Saturday 26 November 2011

“Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày”


“Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày”
Là đến với đớn đau
Nhưng sao trong ta cứ vẫn yêu vẫn nhớ
Dầu sao, dầu sao nếu có một ngày.”
(Nguyễn Văn Khánh – Nỗi Lòng)
            (1Th 4: 3-6)
            Nếu bảo rằng, chính đó là “nỗi lòng” của những người từng hứa hẹn sẽ yêu nhau suốt đời, nhưng nửa đường lại đành thôi. Nếu lại nói, nửa đường lại đành thôi vì: “Tình những quá khắt khe”, khiến cả hai người sẽ “đau tủi cả lòng”, để rồi dù xa cách đến thế nào nữa, thì thực tế vẫn như thể bảo rằng: “lòng hằng nhớ”.
“Lòng hằng nhớ”, nên nghệ sĩ mình lại cứ nhủ: “dù sao nếu có một ngày”: Ngày ấy sẽ là:

            “Một ngày, ai reo tim ta:
Là, tình yêu kia ly tan.
Và, lòng vẫn thương vẫn nhớ
Tình đó, khiến sui lòng ta đau
Rồi, với bao ngày lặng lẽ sống
Nỗi đau, trong lòng người yêu, vẫn yêu hoài.”
(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

            Và, người nghệ sĩ cứ mãi nhủ thầm: vì “tình yêu kia ly tan”, và “lòng vẫn thương vẫn nhớ”, bởi thế nên “với bao ngày lặng lẽ sống” nỗi đau ấy, thành thử nay đã thấy “nỗi đau trong lòng người yêu” kia “vẫn yêu hoài”.
            Và, bởi “vẫn yêu hoài”, nên nghệ sĩ nhà mình nay lại thấy:

            “Năm tháng, trôi lạnh lùng hoài.
Tình đó, nhắc nhở luôn đến ta tình ai.
Nhớ cả một trời,
Tình yêu kia, mà lòng nào quên.”
(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Thế đó, là thi ca/văn học của nghệ sĩ với những giòng chảy thơ/văn khá sướt mướt và lạ lùng như sự thật. Một sự rất thật về cuộc sống của người đời, có lời lẽ khá phức tạp nhưng thực tế. Tức, những lời yêu đương của người đương yêu khiến người nghe hát rồi sẽ nói: “Không thể nào quên”.
Quên sao được, khi tình huống ở đời thường nhiều đau khổ hoặc là những tình tự khó quên trong cảnh huống rất khổ đau. Khổ và đau, không do mình mà do thời thế thế thời, thời bắt thế. Cái thời, mà người đau khổ chợt nhìn thấy tình huống dễ khiến cười, như truyện kể rất dễ hiểu nhưng không dễ quên khi người nghe kể ngồi trong “căn nhà nhỏ” lò mò học để tư tưởng mình được “cải tạo”, như:     

“Ở trại tù cải tạo của chế độ có những chú cai tù rất “răng đen mã tấu” chẳng biết thực hư/hư thực chuyện dã sử, nên cứ thế mà thao thao bất tuyệt với những giảng giải những chuyện “không phải” và không đúng với chúng dân ở đó rằng: 
-Nịch sử lước ta toàn nà anh hùng với nại anh hùng, không à! Lày nhé! Bắt đầu nà vua Nạc Nong Quân lấy bà Triệu Ẩu, ẩu quá bèn đẻ ra trứng, những trăm trái…
Cả hội trường được dịp cười ồ, rất huyên náo. Viên cai tù thấy cụt hứng bèn quắc mắt hỏi: tôi lói thế sao các anh nại cười. Tù nhân nọ thấy tội nghiệp bèn lịch sự đáp thay cho tất cả:
-Cán bộ ơi, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ trăm trứng chứ không phải lấy bà Triệu Ẩu đâu!
Nghe thế, cai tù bèn quay qua hỏi người phụ tá đôi câu, rồi quay qua cử toạ nói tiếp:
-Ừ thì, Nạc Nong Quân nà vua, ông ấy nấy gái lào mà chả được. Bà Âu Cơ hay bà Triệu Ẩu cũng đều nà gái tốt cả. Thôi thì, ta kể tiếp…”

            Kể như giảng giải mà lại nói ngọng như giám thị nhà tù ai nghe mà chả khiếp? Khi xưa, vua quan lấy bà nào thì chắc chắn bà nấy cũng đều là “đệ nhất phu nhân” cả, có gì mà không tốt. Có tốt hay không/có đẻ không được trăm trứng thì vua quan thời đó, cũng đâu nào “một sớm một chiều” ra chiếu chỉ mà thông báo rằng “ngài” sẽ ly thân, ly dị làm khổ đôi ba mình! Ngày nay, lại sẽ không thế. Vua quan/thứ dân hôm nay, sau khi thấy sự cố xảy đến với người mình yêu hay người yêu mình, vẫn cứ phải tuân theo luật lệ mà tính chuyện ly dị, với ly thân.
            Nếu là nhà Đạo, thì chuyện ly thân ly dị lại phải cân nhắc nhiều thứ cho hợp tình hợp lý. Hợp lẽ Đạo, nữa. Bởi, dân con nhà Đạo vẫn được thánh nhân hiền từ, như vẫn bảo:   

“Ý muốn của Thiên Chúa
là anh chị em hãy nên thánh,
tức hãy xa lánh gian dâm,
mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ
để sống cách thánh thiện và trong danh dự,
chứ không buông theo đam mê dục vọng
như dân ngoại,
là những người không biết Thiên Chúa.
Về điểm này, đừng ai làm tổn thương
hay lừa dối anh chị em mình,
vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó,
như chúng tôi từng báo trước
và cảnh cáo anh chị em.
(1Th 4: 3-6)

            Dân con đi Đạo được khuyên dạy rất nhiều điều như thế. Nhưng thử hỏi, được bao người nay còn giữ? Giữ, cả vào thời trước cũng như bây giờ? Thời trước, là thời điểm nào? làm sao biết được, vì chưa sống! Nhưng thời nay, nếu xảy đến những chuyện như thế, càng khó biết.
            Khó, là bởi: ly thân hay ly dị rồi ra cũng đưa dẫn đến tình huống xấu. Xấu, cho cuộc sống vì mất đi niềm hạnh phúc như trước. Xấu, cho xã hội vì xáo trộn. Chí ít, là khi hai người dính dự thấy mình hụt hẫng, rất khó lòng. Khó, vì khi đã đâm đơn xin ly thân/ly dị rồi, cả hai đều thấy khó khi muốn quay lại làm hoà.
            Có lẽ, vì thấy khó cách nào đó, nên nhiều cặp nay nhận ra rằng: tốt đẹp hơn cho bầy trẻ nếu để chúng sống hài hoà với bố mẹ, hai người dù đã ra riêng không còn sống với nhau nữa, nên tính chuyện quay về với nhau.
            Trên đây là ý tưởng của William Doherty, một học giả người Mỹ chuyên lo các vấn đề về gia đình, một người từng có kinh nghiệm sống đời hôn nhân những 40 năm. Người kia, là cựu chánh án Tối Cao Pháp Viện bang Georgia bà Leah Ward Sears, cũng đã ly dị từ nhiều năm, nay quyết làm đám cưới lại. Hai vị học giả cùng khám phá ra rằng: phần đông các cặp vợ chồng từng ly dị cho biết: họ thấy cuộc sống vào những năm trước ngày ly hôn/ly dị vẫn có hạnh phúc trung bình và mức độ xung đột cũng thấp hơn thời sau ly dị.
            Hai học giả trên còn cho biết: các khảo sát nghiên cứu trước đây cũng cho thấy là đa số các trường hợp ly dị phần lớn gây tai hại cho trẻ nhiều hơn cho chính mình. Xem ra những vị như thế thường nghĩ chuyện hoà giải. Và thống kê của Hoa Kỳ cũng cho biết: nếu người Mỹ giảm bớt ly dị, thì có khả năng 400 ngàn trẻ sẽ đạt lợi ích hàng năm được nhiều hơn. Và như thế, tiết kiệm được nhiều tiền của cho người đóng thuế.
            Thế nên, cả học giả Doherty lẫn cựu chánh án Sears đều đề nghị với các tiểu bang ở Hoa Kỳ nên đưa ra đạo luật gọi là Luật Cơ Hội Lần Nữa với ba đề xuất sau:

1) Nên kéo dài thời gian chờ đợi ít là một năm trước khi chính thức xin ly dị bằng cách gửi cho mỗi bên một thư báo trước, để đương sự kịp sử dụng thời gian ngõ hầu biết rõ khuynh huớng tương lai mai ngày của chính mình.    

