Saturday 25 August 2012

“Ơn em thơ dại từ trời,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 22 thường niên năm B 02.09.2012
“Ơn em thơ dại từ trời,”
“theo ta xuống biển vớt đời ta trôi.”
(Từ Công Phụng ­ - Ơn Em)
(Kh 3: 20)
            Phải chăng “ơn em” còn là ý tưởng của nhà thơ kiêm nghệ sĩ viết nhạc họ Từ? Hay là, tư tưởng của nhà Đạo hết còn thơ như bần đạo đây, bao năm đi Đạo cũng đã cảm nghiệm điều đó, một đôi lần.
Cảm nghiệm, gồm xúc cảm và kinh nghiệm về tháng ngày dài những viết và lách dăm ba chuyện dông dài đầy những “phiếm”, mà bạn đọc nọ vốn là trưởng ban/ngành đoàn thể ở nhà thờ vùng Tây Nam Sydney đã nhận xét: “Tôi có đọc bài ông này viết trên nguyệt san Dân Chúa Úc Châu, thấy nó “chả ra làm sao”!”
Vâng. đúng thế. Có lẽ cũng chả ra làm sao hết! Bởi, tất cả chỉ là những cảm và nghiệm về chuyện phiếm “chẳng ý nghĩa” khi nghiệp viết lách của bần đạo vẫn cứ “theo ta xuống biển vớt đời ta trôi.” Vâng. Bần đạo nhiều lúc thấy mình cũng như những người theo nhau xuống biển đời đen ngòm để “vớt đời ta trôi!” mà thôi. Kỳ thực, lại vớt được cả ơn “mưa móc”, tựa hồ tác giả vẫn còn hát:

“Ơn em dáng mỏng mưa vời
Theo ta lên núi về đồi yêu thương.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Vâng. Bần đạo lại cũng nghêu ngao hát chữ “Tạ ơn Em! Tạ ơn Em!” cả khi cảm nghiệm về những phản hồi  bảo mình “chả ra làm sao” nhưng vẫn cảm tạ, trân trọng và xem đó là “ân lộc” khi có bạn đọc và bạn-không-đọc bài mình viết. Cảm tạ cả những ý kiến ở trên và ở bên dưới:

            “Thưa anh Tá thân mến,
Chị Mai nói là sách của anh khô khan và khó nuốt, mà Thảo đây đọc thấy vui lắm vì nó cho Thảo biết nhiều chuyện mà Thảo không biết. Thảo đọc tới bài số 9 trong tập sách số 6 của anh rồi. Có điều là Thảo không hiểu được hết, nhưng có thể là do tiếng Việt của Thảo không giỏi chứ không phải tại anh viết “khô khan” và “khó nuốt” đâu. Cám ơn anh thật nhiều đã cho Thảo sách của anh để Thảo được học hỏi thêm.” (Trích điện thư  08/7/2012 của người bạn tên Thảo Nguyễn)

Điện thư hay “thư điện” vẫn là ý kiến tư riêng của một người, hoặc vài người từng đọc hay không đọc sách/bài của người viết đôi giòng phiếm rất “chả ra làm sao cả”. Điện thư hay thư điện có được từ cuộc đàm đạo nọ, là cơ hội để bần đạo cảm nghiệm nhiều điều. Bởi có cảm nghiệm, nên mới cả gan nghêu ngao hát tiếp giòng nhạc trên, lại viết thêm:

“Ơn em tình những mù lòa,
Như con sâu nhỏ bò qua giấc vùi.
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi,
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Hát câu “tạ ơn em, tạ ơn em” xong, bần đạo liền hồi âm cho chị bạn tên Thị Thảo họ Nguyễn từng có lời bộc bạch đơn thuần, mà bần đạo vẫn cứ coi mọi sự như “ơn em” từ trời đem đến, nên mới viết:
            “Chị Thảo thân,
Cảm ơn chị đã có đôi lời bộc bạch về bài viết của tôi trong tập sách “Chuyện Phiếm Đạo Đời” số 6. Thật ra thì, khi viết những chuyện lăng nhăng rất “phiếm” như thế, tôi đều viết theo tính cách thông tin, chuyển tải đến bà con nào biết khá ít về phụng vụ, giáo luật, giáo sử cũng như luân lý đạo đức, vv. Nói chung, là những điều mà người Đạo mình đã quên hoặc chưa biết…

Ở đây nữa, giòng chảy thông tin hoặc vận chuyển tư tưởng không mang tính cách của một giải đáp thắc mắc cho ai, mà chỉ cùng nhau tạo cảm thông cốt giữ gìn tình thân thương trong Hội thánh, thôi. Điều quan trọng, là: tình thân thương/thông cảm cần có giữa người cùng Đạo chứ tuyệt nhiên không là giải đáp luật Hội thánh, có từ ngàn năm. Chị thông cảm cho mình nhé.” (hồi đáp của người viết để đả thông tình thân huynh đệ trong Giáo hội)

            Hồi âm hay phản hồi, bần đạo chỉ muốn “trần tình” với bầu bạn thêm một lần rồi thôi. Trần tình rồi, nay lại đến với đấng bậc tầm cỡ thày dạy trong Đạo thuộc nhóm/hội được gọi là Công Trình của Chúa để hiểu thêm về “ơn mưa móc” rất huệ/lộc cho mình như sau:

