” như thời cũ, cũng xưa hệt như trái đất có tuổi thọ cả triệu triệu năm, đáng kính, trân trọng. Phục sinh trong cuộc sống là, cứ hiên ngang, đầu cao mắt sáng, tự hào mình là người Đạo Chúa, chẳng đổi thay, tuy vắng bóng quên tham dự Tiệc Thánh; hoặc, lâu ngày chẳng còn biết đến cầu nguyện?   
            Nói cách khác, Phục sinh/trỗi dậy trong cuộc sống là đổi mới rất ý hướng? Đổi, cả những gì thấy quen quen trong đời đi Đạo chăng? Phục sinh/trỗi dậytrong Đạo là thế nào mà chẳng thấy ai buồn đi nhà thờ/nhà thánh để linh mục cứ phải gõ vào www.botay.com đến thế vậy? Có lý do nào khác ngoài hiện trạng thiếu hụt linh mục như thế không?
            Câu hỏi đại loại như thế, nghe cũng quen quen! Nhưng, câu trả lời rày cũng hiếm. Hiếm ở chỗ: mỗi người mỗi ý. Và, có những ý, những lời khác với giòng chảy chính mạch kiểu hệ cấp thần quyền ở đâu đó. Ý/lời đó, có thể trích rải rác như sau:

“Nếu mọi việc bạch-hoá cách công khai đều tốt cả, thì những năm gần đây Hội thánh Công giáo chắc chắn đã thành công vượt bực.
Ví dụ cụ thể, là như chuyện hàng giáo sĩ lạm, dụng tình dục lúc đó ồn ào là thế mà giáo quyền cũng còn chế ngự được. Rồi, chuyện dịch lại bộ lễ La tinh sang tiếng Anh, vụ giám mục Bill Morris ở Queensland Úc, chuyện ghì cương không cho Caritas làm tới, rồi chuyện kiểm chứng với kiểm duyệt nhằm ngăn chặn nhóm nữ tu Hoa Kỳ đã có lập trường thần học hơn hẳn nam nhân, việc khoá miệng các linh mục ở Ái Nhĩ Lan từng nổi dậy và dẹp bỏ tập đoàn nhà Đạo người Ái Nhĩ Lan ở Rôma, mối bận tâm lo lắng cách công nhiên của hàng giáo sĩ người Áo và Ái Nhĩ Lan, cùng việc giáng cấp người đầu sỏ ở ngân hàng Vatican, rồi đến vụ việc về tài liệu mất của giáo triều La Mã, cả đến chuyện tranh chấp giữa vị tổng thống và hàng giáo phẩm Mỹ về y tế và bảo vệ sức khoẻ…
Những chuyện đáng sợ ở trên, đã trở thành vấn đề đặt ra cho quyền bính tập trung ở cấp cao nơi nhà Đạo. Đối với những người luôn chỉ trích, thì câu trả lời đà quá rõ, lại có đủ bằng chứng tự tại, tỉ như sự việc về nhân vật mang tên Ores và giới chức quyền lực khác như Mordor đã phản ánh tính kiêu căng/tồi tệ trong cung cách đối xử trong Hội thánh là những điều mà nhiều người từng đoán trước hoặc kỳ vọng. Một số trường hợp như các vụ của tập đoàn News Limited, của Đảng Xanh hoặc Công đoàn ở Úc hoặc một số tổ chức lại đã hành xử như đế quốc tệ lậu ở đâu đâu.
Trường hợp của Giáo hội Công giáo lại mang tầm mức quan trọng hơn đâu hết. Trong trường hợp này, niềm tin được ban phát từ Đức Kitô nang qua các thánh Tông đồ thời Giáo hội tiên khởi. Và, các thánh sau đó, lại đã truyền qua cho các Giám mục. Tỉ như, vị thế của thánh Phaolô được giao trọng trách củng cố niềm tin của người anh em mình. Và cuối cùng, thì quyền bính được giao phó cách trọn vẹn trong tay của các vị kế nhiệm là Giám mục thành La Mã.
Tầm mức nghiêm trọng của sự việc đang diễn tiến và sức nặng của hơn hai ngàn năm lịch sử vẫn đè nặng đã cắt nghĩa được lý do tại sao các giám mục và giáo hoàng lại có ý hướng lớn lao khi nhận lãnh trách nhiệm riêng tư quyết trao phó niềm tin mình nhận lãnh cho mọi người, cách kiên quyết. Các ngài luôn thận trọng đáp trả lại nỗ lực nào nhằm tìm cách hiểu khác đi niềm tin và nguyên tắc xử thế cho đúng cũng như nhu cầu duy trì niềm tin của Hội thánhtiên khởi phải được chứng tỏ…” (xem Lm Andrew Hamilton, sj Crisis of Trust in the Vatican, Eureka Street.com.au, 04/7/2012)