2) Các bậc cha mẹ có con nhỏ nên học hỏi thêm đôi điều trước khi nạp đơn xin ly dị, để cả hai có thể rút đơn xin thôi không tiếp tục yêu cầu được ly hôn/ly dị nữa, hoặc theo cung cách không còn coi nhau như những địch thù nhất quyết đòi cho được chuyện ly thân/chia lìa.

3) Tạo nên trung tâm ưu tú đặt địa bàn ở Đại học ngõ hầu cải thiện chế độ giáo dục khả dĩ giúp cho cả hai tránh được cảnh đối đế đưa dẫn tới ly hôn.

            Mục đích mà hai học giả trên đưa ra, là muốn giáo dục các cặp phối ngẫu biết mà đặt hạnh phúc của con trẻ lên trên nỗi sướng vui của mình. Khi hai người giảm bớt chuyện tập trung mọi sự vào nơi mình, thì hạnh phúc của họ cũng sẽ gia tăng cách đáng kể.” (xem Carolyn Moynihan, Family Edge View 9869 24/10/2011).
            Có tập trung nhấn mạnh đến hạnh phúc rất chính đáng của con cái mình không, vẫn là chọn lựa. Chọn và lựa, để người người thấy được “lòng” mình cũng không khác gì “nỗi lòng” của người nghệ sĩ khi viết lên giòng thi ca nóng bỏng, mà hát rằng:

“Yêu ai, ai hiểu được lòng
Thầm kín, những đớn đau với riêng lòng ta
Ấp ủ lạnh lùng, tình yêu kia mà người nào hay.”
(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

            Hiểu “nỗi lòng” thầm kín rất đớn đau, đâu đã là chuyện khá dễ. Càng không dễ, khi những người như thế vẫn “ấp ủ lạnh lùng tình yêu kia, mà lòng nào hay”.
            Về tâm trạng của những người nhà Đạo vẫn lạnh lùng ấp ủ thứ gì thầm kín ấy, thì bố ai mà biết được những gì để còn lấy đó mà bày tỏ nỗi niềm để kể, như có bạn đạo ở trời Tây từng tỏ bày lập trường nhiều thắc mắc, rất như sau:

            “Thưa Cha,
Con có câu hỏi xin gửi đến để nhờ Cha giải quyết. Như Cha biết, hễ nam thanh nữ tú nào đáp ứng lời Chúa gọi mà dấn thân vào đời sống tu trì đạo hạnh để làm linh mục hoặc tu sĩ, thì người ấy đương nhiên sẽ chọn đời độc thân đến mãn phần. Nhưng, khi người Công giáo bình thường quyết thành vợ thành chồng, đã mấy ai quyết chọn đời độc thân làm lẽ sống đâu. Thế thì tại sao người Công giáo mình dù đã không chọn đời độc thân, một khi hôn nhân vỡ đổ, thì Giáo hội lại cứ yêu cầu cả hai người hãy nên ở vậy, dù chẳng thích. Ai cũng biết, sống độc thân như thế không phải dễ và cũng không công bằng. Theo Cha, liệu Giáo hội mình có thay luật đổi lệ đôi chút để giáo dân nào đã trót ly thân/ly dị rồi, sẽ dễ thở không?” (Người hỏi nay không ký tên, nên cũng chẳng biết người là trai hay gái, đàn ông hay đàn bà, thật rất khó).

            Nếu câu trên được gửi đến với giới thơ văn nghệ thuật, chắc hẳn người hỏi sẽ được nghệ sĩ viết tặng câu thơ ai oán, lê thê hát:

            “Yêu ai, yêu cả một đời.
            Tình, những quá khắt khe khiến cho đời ta,
            đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ…”
             (Nguyễn Văn Khánh – bđd)

            Nhớ. Nhớ. Và, nhớ. Nhớ gì đây? Phải chăng, là nhớ Lời của đấng bậc nhà Đạo, một lần nữa, những nhắc nhớ và nhắc nhở đôi điều ở dưới?

“Như anh/chị biết. Khi hôn nhân vỡ đổ, hai người phối ngẫu sẽ thấy mình cần sống độc thân/ở vậy mà không thấy mình cũng được gọi để sống một đời sống rất như thế. Với họ, chuyện này đôi khi cũng rất khó. Vì khó, nên có thể là các ý tưởng ghi ở dưới cũng sẽ giúp họ đôi điều.
Trước nhất, ta đừng bao giờ quên rằng Hội thánh vẫn tỏ ra cứng rắn về điều được chính Đức Giêsu khẳng định ở Tin Mừng, mà rằng: “Ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác, tức đã ngoại tình với vợ mình.” (Mc 10: 11)
Hội thánh luôn trung thành với giáo huấn của Chúa, nên sẽ không nới lỏng mọi chuyện. Giáo huấn này làm tín hữu biết cẩn trọng hơn mỗi khi họ thiết lập hôn nhân, vì tự khắc ai cũng biết là: khi đã huỷ bỏ mọi điều tốt đẹp rồi, thì họ sẽ không còn cơ hội nào khác nữa. Chính vì lý do đó, mà việc chuẩn bị hôn nhân chu đáo, vẫn là điều cần thiết để giới trẻ biết mà chọn lựa cho kỹ ý trung nhân của mình. Họ làm thế, là để chuẩn bị sống đời chung thuỷ với nhau. Cả lúc an vui cũng như khi sầu buồn. Cả vào lúc gặp phải gian nan, hoạn nạn cũng như khi thấy mình vui sướng.”
Thứ đến, giả như hôn nhân của hai người bị gãy đổ, thì cả hai cần phải xin toà hoá giải cứu xét để huỷ bỏ hôn nhân khi trước; có như thể mới có thể được chuẩn miễn ngay từ đầu. Nếu toà hoá giải có khuynh hướng huỷ bỏ hôn nhân, thì hai bên sẽ được phép tiến thêm bước nữa mà lập hôn phối với người khác. Chính điều này đã giúp nhiều người có thêm được hy vọng.
Nếu không có lý do nào để tin rằng hôn nhân của mình vào lúc trước sẽ được huỷ, thì cả hai phải ở vậy mà sống đời độc thân, nhưng có điều chắc chắn là: Chúa sẽ thêm sức cho họ để họ có thể thực hiện việc đó trong vui vẻ. Chúa ắt biết tình cảnh mỗi người như tư cách của người Cha Nhân Hiền, thế nên Ngài sẽ nâng đỡ cả hai người bằng tình thương yêu ân huệ của Ngài. Sống như thế, nào khác như nhiều người thấy mình được kêu mời dấn bước vào bậc hôn nhân, nhưng không tìm ra được người phối ngẫu thích hợp, nên đành ở vậy. Ai ở vào các trường hợp kể trên, cũng nên phấn đấu sống cuộc đời như người độc thân, ở vậy.
Trường hợp tương tự, là của những người chọn sống đời độc thân vì Vương Quốc Nước Trời, quyết trung thành với quyết tâm của mình. Thêm vào đó, là trường hợp của những người bị cuốn hút vào với cuộc sống của những người đồng tính luyến ái, nhưng vẫn quyết sống đời độc thân trinh trong, không tì vết. Nói chung, nhiều người vẫn cứ phấn đấu vì nhiều lý do ngõ hầu mình sẽ sống đời “ở vậy” được Chúa phú ban cho nhiều ân lộc của Ngài ngang qua bí tích nhiệm mầu, đặc biệt là Phép Thánh Thể, và giải tội.
Tình cảnh trên, là lời mời gọi mọi người hãy gia tăng nguyện cầu, ngõ hầu phát triển mối tương quan mật thiết với Chúa là Đấng tạo sự đầy ắp nơi ta bằng tình thương yêu đậm đà của Ngài. Và, Ngài vẫn cam kết sẽ cứ ở với ta, nơi ta mãi mãi suốt một đời.
Nói cho cùng, ta có san sẻ với toàn thể nhân loại và hiểu biết con đường mình đang dấn bước tiến hành, thì tình thương yêu ta dành cho Chúa và tình Chúa yêu thương vẫn dành cho ta, cũng sẽ làm cho ta được mãn nguyện trước những ước ao vốn có từ con tim nhân loại dành để cho ta được biết chữ yêu đương.
Một điều khác, giúp ta phấn đấu sống như thế, là quyết tâm san sẻ những gì mình đang có mà gửi cho những vị/những người đang có nhu cầu rất khẩn thiết. Họ vẫn là những người hiện đang sống chung quanh ta. Họ chính là: gia đình và bạn bè, những người cận thân cũng như cận lân. Các đồng nghiệp ở phố chợ, lẫn sở làm. Họ, cũng là thành viên trong giáo đoàn hoặc giáo xứ. Những người nghèo hèn, hoặc đang đói đang khổ. Ta càng cho đi thật nhiều, từ chính mình, thì đời mình càng lĩnh nhận nhiều tình yêu, từ nhiều người. Đó, chính là mục đích của cuộc sống.
Trong mọi tình huống, ta vẫn gặp những người chung sống cũng giống như ta, tức là: cũng ở vào cảnh tình như mình. Họ chính là người đang sống đời độc thân/ở vậy thành công, rất mỹ mãn. Dù, việc đó tốn kém khá nhiều. Tốn thời gian. Kém tiền bạc. Tốn và kém, vẫn là điều giúp ta cũng rất nhiều. Giúp, cả khi ta cho đi. Hoặc lĩnh nhận, các ân huệ, từ trên cao. Có làm thế, cuộc sống của ta mới là mẫu gương nhân hiền cho nhiều người. Rất đáng trân trọng.” (x. Lm John Flader, Question Time, ConnorCourt Publishing 2008, tr. 188-189)