“Như lần trước, tôi có đề cập đế cập ở mục “hỏi/đáp” trên báo này, tờ tuần Công giáo Sydney về Ân lộc Chúa ban gồm hai sắc thái: ơn thánh-hoá và các ân huệ đích thực. Về ơn thánh-hoá, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo có đoạn nói: “Ơn thánh-hoá khác với ân lộc lành thánh là ơn và huệ vốn dĩ qui về sự can thiệp của Chúa hoặc ngay từ đầu hoặc vẫn cứ xảy đến trong tiến trình thánh-hoá.” (x. GLHTCG đoạn 2000)
Trong lúc ơn thánh-hoá nằm lại ổn yên nơi tâm hồn con người, thì ân lộc lành thánh lại tiếp tục chuyển giao mọi trợ giúp Chúa ban hầu kéo ta về gần Chúa. Cũng thế, trong khi ơn thánh-hoá tự nó khiến cho ta nên thánh, thì ân huệ lành thánh lại dẫn ta đến với Chúa để ta lại nhận thêm ơn thánh-hoá mà trở thành thánh-nhân.
Qua ân-huệ lành thánh, Chúa giúp ta hiểu được sự thật dẫn đưa ta về với Ngài và hành xử sao cho phù hợp với sự thật ấy. Vì thế, ân lộc lành thánh hành xử cả trong tâm thức lẫn ý lực. Thánh Âu Tinh từng bảo rằng ân lộc lành thánh ấy tạo nên “không chỉ mỗi điều là ta khám phá ra được những gì phải làm mà cả đến việc phải làm những gì mình khám phá ra nữa; không chỉ những gì ta tin rằng mình đã được yêu mến mà còn phải yêu mến những gì mình tin nữa.” (x. Sách viết về Ơn Thánh Chúa, chương 12)
Ân huệ Chúa ban, đến với mọi người. Thế nhưng ta vẫn có quyền tự do ứng đáp lại ân huệ ấy hay không. Cũng tựa như trời mưa tuôn đổ thật nhiều nước uống cho trái đất và nhờ đó tặng ban sự sống cho mọi loài, nhưng con người vẫn có tự do làm máng hứng hay làm mái chặn cho khỏi ướt đầu từ chối mọi lợi lộc từ giòng chảy đó. Chính đây là sự tương tác bí nhiệm giữa ân lộc và tự do của con người, trước ân và lộc đó.
Khi con người đáp ứng với ân lộc Chúa ban rồi từ đó thực hiện ý định của Chúa, họ sẽ tăng trưởng sự lành thánh và tồn trữ ân và lộc đó trong phần sâu thẳm đáng giá của họ trên thiên quốc. Còn nếu họ ngoảnh mặt làm ngơ như người điếc lác thì họ sẽ để mất cơ hội bằng vàng và có thể lại càng xúc phạm đến Chúa qua tội lỗi.” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 24/6/2012 tr. 11)        

            Nói như đấng bậc thày dạy về đạo đức, cũng là nói như thánh nhân khi xưa vẫn từng bảo:

                        Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.
Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy,
sẽ dùng bữa với người ấy,
và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.”
(Kh 3: 20)

            Nói theo nghệ sĩ ngoài đời, bằng giòng nhạc, lại nói khác. Có khác lắm, chỉ như sau:

                        “Ơn em ngực ngải môi trầm
Cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan.
Ơn em hơi thoảng chỗ nằm
Dấu quanh dấu quẩn nỗi buồn một nơị
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng –bdd)

            Thật ra, khi người nghệ sĩ viết lên giòng nhạc “Ơn Em” trên, ông nói không khác nhà Đạo. Bởi thế nên, trong lần ghé bến Sydney năm 2012 gặp đồng hương từng nguyện cầu cho ông “tai qua nạn khỏi” cơn bạo bệnh, để nhận lãnh ân lộc Trời ban. Kết quả là, ông đã qua được cơn bệnh hiểm nghèo đến chết được, để rồi hôm ấy ông lại hát thêm nhạc bản chép ở trên, chứng tỏ ông cũng được “Ơn Em” tuyệt vời ấy, Nên, giòng nhạc những ân và lộc đó, vẫn cứ chảy trong lòng người, như:

                        “Ơn em, dáng mỏng mưa vời,
                        Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.
                        Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
                        (Từ Công Phụng – bđd)

            Không cần biết, ai đó một khi đã qua được cơn khó, có ngồi lại nói lời “Tạ ơn Em” hay không. Cũng không cần bảo, và cắt nghĩa cho người người hiểu thế nào là ân là lộc. Tưởng, cũng nên nghe thêm đấng bậc tầm cỡ thày dạy, lại nói thêm về ân và lộc, rất như sau:

“Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo lại cũng có chương/đoạn nói thêm về các loại ân lộc lành thánh khác, như: ơn nhận lãnh bí tích, ân lộc theo tình trạng được ơn làm đẹp lòng Chúa và ơn đặc sủng Chúa riêng ban.
Về ơn huệ đầu, ta được biết là mọi bí tích đều dẫn về ơn thánh-hoá tức ta được phép san sẻ sự sống với Chúa. Đồng thời còn được Chúa phú ban ơn đặc biệt nhận lãnh các bí tích. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo mô tả ơn nhận lãnh bí tích như “quà tặng đích thực cho mỗi bí tích Chúa ban ơn.” (x. GLHTCG đoạn 2003)
 Thánh Tôma Akinô trong cuốn Tổng Luận Thần Học có viết: Các phép Bí tích Chúa ban là để thêm vào với ơn thánh-hoá, sự trợ giúp thánh thiêng nào đó để ta đạt đến mục tiêu của bí tích lành thánh” (x. Tổng Luận Thần Học quyển 62) mà thánh nhân gọi đó là ơn nhận lãnh bí tích.
Vì thế nên, ơn nhận lãnh bí tích là ơn đặc biệt cho mỗi bí tích gia dĩ giúp mọi người đạt mục đích của mỗi bí tích. Có thể coi đó như sự hướng dẫn cuộc sống siêu nhiên của mỗi người về với mục đích của bí tích ấy. Ơn nhận lãnh bí tích chuyển đến cho ta sự trợ giúp từ Đức Chúa mà con người cần có để thực thi bổn phận và quyền lợi có được từ mỗi bí tích.
Cộng thêm vào với ơn nhận lãnh bí tích, là tình trạng của ơn lành làm đẹp lòng Chúa. Bằng ngôn từ này, Hội thánh muốn ám chỉ ơn lành đặc biệt Chúa phú ban cho con người khi ở vào tình trạng nào đó trong đời ngõ hầu giúp họ thực thi các bổn phận của mình trong tình trạng đó. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có nói rằng: các ân lộc này “đi theo với việc thực thi mọi trách nhiệm trong đời tín hữu Công giáo và các tác vụ trong Hội thánh Chúa.” (x. GLHTCG đoạn 2004)
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo cũng trích dẫn lời thánh Phaolô tồng đồ vẫn từng bảo:
Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.” (Rm 12: 6-8)

Xem như thế, thì các vị như nhà giáo, hiệu trưởng của các trường, những vị hiến thân phục vụ người nghèo, Bề trên các Dòng tu, linh hướng, cha mẹ con trẻ, vv. đều cần đến ân lộc đặc biệt để giúp họ hoàn thành bổn phận và công tác trong tình trạng sống của chính mình.
Cuối cùng thì, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo lại cũng viết: “ân lộc đặc biệt còn gọi là “đặc sủng”, tức ngôn từ bên tiếng Hy Lạp được thánh Phaolô sử dụng mang ý nghĩa của một “đặc ân”, thứ quà tặng “nhưng-không”, “lợi lộc”. Và, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo coi “đặc sủng” ấy như quà tặng lạ lùng mà người nào đó có được nhờ miệng lưỡi là còn bảo: tất cả mọi ơn lành “đặc sủng” đều hướng về ơn lành thánh-hoá được tặng ban vì ích chung của Hội thánh” (x. GLHTCG đoạn 2003).
Ngoài ra, còn nhiều đặc sủng khác dễ thấy hơn, đó là: đặc ân trong giảng dạy, lòng độ lượng cho người nghèo, vv… Tắt một lời, tất cả là quà tặng từ Chúa để con người tự thánh hoá bản thân, chứ không phải để mình cao ngạo, tự mãn. (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 01/7/12 tr. 12)

            Đích thực là như thế. Như thế, có nghĩa là bần đạo đây đồng ý với đấng bậc thày dạy để bảo rằng: ân lộc vẫn là và còn là “ơn em thơ dại từ Trời”, thứ quà tặng Trời ban rất “nhưng-không” để người nhận biết mà “tạ ơn Em”, tạ ơn Người, trong đời.
            Để minh hoạ cho cuộc đời có khá nhiều quà tặng từ Người và từ Trời, xin đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta đọc thêm một truyện kể để thư giãn và từ đó biết “tạ ơn (người) Em” của bạn và của tôi, như sau:

“Cô gái nọ còn trẻ, vừa dời nhà đến khu vực khá mới. Vừa đến nơi, cô đã phát hiện ra bà hàng xóm nhà mình là một phụ nữ goá chồng, cũng nghèo, lại sống với hai đứa con nhỏ.
Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ bèn lục ngăn kéo bàn lấy nến ra thắp sáng căn phòng. Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé nghèo con bà hàng xóm.
Nó hồi hộp hỏi:
-Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?
Cô gái trẻ nghĩ: “Nhà nó nghèo đến nỗi nến cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau nó lại sang xin nữa cho mà xem!" Nghĩ thế rồi cô xẵng giọng lạnh lùng nói:
-Không có!"
Cô định đóng cửa lại thì đứa bé nghèo hàng xóm bèn mỉm cười nói:
-Cháu biết ngay là nhà cô không có nến mà!"
Nói xong, nó chìa hai cây nến ra và nói:
-Mẹ cháu với cháu sợ cô sống có một mình, đã cúp điện lại không có nến, nên bảo cháu mang nến sang cho cô dùng tạm nè"
Cô gái sững sờ không nói được một lời “tạ ơn” trước cử chỉ quá đẹp của đứa bé…”