            Nói và hiểu lý do của sự thể về niềm tin người đi Đạo và tình anh lính chiến ở ngoài đời, đại để là như thế. Nhưng, nếu hiểu rằng: niềm tin thường đi đôi với tình tự đính kèm khi ta tin vào người mình yêu, có lẽ sẽ hát như người nghệ sĩ có giòng chảy cũng rất “lính” như sau:

                        “Anh là lính đa tình.
                        Tình non sông rất nặng.
                        Tình hãi hồ ôm mộng.
                        Tình vũ trụ ngát xanh.
                        Và, mối tình sống êm đềm,
                        là tình riêng trong lòng,
                        Anh yêu Em.”
                        (Y Vân – bđd)

            Nói và hiểu, như người dân đi Đạo rất bình thường về niềm tin vào hội thánh là sẽ nói như bậc thánh hiền nhà Đạo, từng kinh nghiệm như sau:

                        Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người
và của các thiên thần đi nữa,
mà không có tình thương mến,
thì tôi cũng chẳng khác gì
thanh la phèng phèng, chũm choẹ chụp choeng.”
(1 Cor 13: 1)

            Nói được các thứ tiếng của loài người của thiên nhiên, đúng là tiếng nói của tình yêu, rất non sông, vũ trụ. Tình đó, còn là tình “sống êm đềm”, “tình riêng trong lòng”. Là, tiếng giọng của những người nói được chữ: “Anh yêu Em.”
            Nếu nói được những tiếng và chữ của thiên nhiên/vũ trụ như thế, và thay đổi chữ “Anh/Em” bằng tiếng “giáo dân/Hội thánh”, ta sẽ còn nhiều hy vọng vào tương lai. Hy vọng ấy, được diễn tả bằng những tâm tình của đấng bậc linh mục Dòng Tên như sau:

“Tông thư “Spe Salvi” của Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 là một tư-duy sâu sắc về tầm quan trọng của niềm hy vọng của tín hữu, và phương cách duy trì niềm hy vọng ấy. Niềm hy vọng mà ĐGH Bênêđíchtô 16 nói đến, đã có mặt trong thế giới hiện đại trong lịch sử về tri thức, linh đạo…
Tông thư này còn có được niềm hy vọng trong thế giới mỏng dòn này khi xưa là chuyện của khoa học thực nghiệm và sinh hoạt chính trị; trong khi đó, niềm tin đạo giáo lại sờ chạm vào thế giới vô hình và các thể…
Nói cho cùng, thì loài người không thể có được hy vọng nếu Thiên Chúa không hiện hữu, ở với họ.” (x. Lm Andrew Hamilton sj, How to Find God in Ordinary Human Hope, EurekaStreet.com.au. 12/12/2007)

            Cuối cùng ra, nói về Tình yêu, dù là tình lính hay tình người, là phải nói đến niềm tin và hy vọng, đang song hành. Cả hai thứ này gộp chung với mọi thứ tình, thì người đời hay người nhà Đạo sẽ cảm thấy yên tâm mà sống. Sống có lý tưởng và chất lượng hơn mọi cuộc sống nào khác.
            Sống có niềm tin, tình yêu và hy vọng là sống không phải như người lính tuyên bố mình đa tình như bài hát trích ở trên. Mà là, sống hạnh phúc bằng việc nghĩ đến người khác, như câu truyện để mình định:

“Có phú ông giàu có nọ, hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại thấy không vui, không hề hạnh phúc.
Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, là: đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc, thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông đi đến đâu cũng tìm hiểi hỏi han, rồi đến ngôi làng nọ có người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng, ông cũng gặp được vị Đại sưđang ngồi thiền. Ông vui mừng khôn xiết nới với Đại sư:
-Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài.”
Lúc ấy, trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ quá, vừa khóc vừa gọi đuổi theo:
-Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi.
Sau đó, vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho hú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất nay quay về, thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:
-Tốt quá rồi!
Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta rồi hỏi:
-Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?
-Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!
Lúc này, vị Đại sự cười và nói:
-Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nói là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có nó quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực, cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó là một, bây giờ ông có còn muốn đem tặng cho tôi nữa không?”
Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mình trong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó, bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn mà không thấy nó. Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó…