            Muốn có được một giải đáp thích hợp về sống độc thân/ở vậy, mà lại hỏi cha/thày nhà Đạo rất đạo mạo ở giáo xứ, cũng bằng không. Bằng như không, là vì: chưa hỏi, người người đều đã biết câu trả lời, rất rõ ràng. Đàng hoàng. Chính mạch. Không sai một ly, đi một dặm. Dù, chỉ một chấm phết. Không sai chậy. Dù, lời khuyên của đấng bậc “lành thánh” ấy, nay không còn phù hợp với nhu cầu của dân con mình nữa. Và, chừng như cũng chẳng còn mấy ai quan tâm đến điều đó nữa.
            Thôi thì, đã hỏi và đã được dặn dò rõ như thế rồi, thì chỉ mỗi cách là:hãy cứ âm thầm mà nguyện cầu Chúa Chí Ái cho mình biết sống thực và sống cho phải để làm gương cho người khác, thôi. Nguyện cầu rồi, nay muốn thoải mái gân cốt vì những căng thẳng hoặc trầm thống, thì: chi bằng ta cứ đi vào truyện kể, cũng dễ nghe, rằng:

“Đôi trai gái nọ, có lẽ cùng một tâm trạng sao đó, lại cứ đi lang thang trong làng ngoài xóm, bỗng một hôm chạm mặt mãi hoá thành thân quen, và họ bèn đi vào câu chuyện có lời hỏi/đáp như sau:
-Này, đằng ấy có bao giờ hút thuốc không?
-Chẳng bao giờ.
-Thế đằng ấy có uống rượu không vậy?
-Đây chưa từng uống, đến một giọt.
-Thế còn cờ bạc? Chắc đôi khi cũng có chơi?
-Không khi nào lại bê bối đến thế.
-Thế, có bao giờ đằng ấy có tình có ý với cô nào chăng?
-Cũng không luôn. Đằng này chủ trương sống độc thân, việc gì mà lại thế.
-Ấy, không hút thuốc cũng chẳng uống rượu. Không cờ bạc, cũng chẳng trai gái rất lăng nhăng, thế sống để làm gì không biết nữa?
-Để làm linh mục chứ để làm gì, sao đằng ấy khờ thế.”
(Trích truyện cười mang tên “truyện cực ngắn”, ở trên mạng)

            Nghe kể những truyện cực ngắn như thế, ý hẳn người nghe sẽ nhớ nhiều, rằng: trong đời người và đời mình, nhiều lúc cũng có “đấng bậc” hoặc nghệ sĩ đi trước, cứ là ngâm nga hát những câu ca buồn buồn rồi ngẫm nghĩ:

“Năm tháng, trôi lạnh lùng hoài,
tình đó, nhắc nhở luôn đến ta tình ái.
Nhớ cả một trời,
tình yêu kia, mà lòng nào quên.”
(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

            Hôm nay, nếu người người lại cứ hát mỗi “nỗi lòng” của người đã từng yêu, đang yêu và sẽ yêu ở đời, thì khi hát đến câu: “tình đó nhắc nhở luôn đến ta tình ái”, mà lại nghĩ đến Ái Tình viết rất Hoa, thì chắc hẳn người hát sẽ không thấy mình cứ “lạnh lùng hoài”. Mà sẽ: “nhớ cả một trời, Tình Yêu kia, mà lòng nào quên!” Có nhớ đến Tình Yêu (viết Hoa) rất như thế, thì dẫu có sống cả một đời độc thân hay ở vậy, cũng đều là “chuyện nhỏ”, ở huyện mình. Huyện nhân gian. Huyện nhà cũng rất Đạo. Của mình.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Cũng từng hát lên “nỗi lòng” rất của mình,
            nhưng chẳng liên tưởng đến
Tình Ái của Đức Chúa, rất trên cao.  

Saturday 19 November 2011

“Chiều chiều ngùi trông xa khơi mờ sóng”



Tưng đàn chim bay trong ánh hoàng hôn.
Chơi vơi hồn ai tới chốn xa xôi !
Khuất bóng Kim-Ô chiều tàn lâm ly, mây trời bao la.”
(Lâm Tuyền – Khúc Nhạc Ly Hương)

(Mt 25: 1-13)                             
            “Ngùi trông xa khơi mờ sóng” những buổi chiều, vẫn là động thái của ai đó giống bần đạo, từ nơi xa xôi có buổi mờ sóng những ngóng nhìn “đàn chim bay trong ánh hoàng hôn”. Nhìn, rồi lại nhớ quê hương làng mạc, buồn khôn dứt.
            Bởi có buồn, nên bần đạo mới thả hồn theo “Khúc nhạc Ly Hương” vẫn hát tiếp:

“Lòng buồn sầu ước,
như lũ chim quyết tung trời mây?
Bao nhiêu giông tố hề chi,
Bao nhiêu mưa gió biệt ly,
Thề quyết ra đi từ đây.”
(Lâm Tuyền – bđd)

            Tuy, hát thì hát thế, nhưng bần đạo đây chỉ thấy chút ngậm ngùi hơi bi đát, bi ai hoặc bi hài một cuộc đời, như nhiều người. Bởi, bần đạo nay gặp thấy nhiều bài viết về tình huống những “ly hương” khá “thê lương” của nhiều vị trong thánh hội rất “Văng-ti-ca” (ấy quên, rất Vaticăng), là thế!
            Vaticăng hôm rày chợt thấy những ngày không sáng mấy, khi dân con nhà đạo cứ lào xào, động não để rồi “xuất thủ” bằng những tư tưởng rất khác lạ về một nền thần học khá phải quấy.
            Vâng! Bởi, cứ mải lo chuyện phải quấy cho Thánh hội, nên bần đạo nay mới “động não” để khi động rồi, lại sẽ “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” và tạt vào vườn hoa văn nghệ có giòng chảy nhạc tình, có lời hát:

“Mặc đời giông tố muốn phũ phàng,
đàn chim Âu cứ tiến mơ màng, dưới chớp xanh.
Biển gầm mênh mông, không nơi ngừng cánh tránh gió táp
Gióng cười the thé, với sóng gào!
Đời ta như cánh gió theo tàu, đi bốn phương…”
(Lâm Tuyền – bđd)

            Vâng! Hễ tà tà tản mạn chuyện trong đạo/ngoài đời, là y như rằng bần đạo bắt gặp được nhiều truyện kể không mấy “dễ nể”, nhưng đáng làm chất liệu để bạn và tôi, ta “phiếm” tới. Truyện kể, là truyện khá bình thường ở huyện, rất như sau:

“Thả một hòn sỏi vào trong nước: một tiếng bắn bỗng tung toé lên, rồi chìm nghỉm. Nhưng để lại vô số gợn sóng lăn tăn rất xoay tròn. Lan rộng từ trọng tâm, ra biển cả.

Thả một hòn sỏi vào trong nước: phút chốc bạn sẽ lãng quên. Nhưng trong đó, có những gợn sóng nhỏ xoay tròn, hoà vào con sóng lớn, rồi xáo động cả đại dương hùng vĩ, chỉ bằng hòn sỏi nhỏ.

Thả một lời nói không tốt, ít cẩn trọng: phút chốc nó sẽ bay đi, rồi để lại thấy vô vàn gợn sóng lăn tăn xoay tròn, và cứ thế lan toả. Lan đến, để không cách nào lấy lại được, khi đã nói.

Thả lời nói không tốt, trong phút chốc, bạn cũng sẽ lãng quên đi, nhưng những gợn sóng nhỏ ấy cứ xoay tròn, và xoay mãi. Có thể bạn đã làm tràn ứa giòng nước mắt trên tim buồn. Náo động cả cuộc đời rất phúc hạnh của ai đó chỉ vì lời nói ấy.