Truyện kể đơn giản là thế. Nhưng ở đây, lại có thêm lời bàn của người kể, như sau: “Sống trong đời, đôi lúc ta cũng có những cảm nghiệm hệt như thế. Con người, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có thế nào đi nữa, họ vẫn cần sự quan tâm, an ủi từ ai đó. Bởi thế nên, cũng đừng bận tâm chuyện vị kỷ chỉ bo bo lo cho mình mà thôi, nhưng hãy lắng nghe âm thanh vang vọng của cuộc sống. Cuộc sống của ta sẽ không trở nên tồi tệ, nhưng ngược lại nó sẽ đẹp biết chừng nào khi ta nghĩ đến người khác mà cho đi. Cho đi chứ không đòi hỏi điều gì, dù chỉ một lời tạ ơn. Vì khi cho, tức mình đã nhận được thứ gì đó rồi. Có thể là ơn trời. Ơn người, cũng tốt thôi!
Nếu là ca sĩ hay người viết nhạc, hẳn bần đạo cũng lại hát lên lời ca đầy ý nhị như sau:

Ơn em tình những mù lòa,
Như con sâu nhỏ bò qua giấc vùi.
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi,
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Hát thế rồi, bần đạo nay lại nghĩ thêm: cuộc đời mình cũng chả “ra làm sao cả”. Và, chỉ “ra thế nào” khi tôi và bạn, ta biết hành xử như em bé trong truyển kể ở trên để minh hoạ cho lời “tạ ơn Em”. Hoặc như người kể truyện chỉ muốn nhắn bảo bạn và bảo tôi rằng: dù tư tưởng của tôi và của bạn hoặc ý nghĩ của ai đó dù “chả ra làm sao cả”, cũng vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn người, “tạ ơn Em” vì chính Em mới là người từng nhắc nhở bày tôi đây là người dù viết nhiều nhưng vẫn biết và vẫn vui lòng chấp nhận rằng chuyện phiếm của mình có thể cũng “chả ra làm sao” hết.
            Và dù thế, vẫn cứ xin tạ ơn người, “tạ ơn Em”, tạ ơn bầu bạn. Vì “Em” và bầu bạn là người đã cho tôi biết điều đó, nên rất mừng.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Từng biết mình “chả ra làm sao cả”
            nhưng vẫn cứ xin phiếm lai rai, phiếm dài dài
để còn hát bài “ơn em thơ dại từ trời”, cũng rất “phiếm”

Friday 17 August 2012

“Tôi xin người cứ gian dối,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 21 thường niên năm B 26.8.2012
“Tôi xin người cứ gian dối,”
“cho tôi tưởng người cũng yêu tôi.
May ra còn thấy đời vui,
Khi cơn mưa mùa đông đang đến.
Xin giã từ ngày tháng rong chơi.”
(Phạm Duy Quang – Kiếp Đam Mê)
(Mc 6: 34)      
            Hát những lời năn nỉ, ỉ ôi rồi bảo “xin người cứ gian dối”, để “người cũng yêu tôi”, mà lại đặt đầu đề rất ư là “Kiếp Đam Mê”, kể cũng lạ. Lạ hơn nữa, là: người viết nhạc kỳ này lại muốn chuyển đến người yêu cũ tên là Julie, cũng rất Quang, đôi lời nhắn nhủ để kể thêm:

                        “Đôi tay này vẫn chờ mong.
                        Con tim này, dù lắm long đong.
                        Tôi yêu người, bằng nỗi nghiệt oan.
                        Không than van và không trách oán,
                        Cho tôi trọn một kiếp đam mê.”
                        (Phạm Duy Quang – bđd)

            À thì ra, “cho tôi trọn một kiếp đam mê”, lại cũng là niềm mê man “yêu người bằng nỗi nghiệt oan”, “không than van và không trách oán.” Quả thật, mỗi tiếng và mỗi lời của người viết đều nói lên tâm trạng của “Kiếp Đam Mê”, cũng rất “người”. Ấy đó, là chuyện đời. Nơi âm nhạc, nghệ thuật đầy thi ca chữ nghĩa nói về đời người và kiếp người rất “đam mê”.
            Thế còn ý/lời nhà Đạo về đời người đi Đạo, cũng đam mê chứ?
            Trả lời vấn nạn này, có lẽ ta cũng nên dành cho đấng bậc vị vọng ở đâu đó, chốn “thiền môn” cung kính, rất tư duy. Ở đây, hôm nay, bần đạo chỉ dám mời bạn và tôi, ta đi vào tản mạn, lạm bàn đầy chất phiếm, để rồi lại sẽ “loanh quanh, một chốn rong chơi” như tác giả ở vẫn cứ nói: “May ra, còn thấy đời vui!”, nhất là vào lúc có “cơn mưa mùa Đông đang đến.” Nếu đồng ý, thì bầy tôi đây xin mạn phép được phiếm sương sương đôi hàng suy tư về lập trường sống, chỉ có thế.
            Phiếm Đạo ở đời thường, có cả một đời đi Đạo rất xục xạo chuyện đời phàm tục ở nhiều chốn? Những chốn và những nơi, như ở “miệt dưới” đất miền Úc Châu vừa có đôi ba sự việc xảy đến rất nổi cộm. Sự việc xảy đến, là những sự khá “rách việc” nên bần đạo xin ngồi xuống đây kể ra ba điều bốn chuyện về người nhà Đạo từng quyết tu thân đắc đạo là thế mà sao vẫn “loanh quanh một chốn rong chơi” chốn chợ đời, thật khó dứt!
Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật và nói huỵch toẹt với bạn bè/người thân là: vừa qua, bần đạo được yêu cầu góp ý về một chuyện có liên quan đến “đấng bậc” mục tử nổi cộm trên truyền hình Úc từng thề sống thề chết quyết sống đời độc thân tu trì, mà vẫn chưa chịu “giã từ ngày tháng rong chơi”, bằng một hỏi/đáp rất “bỏ túi” về “Tu hành và đời sống độc thân”, như sau:

“-Phóng viên Vũ Nhuận hỏi Mai Tá: Trong tinh thần cảm thông với cộng đồng Công giáo Úc về sự kiện mà giới truyền thông ở đây gọi là vụ “Linh mục F.”, xin hỏi anh xem anh có ý kiến gì về chuyện “tu hành và đời sống độc thân” không?
-Mai Tá ứng khẩu đáp: “Dạ, đây là đề tài khá quan trọng cần nhiều thời gian và giấy bút mới nói hết được. Nhưng hôm nay, bản thân tôi chỉ xin đóng góp một ý kiến nhỏ theo quan niệm và ngôn ngữ của người Việt về vấn đề tu hành và đời sống độc thân, thôi. Về từ ngữ, thì chữ “tu hành” tự nó cho thấy lập trường của một số người lâu nay quan niệm: “Tu là cội phúc, tình là giây oan”. Thành thử, chữ “tu” hay “tu hành” ở đây, theo định nghĩa, là lối sống có qui định theo tinh thần và đạo lý của tôn giáo mình đi theo.
Bản thân, tôi cũng như một số vị trong đạo Công giáo thì: việc dấn bước theo chân Chúa quyết áp dụng Lời Ngài trong cuộc sống, vẫn hiểu chữ “tu hành” là rời bỏ cuộc sống bình thường ở đời, để sống theo cung cách khác biệt do Đạo mình đặt ra. Mà, Đạo Công Giáo ở thế kỷ đầu, Giáo hội không buộc người dấn bước theo chân Chúa phải “tu đắc đạo”, sống đời độc thân, rất khiết tịnh. Lúc đầu thì như thế, nhưng từ thế kỷ thứ tư trở đi, Giáo hội Công giáo đã đề ra một số luật lệ hoặc nội-qui hầu giúp những người quyết phục vụ Giáo hội theo cung cách khác với đời thường.
Từ đó đến nay, những người bước theo chân Chúa, đặc biệt là người Công Giáo, đã qui định là: ai chọn sống đời tu trì phục vụ Hội thánh Chúa, đương nhiên phải ở độc thân/khiết tịnh, không màng thú vui xác thịt với bất cứ ai, dù người ấy là người khác phái hay cùng giới tính.
Qui định của Giáo hội Công giáo là như thế. Thế nghĩa là, với Giáo hội Công giáo, không có chuyện gọi “tu tại gia” như cư sĩ các đạo giáo khác tuy đã có vợ hoặc chồng, nhưng vẫn muốn hoạt động phục vụ giáo hội mình bằng sinh hoạt đạo đức khác biệt. Riêng với Giáo hội Công giáo, thì: khi đã chọn sống đời tu rồi, thì không thể sống đời vợ chồng, và cũng không còn ham muốn lạc thú xác thịt nữa, nhưng quyết hiến trọn đời cho Chúa, mà thôi. Và, chức linh mục là thiên chức kéo dài suốt trọn kiếp, nên khi người nào đó không còn muốn tiếp tục thiên chức ấy nữa, sẽ phải xin bề trên cho phép mới được miễn chuẩn.  Tuy nhiên, thời buổi này, lại thấy xảy ra vài ba sự kiện có liên quan đến một số vị từng quyết sống đời tu trì rồi nhưng cùng lúc, lại có hai cuộc sống đối chọi nhau, tức vừa tu trì vừa ham muốn chung đụng thể xác với người khác. Có trường hợp, vị ấy lại dám sống cả hai hình thức nói ở trên một cách công khai như trường hợp của linh mục Kevin Lee thuộc giáo phận Parramatta, New South Wales Úc Châu. Hoặc, trường hợp của một linh mục ở Việt Nam xưa kia nổi tiếng với tên gọi là “linh mục hốt rác” tức lm Phan Khắc Từ vẫn cứ thong dong sống một trật, hai nếp sống rất đối chọi, bất cần đời. Sự kiện xảy ra ở giáo phận Parramatta hôm trước, nay đã có giải quyết là lm Kevin Lee đã bị ngưng chức. Còn mục tử họ Phan vẫn công khai sống hai cuộc sống song hành, chẳng kể gì luật Đạo.
Còn, hỏi rằng: trong tương lai, Giáo hội Công giáo có nên và có thể sẽ xét lại luật độc thân/thanh khiết cho giới tu hành không, thì câu trả lời dễ nhất là: bạn cứ chờ, mọi việc rồi sẽ thấy.
Giả như câu trả lời là có, thì theo thiển ý cụm từ “tu hành” sẽ phải được sửa lại thành: linh mục và cuộc sống có chọn lựa. Nghĩa là: lúc đó, bạn có thể lựa chọn hoặc đời độc thân kiểu một mình một chợ, không còn ham muốn thể xác nữa; hoặc, chọn đời sống vợ chồng theo kiểu của các cư sĩ “tu tại gia” hoặc mục sư Tin Lành, cũng tốt thôi.
Tôi nghĩ câu trả lời ở đây sẽ không thoả mãn hết mọi người. Nên, vẫn mong đó chỉ là đôi ba ý tưởng rất cỏn con để lại mời quý vị tiếp tục nghiên cứu và bàn luận kỹ hơn thêm.”