            Cùng với quan niệm của người kể truyện trích ở trên cũng nên thêm một câu kết, rất như sau: Sống cuộc đời người có hạnh phúc hay không chỉ là khi mình không dính bén vào thứ gì hết. Bởi, hạnh phúc hay tình người vẫn là thứ gì đó rất quý trọng như câu hát để kết luận rằng:

                        Và, mối tình sống êm đềm,
                        là tình riêng trong lòng,
                        Anh yêu Em.”
                        (Y Vân – bđd)

Mong rằng, người hát câu trên, sẽ coi tiếng “Anh” là chính mình, thành viên Hội thánh ở mọi thời và tiếng “Em” không chỉ là người em yêu của ai hết mà là chính Chúa. Chúa, ở tâm can của anh, của tôi. Của, mọi người. Chí ít, là những người đang chờ câu hát: “Anh yêu Em!”, rất hy vọng và tin tưởng.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Nhiều lúc bỗng chợt nhớ ra rằng
            nhạc trẻ kích động
            đâu đến nỗi quá tệ.
            Vì vẫn khẳng định:
Anh yêu Em!

Tuesday 25 December 2012

“Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng”



Chuyện phiếm đọc trong tuần có lễ HIển Linh Năm C 06-01-2013
Sóng vỗ miên man
như câu ru êm của Mẹ dịu dàng
“Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương.”
(Phạm Duy  Mẹ Trùng Dương)
(Lc 1: 38)
Có một thời ở quê nhà, nhiều bạn và nhiều người lại cứ bảo: “Sao ta không chịu đổi bài quốc ca xưa như trái đất bằng bài rất mới nào đầy đủ tính chất Việt Nam, không có tính đâu tranh, nhỉ?” Hôm nay, ngồi nhớ lại những tình tiết trong nhạc bản được đề nghị là bài “Mẹ Trùng Dương” của nhạc sĩ họ Phạm, bần đạo lại có ý nghĩ hơi hơi khác.
Khác ở chỗ, là: tiếng “Mẹ” ở trong bài dù có kèm theo sau cụm từ “Việt Nam” lại mang ý nghĩa dài/rộng hơn một nước. Dài và rộng, không chỉ ở tên gọi “Mẹ Trùng Dương” mà người viết nhạc từng “thai nghén”, còn ở chỗ: trùng dương tình “Mẹ” vẫn bao la, đầy dặn, như biển cả rất thánh thiêng, như lời vinh danh “Mẹ”ở câu tiếp rất như sau:

“Mẹ Việt Nam cho quê hương muối trắng
Thêm thơm mâm cơm mặn nồng
Mẹ còn cho con
Luôn luôn tôm to cá lớn tươi ngon đầy thuyền
Mẹ hiền không lên bão tố
Mẹ già không đem nỗi khó
Mẹ là mẹ nhà cho mưa với gió hiền khô.”
(Phạm Duy – bđd)

            Mẹ hiền cho quê hương, không chỉ “thêm muối trắng”, cho “mâm cơm mặn nồng” mà thôi. Nhưng, “Mẹ Trùng Dương Việt Nam” lại cũng “không lên bão tố”, “không đem nỗi khó” cho con và cho cháu. Bởi, mẹ còn là “mẹ nhà cho mưa với gió hiền khô”, nữa.
            Về tính chất rất “hiền khô” của mẹ “nhà Việt Nam” yêu dấu, mẹ của mình còn được văn chương chữ nghĩa diễn tả bằng những tâm tình của “người-chị-cũng-như-mẹ-ruột” của tôi, như truyện kể ở bên dưới:
           