Thả một lời nói rất vui và tốt lành, thì chỉ trong giây lát, chúng sẽ bay đi nhưng rồi sẽ để lại vô vàn gợn sóng nhỏ lăn tăn, rất xoay tròn. Chúng đem lại hy vọng và niềm vui, rất an ủi trong con sóng vỗ bờ. Bạn sẽ không ngờ sức mạnh của lời nói tốt lành bạn cho đi.

Thả một lời nói vui tươi/tốt lành thì chỉ trong giây lát bạn sẽ lãng quên ngay. Nhưng niềm vui dâng tràn và những gợn sóng cứ reo vui xoay tròn mãi. Làm như thế, bạn đã khiến con sóng cứ thế vỗ về theo những điệu nhạc êm êm, thêm thân ái. Điệu nhạc ấy, nghe được trên từng hải lý chỉ do mỗi việc thả nó trôi đi những lời nói tốt lành mà thôi!” (Truyện “Hòn Sỏi và Lời Nói” trích từ điện thư nhận vào ngày rằm tháng ấy năm nào)

            Là giáo dân hạng thứ, bần đạo cứ để đầu óc mình lẩn quẩn với những bản văn “lăn tăn” một “Hòn sỏi và Lời Nói” nhặt ở đây đó để bạn bè/người thân biết mà “phiếm” tới, cho vui.
            Trước hết, là đoạn chia sẻ Lời Chúa từ một đấng bậc có tên Francis X. Clooney sj hôm Chủ nhật thứ 33 rất thường niên năm A, ở Cambridge, nước Anh. Bài chia sẻ, tóm lược như sau:

“Khi viết bài này, tôi có bày tỏ với cộng đoàn dân Chúa tụ họp ở nhà thờ. Hôm ấy, tôi nhận ra rằng cũng là việc cần thiết để đồng đạo của tôi hiểu rõ vì lý do gì mà các trinh nữ nói ở dụ ngôn lại bị chụp cho cái mũ “dại khờ” đến là thế? Chẳng vì các cô khờ khạo cùng với các cô khôn ngoan đều không biết rõ khi nào thì “chàng rể” đến. Sự khác biệt giữa các cô khờ và khôn, là ở chỗ: người khôn thường chuẩn bị có thêm dầu dự trữ. Nhưng sự thường, chuyện ấy đâu nào cần. Có mang gì thêm cũng chỉ phí phạm thôi. Bởi, nếu chàng rể đến vào đúng thời điểm đã hẹn, thì cũng chẳng ai cần đem thêm thứ gì cho mệt. Và, các cô kia cũng chẳng bị mang tiếng là khờ dại, nhiều tai tiếng.
  
Để dụ ngôn được dễ hiểu hơn, hôm ấy tôi có đề nghị cộng đoàn dự lễ hãy suy tư thêm về truyện các cô trinh nữ khờ ở truyện kể, để áp dụng vào đời sống rất Công giáo của ta. Chuyện này, có hai cách để ta suy tư sống đời Công Giáo. Cách thứ nhất, là đem tất cả đặt vào cuộc sống có giá trị để chứng tỏ rằng Thiên Chúa cũng hành động như ta hằng trông ngóng. Nghĩa là: ân huệ Ngài ban, sẽ đến vào đúng thời đúng buổi. Lời cầu của ta, sẽ được chuẩn nhận vào mọi lúc. Các nhà lãnh đạo tôn giáo, sẽ sinh động và cảnh giác hơn, mỗi khi cần. Và người người sẽ tỉnh thức mà cảnh giác, dính dự. Và khi đó, đèn dầu của ta, tức nguồn mạch niềm tin ta có, hoặc những gì ta nói, cũng như hành động và suy nghĩ, đều sẽ tốt đẹp.

Cách thứ hai, là sống trước những tháng ngày kham khổ dù Chúa có làm chậm lại những tháng ngày Ngài quang lâm, một cách bí nhiệm. Dù, các nhà lãnh đạo tôn giáo của ta chẳng lo chăn dắt, với quản cai. Dù, khung trời sự sống của ta ra tồi tệ. Dù, mọi người chúng ta đều “thiếp đi rồi ngủ cả”, chẳng để ý gì hoặc quan tâm đến nỗi niềm gì. Chỉ mỗi chuyện giữ cho niềm tin mình tồn tại thôi, cũng làm cho mọi người thêm hoảng. Áp dụng vào cuộc sống hôm nay, ta là các trinh nữ khờ và vụng dại nếu chỉ bám vào cung cách hành xử theo phương án đầu, chẳng biết chọn đường lối thứ hai.     
               
Hôm ấy, tôi có mời gọi mọi người hãy tỏ ra khôn ngoan khi sự việc xem ra có chiều hướng đi xuống, khá tồi tệ. Ở vào cảnh huống ấy, ta cần sự hỗ trợ. Cần có các hoạt động thiêng liêng đạo đức, như học hỏi thêm về niềm tin. Như, làm lành/lánh dữ. Thăm viếng người bệnh tật, các tù nhân, đấng bậc cao niên hoặc kẻ nghèo hèn sống ở đầu ngõ, nơi phố chợ. Có lẽ ta cũng nên thêm lời nguyện cầu, suy tư hoặc lần chuỗi hạt Mân Côi. Có thể có người cho đây là chuyện ù ơ, vô bổ không cần thiết cho đời sống của tín hữu dù vào lúc có sự cố xảy đến, như chuyện đèn mình hết dầu để đốt. Như, phải trải qua thời buổi khốn khó, không lường trước.

Hôm nay, suy về điều này, tôi xin thêm đôi điểm gửi đến bạn đọc trên trang blog này, mà nghĩ thêm cho rộng. Vấn đề là: sao ta cứ bận tâm về những suy tư thần học khá mới mẻ? Sao vẫn có kẻ chịu khó chịu cực để đưa ra những luồng tư tưởng mới về thần học, đến là thế?

Các vị như: nữ tu Elizabeth Johnson, giáo sư thần học đã từng suy nghĩ rất lung nên mới viết lên cuốn “Kiếm Tìm Một Thiên Chúa Sống Động?” Ai cũng biết, cuốn này đã dấy lên một tranh luận nổ dòn khiến nhiều vị đã phải đặt bút tham gia cuộc thảo luận. Ở đây, tôi chỉ muốn thêm vào bài chia sẻ Lời Chúa hôm chủ nhật vừa qua bằng một vài ý tưởng rất cỏn con, thôi.

Chọn phương án thứ nhất như ở trên, thì Hội thánh ta đang sống, là thánh hội tốt lành, đầy đặn. Giới lãnh đạo vẫn lành thánh và nền thần học ta có xưa nay, vẫn tốt đẹp mọi bề. Vậy, có cần tư tưởng mới để được kiểm chứng xem ta có thể và có nên đo lường và so sánh công thức thần học cứng ngắc thời xưa trước hay không? Xét, là xét thử tư tưởng mới này có phù hợp với nền thần học, mà lẽ đáng ra, ta đã phải có vào thời trước cũng rất lâu? Có khác chăng, phải chăng khác ở chỗ nó mới mẻ, nhưng không làm chệch hướng kiếm tìm một đổi thay khá cần thiết. Hoặc, thần học gia này xem ra cũng khờ như 5 cô trinh nữ dại ở dụ ngôn vừa kể, tức chỉ cốt phô trương những gì thêm thắt vào ý tưởng chủ lực bằng nhận định tưởng như là mới mẻ, chăng? Chọn phương án thứ nhất, là nhận rằng Hội thánh tốt lành đủ rồi, cứ để các đấng bậc ở trên yên thân, chẳng cần đi trước những bước đi mới mẻ ấy. Chắc chắn là, “chàng rể” sẽ đến vào giờ đã định. Chẳng cần gì phải “Kiếm Tìm Một Thiên Chúa Sống Động”. Chẳng làm ai giao động, xáo trộn hết.

Chọn phương án thứ hai, là chọn xác định lại những gì mình tưởng là vẫn tốt đẹp từ thời đó, đã trôi qua. Bởi, có thần học gia nào lại muốn viết lên điều gì mới mẻ để chối bỏ mọi chuyện về Hội thánh như diện mạo của thánh hội nay đang tỏ hiện. Chọn phương án này, là như người tổ chức “tiệc cưới” từng thực hiện trong quá khứ. Nghĩa là, giống các cô trinh nữ ở dụ ngôn biết xếp hàng chờ đón “chàng rể” đến, theo cung cách thông thường, rất thức tỉnh. Như, nhà thần học khôn ngoan biết suy tư theo cung cách tươi mới biết rằng “chàng rể” nhà mình sẽ đến trễ, tức không theo thời biểu như trước. Chàng rể có thể xuất hiện như mọi người vẫn đợi trông. Có thể là, người người vì trông đợi chàng rể đến đã quá lâu giờ nên thấm mệt và ngủ thiếp, chẳng còn nuốn đón tiếp “chàng rể” nữa. Hôm nay, đèn dầu của mọi người, là thần học tốt lành, tuyệt hảo từng hoạt động khá tốt vào thời xưa trước, nhưng nay đang lịm tắt, vì lỗi thời.