            Nói tóm lại, trên đây chỉ là ý kiến cá nhân, riêng lẻ của một người đi Đạo và giữ Đạo. Nói như thế có nghĩa: người khác cũng có ý kiến khác biệt, như ý/lời của người viết nhạc, từng hát lên ca-từ như:

            “Ôi, tôi ước mơ em bỏ cuộc vui,
            Trở về căn phòng này đơn côi.
            Môi em ru nỗi đau tuyệt vời,
            Khi màn đêm phủ lứa đôi,
            Là thời gian cũng ngừng trôi.”
            (Duy Quang – bđd)

            Ý/lời người nghệ sĩ thì như thế. Như thế, tức như thể bảo rằng: em hãy “bỏ cuộc vui” ở đời, để về với thương đau “oan nghiệt”, bởi “màn đêm (đang) phủ xuống”, và “thời gian cũng ngừng trôi”. Ngừng trôi hay vẫn chảy, thì cuộc đời rồi vẫn thế. Ở đây, lại có ý kiến của đấng bậc chủ quản đã tỏ bày lập trường rất khác, nhưng chính mạch về những sự và những việc hệ-trọng rất công khai, cả về chuyện xâm phạm tiết hạnh của trẻ em, nhân có sự kiện gọi là vụ “Linh mục F.” như sau:

                        “Anh chị em giáo dân thân mến của tôi,
            Bài đọc hôm nay mở đầu bằng một lời chúc dữ phát ra từ miệng ngôn sứ Giêrêmia qua câu nói: “Khốn cho những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác – sấm ngôn của Đức Chúa nói như thế.” (Gr 23: 1). Đây là lời thách thức gửi đến người nghe ở mọi thời, nhưng trong bối cảnh hiện tại của giáo phận ta, lời đó còn vang vọng vẫn khá mạnh quanh nguyện đường giáo xứ thuộc giáo phận ta nữa.
            Chúng ta đang bị thách thức đến kinh động khi nghe biết chuyện của “Linh mục F.” được phơi bầy trên truyền hình mục “Four Corners” của đài truyền hình ABC Úc Châu, cũng mới đây. Chuyện này đưa đến kết quả, là chúng dân ngoài Đạo đã chú ý nhiều đến hành xử của linh mục tên “F.” này, trong lúc ngài phục vụ Hội thánh tại giáo phận trước, tức giáo phận Armidale, tiểu bang New South Wales và cả giáo phận Parramatta của chúng ta nữa. Và chúng dân hiện nay đang theo dõi xem Hội thánh Chúa hành xử thế nào về các cáo buộc đặt ra cho vị linh mục này. Điều này lại khuấy động ngọn lửa công khai lên án hành vi xách nhiễu tình dục của các giáo sĩ của chúng ta và đã chỉ trích cả chúng ta nữa về đường lối đôi lúc cũng sơ xuất khi giải quyết.
            Hôm nay, tôi muốn một lần nữa nói rõ lập trường của tôi về vấn đề này. Mọi xách nhiễu tình dục trong/ngoài Hội thánh đều là lỗi phạm rất nặng trước mặt Thiên Chúa. Đó là tội ác cần lên án bằng từ ngữ mạnh mẽ như thế mới phải. Thật ra, tôi biết rất rõ về những tai hại từng gây ra cho nạn nhân là điều không thể toan tính và chỉnh sửa được. Xâm phạm tiết dục trẻ bé phải loại trừ ngay khỏi Giáo Hội của ta và ta phải làm mọi việc khả dĩ có thể làm được ngõ hầu đem công lý và sự chữa lành đến với nạn nhân trong cuộc.
            Rồi ra, anh chị em cũng sẽ nghe biết là Đức Giám mục Michael Kennedy, giáo phận Armidale và tôi đã quyết định cùng nhau đề ra một ủy ban độc lập để điều tra/xem xét sự việc vừa xảy đến khiến quần chúng chú tâm cũng khá nhiều. Chúng tôi đã đề cử một luật sư lỗi lạc, trước đây từng làm Chánh thẩm toà án Liên Bang, đó là Ls Antony Whitlam, QC để xem xét vụ việc này. Chúng tôi quyết một lòng, là: công lý phải được thiết lập trong vụ này. Nhiều năm qua, Giáo Phận Parramatta từng vui hưởng quan hệ chặt chẽ với Cảnh Sát và Giám-sát-viện tiểu bang NSW là các cơ quan mà chúng ta đánh giá rất cao. Vào thời điểm nóng bỏng này, chúng ta nguyện sẽ hợp tác với Cảnh sát để đảm bảo rằng bất cứ hành vi nào mang tính tội ác phải được điều tra và nghiêm trị thật đích đáng.                    
            Đây cũng là lúc để người Công giáo chúng ta tìm đến với linh hồn mình. Tôi vẫn cầu nguyện để vết thương thâm sâu trong Thân Mình Đức Kitô được chữa lành đến tận gốc, ngay bây giờ và mãi mãi về sau. Tôi kêu mời tất cả anh chị em giáo dân trong địa phận của chúng ta hãy nguyện cầu và tự đề ra cho mình lòng cải hối rất quyết tâm để Hội thánh Chúa được tẩy sạch khỏi vụ việc và lỗi phạm này; và chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho nạn nhân của những hành xử sai trái nghiêm trọng đó (xem Thư Mục vụ của Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI gửi cộng đồng Công giáo Ái Nhĩ Lan hôm 19/3/2012, số 2)
            Anh chị em thân mến,
Tôi thật sự thúc giục anh chị em hãy yêu thương và nâng đỡ các linh mục của chúng ta, và số đông các vị đã tận hiến, trung thành với sứ vụ mục tử của các ngài và không để các tổ chức liên kết với thủ phạm tội ác nói trên quyết bôi nhọ thanh danh các vị đó. Các linh mục của chúng ta cần đến lời nguyện cầu và sự nâng đỡ của anh chị em lúc này, hơn bao giờ hết.
Bài đọc đầu lễ hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia có mơ về đàn miêu duệ con cháu của vua Davít sẽ là Mục Tử Nhân Hiền quyết chăn dắt chúng ta. Ngôn sứ Giêrêmia cũng hứa rằng Giavê Thiên Chúa sẽ làm nảy sinh nhiều kẻ chăn khác đưa đàn chiên mình về với tâm can của Chúa Chiên Lành, và các vị chủ chăn cũng sẽ chăm sóc ta thật kỹ lưỡng để rồi sẽ không còn chiên con nào đâm hãi sợ. Chắc chắn như thế, bởi vì theo Tin Mừng thánh Mác-cô viết, ta đã thấy Chúa Chiên Hiền Lành là Đức Kitô vẫn tỏ lòng xót thương đàn con của Ngài như “đàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Là gương mẫu cho tông đồ Ngài, Chúa cũng là mẫu gương cho tất cả mọi mục tử đích thực. Nên, hôm nay, chúng ta hãy về với Ngài mà nguyện cầu. Riêng phần tôi, tôi cũng sẽ nguyện cầu cho anh chị em trong giai đoạn khó khăn này, để chúng ta có thể gắn kết với nhau chặt chẽ hơn để xứng đáng sống trong Thân Mình Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Trân trọng chào kính anh chị em trong Chúa Chiên Hiền Lành.
Gm Anthony Fisher, OP
Chủ quản giáo phận Parramatta.”