Một tháng trước, có một người đàn ông lạ đến tìm và nói rằng, ông là ba của tôi. Điều đó càng được khẳng định chắc chắn hơn khi ông đưa cho tôi xem kết quả xét nghiệm ADN và vài chữ viết nhanh của bác sĩ kết luận rằng giữa tôi và ông ta có quan hệ huyết thống cha con. Tôi cười nhạt và cho rằng đó đơn giản chỉ là một vở kịch vụng về. Người đàn ông kia có lẽ muốn xin chút tiền từ số gia sản kếch xù mà tôi được nhận từ bố mẹ của mình.
Nhưng khi Huyền, chị gái tôi lên tiếng xác nhận thì tôi buộc phải tin đó là sự thật và thậm chí, tôi còn phải chấp nhận thêm một sự thật khác rằng chị Huyền không phải là chị gái của tôi, mà đó là mẹ ruột mình.
Khi chưa biết sự thật này, tôi là con trai trong một gia đình giàu có, trên tôi là một chị gái tên Huyền. Chị Huyền hơn tôi 16 tuổi. Vì nhà chỉ có 2 chị em nên chúng tôi rất thân nhau. Thế nhưng, khi tôi còn nhỏ, chị Huyền rất ít khi chơi với tôi. Bố mẹ nói chị có chuyện buồn nên tôi không được quấy rầy hay làm phiền chị.
Mãi đến khi tôi vào lớp 1, chị mới cởi mở với tôi hơn và dần dần chị thay bố mẹ chăm sóc tôi, bởi 2 người còn bận rộn chuyện kinh doanh mà chị Huyền khi ấy đã tốt nghiệp đại học nhưng chị không đi làm. Tôi cũng không thấy chị có bạn bè bởi cả ngày ngoài chuyện đưa tôi đi học, đón tôi về, đưa tôi đi chơi, nấu nướng cho tôi ăn thì chị chẳng hề gặp gỡ bất cứ ai. Nhưng tôi chẳng mấy để ý chuyện đó.
Cho cả đến khi lớn lên và biết suy nghĩ, tôi vẫn cho rằng tính chị khép kín, không thích giao thiệp rộng rãi nên chị mới có ít bạn và thích ở nhà nhiều như vậy. Tôi vẫn thường gọi đùa chị Huyền là bà cô già vì chị quản lý tôi rất chặt, hơn cả bố mẹ. Chị đề ra quy định về thời gian, quy định về việc gặp gỡ và kết bạn, quy định cả về cách ăn mặc và nói năng của tôi. Nếu tôi có thắc mắc, bố mẹ chỉ cười nói: "Chị chỉ muốn tốt cho con mà thôi". Dù rất khó chịu với "bà cô già" này nhưng tôi rất yêu thương chị, đơn giản vì chị là người thân của tôi.
Năm tôi 20 tuổi, bố mẹ đột ngột mất trong một tai nạn xe hơi, trong nhà chỉ còn lại 2 chị em. Tôi vẫn đang tuổi ăn, tuổi chơi nên không thể thay bố mẹ gánh vác chuyện công ty. Chị Huyền đã nhận lấy việc đó. Bây giờ khi ngồi viết lại những chuyện trong quá khứ, tôi mới nhớ ra rằng chị chưa một lần yêu ai hoặc ít nhất đó là những gì tôi biết.
Chị có rất ít bạn bè, không gặp gỡ, hẹn hò với bất cứ người đàn ông nào. Nếu tôi có hỏi thì chị chỉ bảo đợi tôi lấy vợ xong chị mới đi lấy chồng. Tất nhiên, chị tôi có nhiều người để ý, theo đuổi. Có người còn khốn khổ vì không được chị tôi đáp lại nhưng chị tôi vẫn cứ dửng dưng như vậy.
36 tuổi, chị trở thành Tổng Giám đốc của một công ty truyền thông lớn. Tôi sợ chị không làm được bởi trước giờ chị vẫn sống khép kín, không giao lưu nhiều với xã hội, vị trí Tổng Giám đốc dường như không mấy hợp với chị. Nhưng tôi đã nhầm, chị điều hành mọi thứ rất trôi chảy. Nhìn chị đĩnh đạc trong cương vị mới, tôi không khỏi ngạc nhiên bởi đó là hình ảnh về một chị Huyền khác hẳn với chị mà tôi thường nhìn thấy.
25 tuổi, tôi bắt đầu vào công ty học việc và dần dần thay chị đảm nhận việc của công ty. Chị nói chỉ làm giúp tôi chừng ấy năm thôi, còn lại tôi phải tự lo liệu. Tôi đồng ý và cố gắng làm mọi chuyện thật tốt. Tôi muốn chị tôi có thời gian để dành riêng cho bản thân bởi chị đã ngoài 40 và vẫn chưa lấy chồng. Chị nói không muốn lấy chồng và có ý định quy y cửa Phật. Tôi kịch liệt phản đối chuyện này. Nhà tôi chỉ còn 2 chị em, nếu chị đi tu, tôi sẽ giống như một đứa trẻ mồ côi không người thân thích.