Thế nên, thần học gia khôn ngoan/có cảnh giác, là giống như các cô trinh nữ biết kiếm tìm tư tưởng mới, khá thức thời. Thần học gia khôn và ngoan, là người biết ra khỏi khuôn phép cứng ngắc, để suy tư rồi đặt thành vấn đề. Biết đề xuất những giải pháp khả dĩ giải quyết được các vấn đề bức bách/tồn đọng, mà đa số giáo dân cũng như lãnh đạo tôn giáo, không nghĩ rằng mình có thể tìm ra giải pháp tốt cho vấn đề như thế. Sẽ là trinh nữ khờ, nếu cho rằng nền thần học mà mọi người vẫn có xưa nay, vẫn tốt lành đủ để ta có thể sử dụng cho hôm nay và mai ngày. Quả là, hôm nay, các trinh nữ “khờ” vẫn cần lượng dầu dự trữ, để đốt lên đèn niềm tin cho rực sáng. Trinh nữ khờ, là người như ta hôm nay cũng cần “Kiếm Tìm Một Thiên Chúa Sống Động” cả đấy chứ!

Rõ ràng là, chẳng thần học gia nào có thể và có lẽ sẽ thênh thang tiến bước về phía trước, vì sẽ được trên hoan hỷ chuẩn thuận. Hiểu điều ấy, có lẽ sẽ bị tiếng là “khờ khạo” như 5 cô trinh nữ “không khôn” ở dụ ngôn hôm trước. Và, một số thần học gia của ta hôm nay, cũng đã “khờ khạo” như trinh nữ “dại khờ” của hôm trước khiến mọi người cứ nghĩ rằng họ có thể làm nên tiệc cưới nếu chỉ dựa lên mỗi nền tảng bảo rằng “khi xưa mình cũng từng làm thế”. Hãy biết cảm tạ, khi thấy thánh hội của mình nay có được thần học gia mới mẻ nhưng không “khờ” như sơ/thày Elizabeth Johnson, người dám nghiêm chỉnh nhận lãnh mọi trách nhiệm để viết lên giòng suy tư không chỉ cho Hội thánh đã định sẵn, cứng ngắc; mà còn cho thánh hội của tương lai, mai ngày nữa. Thật đáng chúc lành cho thần học gia khôn ngoan như 5 cô trinh nữ khôn, trong truyện dụ ngôn thánh sử kể hôm trước.” (xem Lm Francis X. Clooney sj, America the National Catholic Weekly 06/11/2011)

            Bắt chước đấng bậc sáng suốt trên, nói nhiều về “sự thật”, rất nghiêm chỉnh, bần đạo đây chỉ dám hát theo chứ chẳng dám nói. Chí ít là “nói leo” và “nói trèo” khi thấy “chất giọng” của mình còn bé tẻo teo, chẳng có gì mới và lạ. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta lại sẽ hát lời ca tươi mát, có nét thanh tao nhè nhẹ, rằng:

“Rồi một hoàng hôn ta sẽ hồi hương
Trở về quê xưa thêm bao tình thương
Bao con buồm xưa đến đón cố nhân
Với bóng thân yêu ngàn đời chờ mong
Mây trời bao la.”
(Lâm Tuyền – bđd)

             Mây trời bao la”, với “bóng thân yêu ngàn đời chờ mong” được như thế, ta mới suy và sẽ nghĩ. Nghĩ cho cùng, sẽ thấy chung quanh mình toàn những bầu bạn mang trong lòng những ưu tư/trăn trở, đến khó thở. Khó, chẳng vì người khác bịt đường hô hấp cho chết ngộp, không ngóc đầu lên được để đón luồng gió mới. Tư tưởng mới. Nhưng khó, vì thấy rằng ở thời buổi này mà vẫn còn có những cảnh huống kỳ dị. O ép. Bít bưng.              
            Để không bị mang tiếng là bưng là bít, tưởng cũng nên tìm thêm những tư tưởng mà nói lên như đức thầy Dòng Tên ở trên, tức: chọn chiều hướng thứ hai, để rồi hỏi: vườn nhà mình, có trăm hoa đua nở không thế? Đua, là đua nhau mà nở rộ giòng tâm sự/nhận định về thần học thông thoáng, mới mẻ.
Để trả lời, trước nhất là tóm kết của Dennis O’Brien về lập trường của sơ/thày giảng sư đại học Công giáo Elizabeth Johnson, ở bên dưới :

“Trong cuốn “Kiếm Tìm Một Thiên Chúa Sống Động”, tác giả là sơ/thày Elizabeth Johnson đã đưa ra trường hợp về phong trào tự phát các tư tưởng hiện đại ở Hội thánh. Tác giả khởi đầu bằng cách duyệt xét công trình biên khảo của thần học gia Karl Rahner từng truy tầm ảnh hưởng của giòng suy tư đương đại có từ thập niên ’30, trước khi tiến vào thần học khác biệt của Đạo Chúa thời cận đại. Và, cuối cùng tác giả làm cây cầu bắc ngang liên kết người Đạo Chúa và tôn giáo khác.    

Tác giả tóm tắt lập trường của thần học gia Rahner khi vị này bảo: dân đi Đạo nghe Hội thánh giảng dạy thì vẫn thấy như là Hội thánh muốn lôi ghì người nhà Đạo nằm ì một chỗ để ở mãi với nền thần học có từ thời ban sơ chỉ nói về Đức Chúa không xứng hợp với niềm tin ta có”. Thần học gia Karl Rahner cho biết: nhiều thuyết giảng do các nhà thần học xưa nay những dạy và bảo chẳng khác nào “đàn chim non chết cứng vì trời buốt giá của mùa Đông băng lạnh”. Tác giả, thay vì đặt nặng vào ngôn ngữ chết lịm và thứ thần học luôn tìm cách tách rời khỏi đời sống, thì nay dám đề xuất một thần học về Đức Chúa luôn sống động, rất linh hoạt với cuộc sống ở đây, bây giờ. Nếu có ai hỏi: đâu là đặc điểm của Thiên Chúa sống động? thì tác giả trả lời ngay bằng một cảnh báo về Thiên Chúa là Đấng mà không ai có thể “diễn tả và định nghĩa được. Ngài là Thiên Chúa, Đấng ta không thể đo lường và rất khó hiểu.” Đây là tiền đề rất chuẩn cho mọi thứ thần học. Tính “không diễn tả được” của Thiên Chúa phải chăng là đặc trưng/đặc thù của Đức Chúa sống động? Câu trả lời đơn giản, vẫn là: cuộc sống tự nó không thể diễn tả được. Và, ai cũng thấy được sự dồi dào sung mãn, rất đổi thay vẫn tiến tới. Thiên Chúa, tựa như sự sống do Ngài sáng tạo và bảo tồn, là Đấng ta phải bắt chụp trong lúc Ngài đang bay bổng. Như Môsê khi xưa chỉ đạt đến Yavê Thiên Chúa Ngài bằng việc thấy Ngài từ đằng sau khi Ngài chợt ngang qua, thôi.

Thiên Chúa sống động đến với ta trong cuộc sống cụ thể, riêng biệt của mỗi người. Đạo Chúa là Đạo Giáo không sở hữu chỉ mỗi linh hồn, nhưng gồm cả linh hồn nằm trong thân xác. Và, thân xác là những gì đặc biệt, riêng tư như đàn ông đàn bà, rất tư riêng trong cuộc sống. Thần học nào không mang tính lịch sử, chỉ đề cập đến siêu hình học thôi, thường dể lạc mất điểm quan trọng này. Và thuyết trừu tượng của Rahner về Chúa Ba Ngôi tạo bệ phóng cho hầu hết những gì theo sau sách của tác giả Johnson. Tác giả nói: Thần học gia Rahner từng viết: Ba Ngôi mang tính kinh tế là Ba Ngôi tự tại, và ngược lại. Sự thật hiển nhiên cho thấy: đây là tốc ký ghi nhanh về một hiện thực bảo cho ta biết Thiên Chúa do cung cách Ngài hành xử trong lịch sử, ngang qua Ngôi Lời Nhập Thể và Chúa Thánh luôn canh tân, đổi mới hết mọi sự.”      