            Và thêm một thư luân lưu cũng tương tự, nhưng lần này là từ đấng chủ quản giáo phận Armidale:

                                    “Anh chị em thân mến,
Mấy tuần qua, Hội thánh ta và giáo phận Armidale đã tiếp cận nhiều cáo buộc mang tính lịch sử về chuyện xâm phạm tiết hạnh trẻ em, khiến ngành truyền thông đại chúng chú tâm đến cũng rất nhiều. Tôi biết rõ sự việc này là nguồn mạch mọi khổ đau và là cơn phẫn nộ chính đáng đối với anh chị em, như nó từng xảy đến với riêng tôi.
           Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ rằng: mọi khổ đau, buồn sầu và phẫn nộ của ta chẳng là gì so với nỗi buồn phiền xót xa của nạn nhân từng bị xúc phạm và cả gia đình họ nữa. Tôi xin gửi đến các vị ấy niềm cảm thông sâu sắc và xin sẻ san với cộng đoàn sự khiếp đảm về hành vi xúc phạm tiết hạnh trẻ em và ước ao được thấy công lý trở lại với xã hội chúng ta. Tôi hy vọng là một cơ quan độc lập để tái xét do tôi thiết lập, sẽ chứng tỏ quyết tâm có được thành quả của công lý.
            Trước đây, khi chủ toạ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sydney năm 2008, Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI cũng đã đề cập đến vấn đề xâm phạm tiết hạnh trẻ em. Nay tôi lập lại lời ngài nói ra đây, để nói lên tâm tư của tôi hiện đang có vào lúc này:

“Hôm nay, ở đây, tôi muốn dừng lại để xác nhận nỗi niềm xấu hổ mà chúng ta đã có coi đó như kết quả của hành vi xâm phạm tình dục ở lớp trẻ do một số linh mục và tu sĩ ở nước này, vi phạm. Thật sự, là tôi cảm thương sâu sắc với các nạn nhân trong cuộc từng đau khổ chịu đựng nhiều năm và tôi cam đoan với các vị này rằng, bằng vào tư cách mục tử chủ quan, tôi xin sẻ san nỗi khổ đau của các vị đó. Hành vi sai trái một cách nghiêm trọng này đã phản bội niềm tin, rõ ràng đáng bị ta lên án. Bởi, nó tạo nên một đớn đau rất lớn làm tổn hại đến Hội thánh trong công cuộc làm chứng tá cho Chúa. Tôi yêu cầu tất cả anh chị em hãy cùng tôi nâng đỡ các giám mục của ta và cùng hợp lực với nhau mà chống trả sự quái ác này. Các nạn nhân của hành vi quái ác này phải được sự thương xót và chăm sóc cho thoả đáng; và những ai chịu trách nhiệm về hành xử ác độc này phải được đem ra trước công lý. Đây là ưu tiên khẩn cấp ngõ hầu thăng tiến môi trường an toàn đặc biệt cho lớp trẻ của chúng ta.”