Chị lại nói sẽ đợi tôi có vợ, có con rồi chị mới đi tu. Việc này tôi cũng không đồng ý. Tôi thấy chị cứ u uẩn sống trong khi với điều kiện của chúng tôi, chị hoàn toàn có thể sống vui vẻ, hưởng thụ cuộc sống, đi du lịch đó đây. Tôi vẫn không hiểu vì sao chị cứ sống như thể cả thế giới đang quay lưng lại với chị cho đến ngày người đàn ông lạ xuất hiện. Ông ta hẹn gặp tôi ở ngoài. Vì không rõ đó là ai và công việc quá nhiều nên tôi từ chối nhưng khi ông ta nói có chuyện liên quan tới chị Huyền cần nói cho tôi biết thì tôi đổi ý.
Chỗ hẹn gặp mặt của chúng tôi là một quán cà phê nhỏ nằm sâu trong ngõ, dù nhỏ nhưng quán được bài trí rất đẹp. Người đàn ông lạ tự giới thiệu ông ta tên Tân. Tôi đoán chừng ông ta phải gần 60 tuổi, có phong thái đạo mạo, điềm tĩnh và cách nói chuyện thể hiện rằng ông là một người quyền lực. Ông không nói chuyện vòng vo mà khi vừa bắt đầu, ông đã nói, ông là bố của tôi, bố ruột.
Sau vài giây sững người, ngạc nhiên, tôi trấn tĩnh lại bởi cho rằng người đàn ông này đã nhận nhầm người hoặc ông ta đang tạo kịch để nhòm vào tài sản của gia đình tôi. Ông đưa kết quả xét nghiệm DNA cho tôi. Tôi vẫn không tin. Ông nói, tôi có thể gọi chị Huyền đến để kiểm chứng, để ba mặt một lời. "Cũng không phải là chị Huyền đâu, đó là mẹ ruột của con". Ông nói nhẹ như không, còn đối với tôi thì câu nói này quả thực là một cú sốc lớn.
Tôi không hiểu có chuyện gì đang diễn ra trong cuộc đời mình. Chị Huyền đến, ngay khi nhìn thấy người đàn ông kia, nét mặt chị chuyển biến. Tôi nói cho chị về những điều người đàn ông kia khẳng định và mong mỏi một cái lắc đầu từ phía chị. Thế nhưng chị Huyền không nói gì, chị cũng không phủ nhận. Chừng ấy là đủ cho tôi hiểu những gì ông Tân nói đều là sự thật. Khi ông Tân rời đi, chị Huyền mới bắt đầu nói.
Chị thừa nhận những gì người đàn ông kia nói là đúng. Chị yêu ông ta khi 16 tuổi còn ông ta khi đó đã ngoài 30, đã có vợ con. Chị sinh tôi khi còn quá trẻ nên ông bà ngoại đã quyết định nhận tôi làm con trai của họ để che giấu việc đáng xấu hổ là con gái duy nhất của họ chửa hoang. Và tôi đã sống với thân phận là con trai của ông bà ngoại hơn 20 năm trời. Không một ai biết sự thật ấy ngoài ông bà ngoại, chị Huyền và người đàn ông kia.
Chị Huyền nói ông ta muốn nhận con. Ông ta không cần đến tài sản của gia đình chúng tôi bởi ông là một người đàn ông giàu có và quyền lực. Ông ta muốn nhận con bởi vợ ông không sinh được đứa con trai nào để nối nghiệp. Lý do quá nực cười! Bởi nếu ông ta đã có con trai thì chắc chắn ông ta sẽ không bao giờ quay lại tìm tôi, để xem đứa con rơi này đã sống như thế nào. Dù cho ông ta là bố đẻ của tôi thật nhưng tôi không hề có ý định nhận bố.
Chuyện khiến tôi khó nghĩ và buồn nhiều nhất là chị Huyền. Tôi không cách nào chấp nhận chị là mẹ của tôi bởi cái suy nghĩ chị là chị gái đã ăn sâu vào trong tiềm thức. Chị là mẹ của tôi sao? Còn có chuyện nào đáng sửng sốt và nực cười hơn câu chuyện này? Hóa ra, đó là lý do vì sao chị tôi từng ấy năm trời không hề yêu ai, từng ấy năm trời chị lo lắng, chăm sóc cho tôi.
Tôi đã chuyển ra ngoài sống mấy tuần nay. Tôi không biết làm thế nào để gặp và nói chuyện với chị. Sự thật này chắc chắn tôi sẽ phải chấp nhận nhưng không phải bây giờ. Tôi chưa nghĩ ra cách để nghĩ về chị Huyền như là mẹ tôi. Thế nên, tôi chọn cách chạy trốn. Lân”