Cũng cùng chiều hướng với thần học gia Karl Rahner trong việc định vị Thiên Chúa tự tại trong giòng lịch sử, tác giả Johnson còn để nguyên một chương để trích dẫn tư tưởng của 3 thần học gia người Đức, hai Thệ Phản, một Công giáo đã làm nên lịch sử bằng các đưa ra bối cảnh công việc mình làm. Thần học của 3 vị, đều trổi bật từ suy tư sâu sắc về cuộc sống dưới chế độ Quốc Xã trong thế chiến thứ hai và thời gian sau đó. Người thì nhấn mạnh về thần học Khổ giá. Có vị, lại nói rõ về khổ đau/sự chết rất chiến tranh. Và tác giả Johnson đề cập đến nỗi khổ đau/sầu buồn vẫn tiếp tục ngang qua tiếng khóc của lịch sử.

Khổ đau/sầu buồn là chủ đề lớn ở thần học khác mà tác giả nhấn mạnh qua cung cách viết lách rất sâu sắc và sáng sủa. Ở chương nói về “Giải phóng Thiên Chúa của Sự Sống” tác giả cũng điều nghiên về nền thần học giải phóng theo kiểu Nam Mỹ từng ăn sâu cắm rễ nơi kinh nghiệm về đói nghèo đang tràn lan ở khắp nơi. Ở một chương khác, tác giả trình bày về những nối kết và so sánh giữa thần học của bậc nữ lưu trổi bật, nói lên tình trạng thứ yếu vẫn được gán cho nữ giới ở các nơi có nền văn hoá và cơ chế quyền hành của thánh hội Công giáo.

Tác giả cũng đã viết riêng một chương để xét về triển vọng của thần học về nô lệ da màu và kỳ thị chủng tộc. Bằng tiêu đề “Theo chân Đức Chúa của Lễ Hội”, tác giả nhấn mạnh đến điều gọi là “la lucha” tức: sự chiến đấu trường kỳ của những người thuộc vùng biển Caribê và di dân Nam Mỹ định cư ở Hoa Kỳ. Đặc biệt chương này có phần diễn tả về việc cử hành mừng lễ mà tác giả gọi là “flor y canto” cả khi ta giáp mặt với khổ đau, phiền sầu và bất công.

Sau khi bàn luận về cố gắng triển khai đề tài thần học thích hợp với lịch sử nhân loại, tác giả quay sang tương quan giữa Đạo Chúa Kitô giáo và các tôn giáo trên thế giới, bằng một chương mang tựa đề: “Thiên Chúa Độ Lượng của Đạo Giáo”. Ở chương này, tác giả mô tả việc tham dự Tiệc Thánh của Công giáo đưa vào sử dụng một số tập tục của Ấn giáo. Phụng vụ chứa đựng các bài ca vịnh, nén hương trầm và hoa vạn thọ có từ các lễ hội độc đáo của Ấn giáo. Nghi thức này được toà thánh La Mã chuẩn thuận. Sau Kinh Thương Xót, người tham dự Tiệc thánh lãnh nhận “chấm tròn mầu đỏ” (gọi là “bindi”) đặt trên trán giữa đôi lồng mày, như biểu tượng con mắt thứ ba luôn kiếm tìm sự khôn ngoan nội tại. Cung cách nguyện cầu của Ấn giáo nhắc dân con nhà Đạo mình về ăn năn sám hối bày tỏ sự khôn ngoan nội tại về cung cách  ta đến với Chúa.

Ở chương cuối, với tiêu đề: “Ba Ngôi: Đức Chúa Sống Động của Tình Yêu”, là chương đặc biệt tác giả nhìn vào ngôn ngữ truyền thống nói đến “Ba Ngôi tự tại”, đặc biệt liên quan đến Chúa Thánh Linh. Ở chương này, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến Chúa Thánh Linh trong công cuộc dựng xây Ba Ngôi Đức Chúa như thành phần chủ yếu của toàn bộ công trình suy tư thần học của tác giả. Chúa Thánh Linh là Đấng luôn đồng hành ở với ta, trong mọi đổi thay của lịch sử. Đức Giêsu là Dấu Chỉ biểu lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa trong lịch sử và với lịch sử. Nhưng, Chúa Thánh Linh là Đấng luôn ở với ta suốt mọi chặng đường lịch sử.

Công Đồng Vatican 2 là thời khắc qua đó Thiên Chúa Sống Động đến để nhắc nhở mọi người, ngang qua các vị chủ chăn, rằng: mọi người nên chấn chỉnh niềm tin của mình sau biến cố đau buồn của thế chiến.

Cuối cùng, từ ngày Công Đồng Vatican 2 diễn ra, có được bao nhiêu thần học gia, chí ít là nhà thần học giáo dân, từng thao thức “Kiếm Tìm Một Thiên Chúa Sống Động” đã và đang được mời làm tư vấn thần học cho Công Đồng khác sẽ diễn ra trong mai ngày, tức Công Đồng Vatican 3? Vào thời điểm diễn biến Công Đồng Vatican 2, một thần học gia thông thoáng là Michael Novak cũng từng lên tiếng về điểm yếu của thánh hội mình là quá cam kết dính liền với nét chính thống, nhưng lại không mang tính lịch sử. Chính vì quá chính thống đến độ phản lịch sử, và lại không tháp nhập vào với con người nên ta không đạt được Thiên Chúa sống động mà các thần học gia lâu nay vẫn đậy che, giấu kín. Xem thế thì, bài phân tích thần học của tác giả Elizabeth Johnson nhắc mọi người nhớ là mình đã để luột mất cơ hội tốt đẹp khi những “con chim non chết cứng” từ bục giảng và dạy, rày thấy rõ.” (xem Dennis O’Brien, Beyond Utterance, trên trang blog riêng của tác giả).

            Dài giòng trích dẫn những lý luận thần học ở trên, không phải để khoe chữ hay biện luận lê thê về đề tài cô đọng/khô cứng, được tranh luận ở nhà Đạo. Nhưng trích và dẫn ở đây, là để truyền bá thông tin về những gì đã và đang xảy ra ở thánh hội, rất cấp trên. Trích và dẫn, còn để “trích ngang” một dẫn dụ, cho đỡ nhớ.
            Trích dẫn rồi, nay ta về với thơ và nhạc, để hát lên đôi lời mà nghệ sĩ ở đời, vẫn cứ hát:

“Lòng càng thổn thức
Quên hêt bao mối hận mà đi
yêu đương say đắm mà chi
Xa xôi đem thú biệt ly
Sầu nhớ đau thương làm chi
.”
(Lâm Tuyền –bđd)

            Hát ở đây, không là nguyện cầu những hai lần. Mà, còn là trích và dịch về những chuyện mà bạn và tôi, ta ít nghe quen, nhưng cần cứu xét, để suy nghĩ. Suy lúc này. Ở đây. Với thánh hội.

Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn nhắn mình và nhủ người
            về những điều cần suy nghĩ
và nguyện cầu.
Cho nhau.
           
            

             

             
                       

Saturday 12 November 2011

“Ngày nào anh yêu em,”


“Ngày nào anh yêu em,”
“anh đã quen trong cay đắng tuyệt vời,
ngày nào em yêu anh,
em hẳn quên với trời hạnh phúc mới.”
(Trần Thiện Thanh – Mùa Đông Của Anh)

            (Lc 12: 51-53)

Không cần biết, ngày yêu em, anh có quen với “cay đắng tuyệt vời”, không? Chẳng cần hỏi: hồi yêu anh, em có quên cõi “trời hạnh phúc mới”, nữa rồi chăng? “Cay đắng”, “Lạnh giá”, “ngừng thở” như lời người nghệ sĩ viết lên thành câu nhạc/hát lên thành nỗi niềm ấy, phải chăng là niềm phúc hạnh/đắng cay, trong cuộc đời?

Sự thật thì, cuộc đời của nhiều người vẫn đầy tràn những đắng cay, lạnh giá, như câu hát:

                        “Em ơi, Đông lại về từ trăm năm lạnh giá,
                        Tim anh như ngừng thở, từ sau ân tình đó…
                        Em nghe không? Mùa Đông, Mùa Đông?..
                        (Trần Thiện Thanh – bđd)

Mùa Đông của đời người, hay mùa Đông của anh, phải chăng là mùa của đắng cay/lạnh giá, khiền “tim anh như ngừng thở”? Mùa Đông ở nhà Đạo, có phải là mùa của khờ khạo, rẽ chia, nhiều phân cách?  Phân và cách, như ý nghĩ của nhiều người khi nghiên cứu Sách thánh, có lời khuyên?

Trước khi tìm câu trả lời cho đích đáng từ Đấng bậc rất vị vọng, tưởng cũng nên nghe vội câu truyện kể để dẫn nhập cho những câu nhiều người hỏi về phân chia, tách lìa, những lỗi tội như sau:

            “Truyện rằng:
Ở lớp giáo lý bỏ túi tại trường nọ, vị giáo lý viên hỏi đám học trò bé nhỏ những câu hỏi tưởng chừng cũng nhỏ cũng bé, mà sao các bé em lại cứ nghĩ là to tát, rất như sau:
-Nào các em! Muốn được Đức Chúa yêu thương thứ tha cho mình những  lỗi cùng tội, thì ta phải làm gì?
Cả lớp nhao nhao em nào cũng giơ tay xin trả lời. Một em hiên ngang đứng dậy nói:
-Dạ, trước nhất là phải phạm tội ạ!”