            Theo truyện kể ở trên, thì người kể đã chọn giải pháp mà anh gọi là “chạy trốn” khỏi người mẹ rất hiền mà từ lâu anh vẫn tưởng là người chị gái cũng rất hiền. Thế đó, là truyện kể về một người mẹ đồng thời là chị gái ở ngoài đời, rất truyện kể.
            Thế nhưng, với âm nhạc hoặc nghệ thuật, thì: dù người con hay người em có tìm cách “chạy trốn” khỏi mẹ hiền cũng rất tình, vẫn thấy mẹ hiền “Trùng Dương” đối xử, như sau:

“Ngày ngày vươn vai
Ra khơi đón ánh dương soi con tim bồi hồi
Chiều chiều chơi vơi
Không nguôi thương thương nhớ nhớ con trong cuộc đời
Mẹ tìm con trong gió Bắc
Mẹ về phương Nam nắng gắt
Tình nhà mở cửa đem ra góp với bao la.”
(Phạm Duy – bđd)

            Mẹ tìm con trong gió Bắc”, không phải chỉ mỗi thế. Mẹ còn “về phương Nam nắng gắt”, để tỏ “tình nhà mở cửa đem ra góp với bao la.” Đấy văn chương chữ nghĩa là như thế đấy. Tình mẹ ở đời cũng như vậy. Như thế và như vậy, nghĩa là vẫn cứ bao la, êm đềm, cao cả.
            Còn, tình Mẹ trong Đạo cũng đâu thua gì tình ở đời, mọi thời. Tin Mừng, khi nói về tình của Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa, đều nói về Mẹ là người luôn để mắt dõi theo người Con thân yêu của mình, trên mọi bước đường dù khổ ải. Mẹ theo chân Con mình suốt mọi ngõ ngách, bởi Con của Mẹ là tất cả. Là, tình người được Chúa hiển hiện nơi Ngài. Ngài là hiện thân gương mẫu của mọi thứ tình: tình Mẹ, tình Cha và tình người, nói rất chung. Về tình của Mẹ đưọc tóm gọn trong câu nói có tính quyết định, được thánh sử Luca viết:

                        “Này tôi là tôi tớ Chúa
                        Xin hãy thành sự cho tôi
                        theo lời Ngài.”
                        (Lc 1: 38)

            Bằng vào lời đáp trả rất ngắn gọn như trên, Mẹ của Chúa đã nói lên một thứ tình cao cả hơn ai hết. Tình đó, là: dám quyết định một việc có liên quan đến cả đời của Mẹ và mọi người, là: Xin hãy thành sự cho tôi, theo lời Ngài.” Đây là ý nghĩa của cụm từ “Xin Vâng”. Nhưng chữ “xin” dịch ở đây, không mang tính quyết định của chính mình. Cũng giống như khi mình quyết định yêu ai, dù nguời đó là con cái, hoặc khách lạ, nếu chỉ nói chữ “xin” và “vâng” là đủ đâu.
            Nhưng nói gì thì nói, khi Mẹ trả lời thần sứ đại diện Thiên Chúa cao cả để hỏi về tình Mẹ và tình người, Mẹ nói tiếng “Đồng ý!” rất phải lẽ. Đồng ý cả với những gì sẻ xảy đến dù tốt/xấu. Đó mới là thứ tình cao cả, ít ai có. Cả đến cụ già tên Symêôn khi thấy được tình Mẹ cao cả hiển hiện nơi Đức Chúa, cũng đã kêu lên:

                        “Giờ đây, lạy Chúa, xin thả tôi tớ Người về.
                        chiếu theo lời Ngài, trong bình an.
                        Bởi chưng mắt tôi đã thấy ơn Ngài cứu độ,
                        Ngài đã dọn sẵn trước mặt muôn dân.
                        Ánh sáng mặc khải cho dân ngoại,
                        và vinh quang của Israel dân Ngài.”
                        (Lc 2: 29-32)

            Nói cách khác, tình Mẹ bao la nơi Đức Maria là thứ tình cao cả, rất khác người phàm. Vì Mẹ dám đón nhận ơn cứu độ Chúa ban cho con người bằng một quyết định đồng ý để mọi sự xảy đến với Mẹ theo ý của Đấng cứu độ. Và, tình Mẹ của Đức Maria khác và hơn hẳn mọi thứ tình bao la trùng dương của người phàm, vì Mẹ nhận lời làm Mẹ của Thiên Chúa, thế mới khiếp.
            Diễn tả tình bao là của Mẹ hiền rất “trùng dương”, người nghệ sĩ ngoài đời chỉ nói được bằng câu thơ và ý nhạc rất như sau:

            Sóng vỗ êm êm như khuyên
con nên trở lại Mẹ hiền
Gió rít thông reo như kêu
con mau trở về Mẹ yêu.”
(Phạm Duy – bđd)

            Xem như thế, thì mẹ Maria là mẫu gương cho mọi người trong việc Mẹ đã dẫn dắt hết mọi người đến với Chúa. Đến với Ngài, tựa hồ như “sóng vỗ êm êm”, như “gió rít thông reo như kêu con trở về với Mẹ yêu.”
            Nói về tình yêu và nhất là tình Mẹ yêu dấu rất bao la như “trùng dương” người đời cũng giống như dân đi Đạo đều có một mẫu số chung, ở chỗ: tình ấy vẫn cứ “êm êm” “như khuyên con nên trở lại với mẹ hiền.” Trở về với mẹ hiền, để mẹ dạy cho mình biết cách mà thưa thốt khi có thần sứ của Thiên Chúa gửi đến, sẽ nói được hai chữ “đồng ý”. Đồng ý, để mọi dự tính cũng như ý định của Ngài, “thành sự cho tôi, theo lời Ngài.”
            Nói cho cùng, thì: trọng tâm của cuộc sống của Đức Maria cũng như của mọi người mẹ “Trùng Dương” là chấp thuận lời mời gọi của Thiên Chúa, rất bên trên. Thành thử, yêu thương và khâm phục Mẹ hiền là: mỗi lần tưởng nhớ đến Mẹ hiền là nhớ và tưởng đến khả năng biết sống nghiêm túc về những chuyện nghiêm chỉnh và lấy đó mà cảm kích. Bởi, nói chung nói cùng Đức Maria cũng như mọi người mẹ hiền đều là những đấng bậc ta có thể nói với và nói cùng mỗi khi không biết đặt mọi ước ao và nỗi hãi sợ thành lời nói.
            Cho dù, người con của mẹ “Trùng dương/Maria” không biết cách ăn nói, mẹ hiền vẫn hiểu được tất cả những câu hỏi và câu nói chính ta chẳng dám nói và hỏi để Chúa dẫn dắt trong cuộc đời. Mẹ vẫn đặt mình vào tình thương của mẹ hiền luôn đùm bọc đàn con dù con của mẹ hiền có lớn khôn hay vẫn nhỏ bé, như con trẻ.
            Để hiểu rõ và cảm thông tình mẹ bao la như biển cả, không gì bằng về với truyện kể dù hơi mang tính chất “phiếm”, sau đây: 