            Dĩ nhiên, lời mới vừa trả là của con trẻ, chẳng giống ai. Nhưng, điều đó cho thấy là cả đến đám trẻ cùng người lớn nay đã có những nhiều nhận định gây thắc mắc, và cũng khang khác khá nhiều, thời hồi trước. Thắc mắc của thời trước, cũng như thời bây giờ là thắc mắc tương tự như lời thư gửi đến toà soạn tuần báo The Catholic Weekly Sydney hôm rồi, như sau:

“Thưa Cha. Nhiều lần giở Kinh Sách đọc trước đèn, sao con thấy dù có ánh sáng của ngọn đèn soi tỏ, vẫn không đủ để thấy được ý nghĩa đích thực về quan niệm lập trường rất đúng nơi Lời của Chúa khi Ngài bảo: Ngài đến với thế gian không phải để mang hoà bình, mà là chia rẽ giữa cha mẹ với con, vợ với chồng. Mỗi lần nghe đọc đoạn này, con thấy như có cái gì không ổn khiến con nghèn nghẹn hay sao ấy. Vậy ta phải hiểu giáo huấn của Chúa thế nào về chuyện này?” (trích thư của một độc giả rất hiền và cũng lành rất ít hỏi)

            Thắc mắc/hỏi han, đâu liên can gì chuyện hiền lành, ở khắp chốn. Chí ít, là chốn Đạo/đời vẫn có nhiều người từ vua quan/lãnh chúa đến thứ dân vẫn cứ hỏi và cứ hát những câu những lời rất hỏi han như sau:

“Trời lập đông chưa em, cho lũ dơi đi tìm giấc ngủ vùi?
Để mặc anh lang thang, ôm giá băng ngỡ thầm người yêu tới?
Đêm chia ly em về, đường khuya em bật khóc…
Anh xa em thật rồi, làm sao quên mùi tóc?
Em hỡi em!
Có phải tình băng giá là tình đẹp trên thế gian?
(Trần Thiện Thanh – bđd)

            Thật ra, hỏi như thế chỉ để anh, để em và để chúng ta không còn mang trong mình những thành kiến không nên có, mà thôi. Hỏi như thế, là hỏi những chuyện thường xảy ra ở huyện nhà Đạo và huyện dân gian, ở nơi đó có bậc vị vọng vẫn chờ người đến hỏi, để rồi có cơ hội mà giải đáp. Dù, thắc mắc ấy/lời hỏi nọ có nhiêu khê, diệu vợi về Lời Chúa, thì đấng bậc vẫn ra tay giúp giùm để mọi người còn dễ thở, rất như sau:

“Rõ ràng đây là một trong những đoạn sách rất gây hoang mang, ngỡ ngàng cũng không ít. Thôi, để tôi xin có đôi lời trích dẫn ít chương đọan Phúc Âm, mà giải toả. Trước nhất, tưởng cũng nên trích dịch nguyên văn đoạn nói về vấn đề này, ở ngay đây:

"Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.3 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng." (Lc 12: 51-53)

Nếu đưa đoạn này ra khỏi bối cảnh lời lẽ của Kinh thánh, ắt là ta sẽ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến Ngài chỉ đem đến những bất bình cùng cãi tranh thôi; và như thế,ta cũng sẽ thôi không còn theo chân Chúa nữa.Thế nhưng, như một bạn đồng nghiệp rất khoa bảng chuyên chú giải Thánh Kinh của bổn báo đã từng nói: “Nếu ta lấy bất cứ câu Kinh thánh nào đem ra khỏi bối cảnh Lời Chúa, ắt hẳn còn lại chỉ là những chương đoạn ngớ ngẩn, chẳng nghĩa lý!” Và, đây là một trong những cái-gọi-là vớ vẩn, vẩn vơ ấy.

Bởi thế nên, ta hãy đưa bản văn/câu nói ấy vào với bối cảnh của toàn bộ Sách Tân Ước, mới được. Làm thế, ta sẽ hiểu được rằng Đức Giêsu thực sự đến với trần gian con người là để mang cho họ sự bình an và hiệp nhất.

Để bắt đầu, ta hãy nghe về lời loan báo tin vui gửi đến các mục đồng về việc Chúa giáng hạ làm người, lúc mà triều thần thánh trên thiên quốc đồng thanh hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.".” (Lc 2: 14)

Cùng một kiểu như thế, ta đến với trình thuật về Bài Giảng Trên Núi, ở đó Chúa ca tụng những ai đem hòa bình đến với người khác, qua lời khuyên: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”(Mt 5: 9)

Quan trọng hơn, ta cứ nhìn vào những gì Chúa nói về sứ vụ Thiên sai của Ngài: “Bình an Ta để lại cho anh em; bình an mà Ta ban cho anh em, thế gian này không thể cho được như Ta đã ban cho anh em.” (Yn 14: 27) Xem như thế, rõ ràng là Chúa đến, Ngài đích thị là để mang bình an cho mỗi người.Rõ hơn nữa, hiển nhiên là Ngài chẳng khi nào lại muốn thấy sự rẽ chia, đúng hơn phải là sự kết hợp hiệp thông. Vào buổi tiệc Tạ Từ, Ngài nguyện cầu cùng Cha Ngài, rằng: “Lạy Cha, Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. (Yn 17: 20)

Và, có điều là ta cứ tưởng là mình hiểu biết hết những lời bí nhiệm trong đoạn mà chị vừa trích dẫn, xem ra đã nghịch chống lại các đoạn văn khác chăng?

Trước hết, nên nhớ rằng chính Đức Giêsu là dấu tích của sự “mâu thuẫn, rẽ chia”. Khi Ngài có mặt ở đền thánh Giêrusalem, cụ già Simêon đã tiên đoán về Ngài rằng: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2: 34)

Nhằm rao giảng sự thật cần nắm vững, Chúa đã gặp biết bao nhiêu là chống đối rất đáng kể trong suốt cuộc đời Ngài và cuối cùng Ngài cũng bị dẫn đến cái chết do chính bàn tay của những người không sẵn sàng chấp nhận giáo hấn của Ngài được.

Đồ đệ theo chân Ngài cũng thế, các vị đều đã gặp nhiều chống đối. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những nỗi khổ mà thánh nhân phải chịu khi rao giảng Tin Mừng (2Cr 11: 12-28). Và chính Hội thánh của Chúa cũng bị bách hại trước nhất là từ những người Do thái, rồi sau đó từ đế quốc La Mã suốt 250 năm.

Thế nhưng, tại sao Chúa lại nói về sự rẽ chia ngay trong gia đình? Là bởi vì, cũng thế, điều này thường là kết quả khi thành viên trong gia đình tin vào Lời Chúa, trong khi đó người kia lại không. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đều biết đến chuyện hễ có ai hồi hướng trở về với niềm tin nơi Đạo Chúa, thường thì người ấy dễ bị thành viên khác trong gia đình hoặc toàn bộ gia đình mình khích bác, cấm cửa không cho về lại với gia đình.

Tin Mừng theo thánh Mátthêu, có nhiều đoạn Chúa cũng ám chỉ chuyện này. Sau khi nói về mẹ chồng sẽ chống lại nàng dâu, Ngài còn bảo: “Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10: 36) Chúa còn trích dẫn lời của tiên tri Micah, khi ông nói: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch.” (Mic 7: 6)

Và từ đó, Ngài nói tiếp: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10: 37)

Thế thì, nếu có ai khám phá ra sự thật ở Tin Mừng rồi đến mà thực thi Lời dạy của Chúa, hẳn nhiên là người đó yêu Chúa hơn gia đình mình và họ sẽ nghe theo tiếng gọi của Chúa, dù cho có phải gặp nhiều chống đối rẽ chia, từ phía gia đình.

Hiển nhiên là, Chúa đâu nào đã mang sự chia rẽ đến với ai bao giờ. Ngài chỉ muốn nói: Ngài biết là đôi lúc những người theo chân Ngài sẽ gặp phải chống đối. Sẽ có sự rẽ chia, và ly cách.

Điều Chúa mang đến, Ngài đã nói rõ điều đó, chính là sự bình an và hiệp nhất: bình an trong tâm hồn cho tất cả những ai theo chân Ngài. Hiệp nhất, tất cả mọi dân con đồ đệ của Ngài.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 6/11/2011, tr. 12)

            Nghe đấng bậc giải đáp thắc mắc rất ở trên, bần đạo lại cứ liên tưởng đến ca từ, vẫn thấy hát:

                                                “Ngày nào ta xa nhau,
anh bước sâu trong vũng tối nhạt nhòa
Từng mùa Đông theo qua,
Anh đã quen với đường đời băng giá.”
(Trần Thiện Thanh – bđd)

            Bóng tối nhạt nhòa đây, chính là sự đông cứng, xót xa, như câu ca của nghệ sĩ còn cứ hát:

                                                “Xưa hôn em một lần,
                                                Rồi đau thương tràn lấp.
                                                Anh yêu em một ngày và xa em trọn kiếp
                                                Nên anh yêu mùa Đông,
                                                Nên anh yêu mùa Đông,
                                                Ôi! Mùa Đông của anh!”
                                                (Trần Thiện Thanh – bđd)

            Hẳn là Mùa Đông của anh, nay đà xảy đến khiến anh phải ôm phải ấp chỉ vì anh đã trót hôn em một lần. Hôn chỉ một lần thôi, mà rồi đau thương tràn ngập. Ôi thôi mùa Đông. Của anh. Của người.Mùa Đông thì như thế. Vẫn cứ đem lại bóng tối nhạt nhòa. Băng giá. Chia xa. Còn Mùa Xuân trọn kiếp do Đức Chúa mang lại vẫn kết hợp, rất hài hòa. Bình an.

            Về những chia xa, nhạt nhòa của Mùa Đông hay mùa hạ nhiều nắng rẽ phân, hoặc thu qua đầy ảm đạm, bần đạo nhớ về lời của thầy dạy môn Kinh thánh từng dặn dò: Khi đọc Kinh thánh, nhớ đừng hiểu từng chữ, rất nghĩa đen. Hoặc đối chiếu với khoa học lịch sử, ở bên ngoài; mà phải đặt lời lẽ trình thuật theo ý hướng và chủ đích của thánh sử khi viết Tin Mừng ấy.

            Theo v thày dạy của bần đạo, thì thánh sử Mát-thêu viết lên Tin Mừng của mình, hồi 80 hay 85 sau Công nguyên, đem vào đó nhiều dụ ngôn/truyện kể, là để trình và thuật về tình hình của cộng đoàn Hội thánh thời mình sống. Thời tiên khởi, là thời có nhiều bách hại, phân hóa. Tách lìa. Ngài viết là muốn để lại lời khuyên răn, khích lệ hơn là chứng cứ lịch sử Lời Chúa nói. Nói theo kiểu văn hoa thêu thùa nhiều tính chất thi ca/âm nhạc, nói như nghệ sĩ trích ở trên vẫn hát và nói những rằng:

                                    “Anh chỉ là người điên trong vườn hoa tình ái.
                                    Anh chỉ là người say, bên đường em nhìn thấy.
                                    Anh đi đi, người điên không biết nhớ,
                                    Và người say không biết buồn…”
                                    (Trần Thiện Thanh – bđd)

            Tiếc rằng bần đạo không còn trẻ như tác giả bài ca “Mùa Đông của anh”, khi anh yêu Mùa Đông ấy, đã thấy “rất cay đắng tuyệt vời”. Vì không còn cái tuổi rất trẻ của mùa Xuân, nên bần đạo và bạn bè thân quen cùng trang lứa, nay cũng thấy phần nào mùa Đông của tình yêu. Yêu mình và yêu người. nên, mới thấm thía lời của thánh nhân vẫn trình và thuật về Hội thánh thời tiên khởi, cũng rất cay đắng, tuyệt vời dù phân rẽ. Phân rẽ đến độ, thánh sử thấy mình “như ngừng thở”, bèn phải viết lên những lời “thơ” khá ai oán, rẽ chia. Kình chống.

            Nói cho cùng, như các cụ xưa nay từng nói “yêu nhau lắm, cắn nhau đau”, có thể đó cũng là tâm trạng của thành viên trong thánh hội thời tiên khởi, nên mới có những lời như thế, gán cho Chúa. 

Nói nào ngay, lâu nay đấng bậc vị vọng của tờ The Catholic Weekly là linh mục John Flader ni tiếng cứng rắn, chững chạc, hoặc cựu trào” như nhận xét của một số người “vẫn chưa già nhưng không còn trẻ’ đã từng gán cho “đức ngài” cái mũ chụp ấy. Tuy nhiên, đức thày quan niệm rất không sai, khi bảo rằng: “Chúa đâu nào đã mang sự chia rẽ đến với ai bao giờ. Ngài chỉ muốn nói: Ngài biết là đôi lúc những người theo chân Ngài sẽ gặp phải chống đối. Sẽ có sự rẽ chia, và ly cách.”

Nói cho rõ, thì chính ra phải nói: thánh sử Mát-thêu là người viết lên trình thuật có lời lẽ rất “đắng cay tuyệt vời” vào thời điểm những 50 năm sau ngày Chúa chịu nạn, cũng là để diễn tả tâm trạng của các thành viên trong nhóm hội rất thánh, là Hội thánh. Nói như thế, không chỉ để khuyên răn, hoặc đưa chứng cứ mà để nói lên một sự thật rất đau lòng. Và, cũng là sự thật rất mất lòng.

Để minh họa cho những sự thật đau lòng hay mất lòng, cũng nên kể về một dụ ngôn thời đương đại, rất như sau:

“Bố mẹ cô gái nọ thấy con mình nay đến tuổi cần có người trông nom và ở cạnh “lúc vui cũng như khi buồn”, bèn mở một cuộc tuyển lựa… chàng rể.Trong số các chàng trai đến dự thi tuyển để được chuẩn nhận làm rể tho, Chàng trai thứ nhất, hiên ngang khoe:
-Dạ! Tài khoản của con trong ngân hàng tròm trẻm chỉ độ triệu đô, thôi.
-Cũng được. Thế còn anh B này thì sao?
-Dạ! Con chỉ có mỗi biệt thự trị giá hai triệu đô, cũng tạm sống .
-Thế cũng được. Thế còn anh trai trẻ này, có những gì?
-Dạ thưa bác! Cháu chả có gì ra hồn cả ngoài mỗi đứa con đang nằm trong bụng của con gái bác.
Chánh chủ khảo nghe thế cũng “tá hỏa!”, nhưng thấy anh này cũng không đến nỗi tệ, vì dám nói lên một sự thất…rất mếch lòng…”

            Dù truyện kể, không là chân lý hoặc nguyên tắc để sống, mà chỉ nói lên tình hình hiện tại ở một số huyện dân gian, tại nhà khiến ta cần chú ý, thế thôi. Nhưng người kể truyện lại rút ra được một bài học rất thấm, đó là: Muốn thắng các địch thủ rất kếch xù trong khi mình chẳng có lấy một xu, thì chỉ còn cách duy nhất là “có tay trong”, mới hòng thắng. Và, người kể lại cứ thêm: Đây không phải là chân lý sống, nên cũng đừng thắc mắc hoặc hỏi han, tại sao thế.

            Thật đúng thế. Cuộc đời người, có những chuyện không thể cứ mãi hỏi han: sao như thế? Sao lại thế? Mà, hãy cứ nhìn thẳng vào sự thật, rồi hiên ngang dấn bước, để còn sống.

            Nói cho cùng, không thể kể cho nhau nghe: thế nào là nguyên tắc, hoặc chân lý sống ở đời. Cho bằng cứ kiếm tìm chân lý ấy, rồi sẽ sống. Vì, chân lý hay sự thật sẽ được phơi bày trên mái nhà. Chí ít, lại là sự thật như câu hát của người. Ở đời, rằng:

                        “Những cuộc tình dương gian, muôn đời không nghĩa lý…
                        Nhưng người vẫn tìm nhau, trong vòng tay tình ý.
                        Như đôi ta, niềm yêu xưa chỉ còn
                        Một vì sao anh lẻ loi.”
                        (Trần Thiện Thanh – bđd)

            Vì “sao kia, có là anh hay là em rất lẻ loi, có là cuộc tình dương gian hoặc gì đi nữa thì cũng chẳng nghĩa lý chi khi mà “người người vẫn cứ tìm nhau, trong vòng tay tình ý” rất tế nhị. Bởi đời người là như thế. Người đời là như vậy. Nên, hãy cứ thương yêu cho trọn. Yêu thương, như Chúa vẫn thương yêu con người. Ngài không cách ly, chia lìa hoặc rẽ đám bất cứ một ai. Chí ít, là đồ đệ của Ngài, dân con Nước Trời. Ở mọi nơi.
           
            Trần Ngọc Mười Hai
            Nay không còn trẻ gì na
            Nhưng vẫn cứ kiếm tìm
một cuộc tình chí lý rất thân thương
Nơi nhà Đạo.
Với con người.

                                          
  


            .