            “Truyện rằng:
Giờ trả bài tập làm văn luôn là giờ sôi động nhất, vì thầy giáo thường đọc cho cả lớp nghe hai bài, bài được điểm cao nhất và bài có điểm thấp nhất. Tất nhiên, bài cao điểm được những tràng pháo tay và bài điểm thấp là những trận cười, chưa kể sau đó còn hình thành nên nhiều giai thoại từ những câu mà thầy nhận xét là: "què, cụt, thiếu sức thuyết phục..."
Và giai thoại này đôi khi còn lan truyền ra cả các lớp khác, mà tác giả của nó chỉ còn cách là lấy cả hai tay mà che mặt lại. Cả lớp đứa nào cũng hồi hộp khi xấp bài trên tay thầy đã vơi nhiều rồi mà bài của mình còn chưa thấy đâu….
Hôm nay, như thường lệ, thầy mở cặp lấy xấp bài ra là cả lớp nhấp nhỏm. Với đề ra là "Hãy kể lại một kỷ niệm sâu sắc của em", thầy đã nói rằng, lớp có bốn mươi học sinh thì chắc chắn sẽ có bốn mươi kỷ niệm khác nhau, không như khi chứng minh trích đoạn nào đó bị thầy chê là đơn điệu, chúng tôi thường chống chế: "Thầy ơi, học cùng nhau, làm sao mà dẫn chứng không trùng lập nhau được"Khác thường là thầy đưa xấp bài cho trưởng lớp chỉ giữ lại một bài. Chỉ một! Đứa nào cũng nhón người nghểnh cổ cho cao lên một chút để cố nhìn cho ra tên của ai và được mấy điểm nhưng không được. Bài hay nhất? Dở nhất?Giỏi văn nhất lớp là Kim Chi. Nhưng rồi dự đoán của chúng tôi tiêu tan, khi Kim Chi với tay nhận bài của mình từ tay trưởng lớp. Vậy là thầy giữ lại bài dở nhất rồi! Cả lớp chuyển ánh mắt nhìn về phía Cường với tiếng cười khúc khích.
Cường thường có những câu văn kiểu như: "Đi một ngày đàng học một sàng khôn, vậy nên chúng ta phải đi nhiều ngày hơn nữa"... Nhưng rồi Cường cũng nhận được bài của mình.Vậy thì của ai? Hay? Dở? Làm sao biết trước được bài sẽ đọc lên hôm nay là của ai! Trời, môn văn...
Có khi bài trước mới được 6 điểm với lời phê: "Lối hành văn trong sáng, nên đọc nhiều để dẫn chứng phong phú hơn", thì bài sau nhận được ngay điểm 4 với lời phê: "Quá lan man, dông dài!" Điểm bảy môn văn của thầy là một ước mơ xa! Ngay cả Kim Chi cũng nói vậy.Chúng tôi nhìn theo tay của trưởng lớp cho đến khi bài cuối cùng được phát ra. Chỉ mình Dũng là chưa có. Không hẹn mà cả lớp đều ngạc nhiên nhìn về phía Dũng, tác giả bài văn trên tay thầy. Tránh cái nhìn của cả lớp, Dũng ngoảnh ra cửa sổ. Không thấy mặt Dũng, nhưng có thể thấy rõ hai vành tai và cổ của Dũng đỏ ửng.Dũng là học sinh trường huyện mới chuyển về lớp tôi được hai tháng nay. Không có gì nổi trội, nơi Dũng cái gì cũng bình thường và chưa có gì tỏ vẻ ra là đặc biệt về môn văn cả. Vậy mà điểm 8. Phải, điểm 8! Chúng tôi nhìn rõ số 8 đỏ chói trong ô điểm khi thầy đưa tay sửa lại cặp kính trên sống mũi, cử chỉ quen thuộc mỗi khi thầy xúc động.
Giọng thầy trầm trầm:"Kỷ niệm sâu sắc nhất của em là khi nhận được thư của má em. Nhà em nghèo lắm nhưng ba má cho em ra phố học để sau này em có thể làm được điều gì đó tốt đẹp hơn. Cho em ra phố, ngoài việc phải kiếm tiền làm thêm để có tiền trang trải chuyện học hành của em, ba em còn phải làm những việc mà khi ở nhà em có thể đỡ đần được cho gia đình. Chưa bao giờ ba má viết cái gì cả. Hồi em còn ở nhà, mỗi khi cần viết thư về quê hay viết đơn từ là em viết..."Thầy ngừng đọc, nhìn cả lớp:
Các em, thầy sẽ viết lại nguyên văn lá thư của má bạn Dũng lên bảng cho chúng ta cùng đọc. Một chuyện lạ! Tất cả chúng tôi hồi hộp tò mò từng chữ hiện ra dưới tay thầy.
"Con iu thươn của má. Chìu hôm qua má kiu người báng con heo đễ có tiềng gưởi cho con. con nhớ nhà hôn? Cã nhà nhớ con nhìu lấm cố học nge chừn nào mùa màn song má xẽ ra thăm con. Má của con"
Lá thư vọn vẹn có 45 chữ. Khi thầy quay lại thì Dũng đã úp mặt xuống bàn, hai vai run run. Mắt thầy cũng hoe đỏ. Cả lớp im phăng phắc trước lá thư đầy lỗi chính tả trên bảng, lá thư yêu thương và gởi gấm của một người mẹ, vốn chỉ quen với công việc chợ búa quét dọn và nội trợ trong nhà, lần đầu bà cầm bút viết thư cho con…. để khuyến khích con vì mẹ mà lo hoạc hành.”

            Tình mẹ “Việt Nam” rất “trùng dương” cò thể còn hơn thế. Nhưng, tình của người mẹ nào cũng đều như thế. Vẫn bao la như biển cả, trung dương sóng dồn. Dồn tất cả về cho con, chí ít là tình của người mẹ hiền rất Maria, trong cả cuộc đời của Mẹ đối với Chúa.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Bỗng dưng nhớ mẹ hiền vất vả
với mối tình bao la như biển cả.
Nhân ngày giỗ của mẹ.