“Hôm nay đây, tôi mời tất cả anh chị em hãy cùng chúng tôi với tư cách là cộng đoàn Hội thánh hãy biết:
1.      Nhận thức và xác nhận sự thật lịch sử về các vụ xâm phạm tiết hạnh trẻ em trong Giáo hội.
2.      Hành động để giúp đỡ các nạn nhân bị xúc phạm và những người chịu ảnh hưởng từ các vụ xúc phạm này.
3.      Hợp tác với giới chức có thẩm quyền ngõ hầu điều tra những cáo buộc về các  vụ xúc phạm như thế.
4.      Duy trì chương trình bảo vệ trẻ em để gia tăng an toàn tối đa và tạo niềm vui sống cho con cháu của chúng ta.
5.      Khuyến khích và hỗ trợ các linh mục trong giáo xứ từng thấy xấu hổ cách thâm sâu về các lỗi phạm cũng như tội ác của những người đồng môn với các ngài.
6.      Hãy thiết tha đeo đuổi sự thật và công lý.    

Một lần nữa, xin hãy cùng với tôi nguyện cầu cho nạn nhân các vụ xâm phạm tiết hạnh trẻ em; cầu mong cho các em có được công lý, được chữa lành và bình an. Cầu mong cho tai hoạ đáng gờm tởm này mãi mãi được rỡ khỏi lớp bụi bám quanh ta. Xin hãy cùng tôi đảm bảo rằng đây là vụ việc có thật.” (xem Christ, the Model for all true pastors, The Catholic Weekly 29/7/12 tr. 14)

            Một lần nữa, trích dẫn lời lẽ trên đây, cũng chỉ để hợp giọng mà nói lên rằng: đau khổ nào cũng là khổ đau. Sai phạm nào cũng là hành vi cần xác chứng để không còn ai tái phạm và nhất là không còn ai làm nhơ ố thanh danh của các vị mục tử khác cần sự trong sáng, kính phục. Trích dẫn lời lẽ trên, còn để cùng với người hỏi và đấng bậc giải đáp những vụ/việc gây ưu tư/trăn trở, rất quanh mình.
            Trích và dẫn, để cùng người nghệ sĩ ở trên nói lên tâm tình cần biết đến qua câu hát:

            “Thương yêu này, người hãy nhận lấy
            Ôm tôi đi, môi hôn tràn đầy.
            Trong tay người, hồn sẽ cuồng say
            Bao nỗi khó vụt bay…”
            (Duy Quang – bđd)

            Bao nỗi khó có vụt bay hay không, khi nạn nhân của những chuyện buồn tình, nay đã trút hết. Nỗi khó của người và của mình có còn day dứt nữa không, khi mọi người nay cùng nhau hiệp lực mà đỡ nâng. Đỡ và nâng trong hiệp lực, để rồi vết hằn đầy thương đau sẽ tan dần với thời gian. Trong quên lãng. Bởi, con người là nhân vật rất dễ nhớ, lại cũng hay quên. Quên, để còn tha thứ, rồi yêu thương cả những người từng lầm lỡ, giết chết hồn mình. Trong thương đau.
            Trong tình tự có đau và có thương, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào truyện kể nhè nhẹ để tìm về với lãng quên, tha thứ và yêu đương. Yêu, những người rất đáng thương cần âu yếm. Truyện kể, là truyện để kể về tình tự vẫn có lâu nay, như sau:

Một hôm, tôi dậy sớm xem hừng đông ló dạng. Ôi, công trình Thiên Chúa đẹp không bút nào tả nổi. Mắt ngắm nhìn, tôi ngợi khen Thiên Chúa vì kỳ công của Người. Tôi ngồi đấy, và thấy rằng Chúa đang hiện diện.             Người hỏi tôi:
-Con có yêu mến Ta không?
Tôi đáp lại:
-Lẽ tất nhiên, Lạy Chúa! Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ con.
Và Người hỏi:
-Nếu con mang khuyết tật, con có còn mến ta nữa hay không?
Tôi ngỡ ngàng một lúc, bèn nhìn xuống tay chân và toàn bộ hình hài ở nơi mình rồi nghĩ rằng có biết bao điều tôi sẽ không làm được, nhưng những điều tôi thấy vẫn đương nhiên. Và tôi trả lời:
-Hẳn là sẽ khó, Lạy Chúa, nhưng con vẫn yêu Chúa.
Rồi Người lại hỏi:
-Nếu con mù, con vẫn còn yêu tạo vật của Ta chứ?
Làm sao yêu một điều mình không thấy?
Và tôi nghĩ đến biết bao nhiêu người mù loà trên thế giới, biết bao người giống như họ vẫn cứ yêu thương Thiên Chúa và tạo vật của Ngài. Thế nên, tôi bèn đáp:
-Nghĩ đến đó thật đau lòng, nhưng con vẫn yêu Ngài.
            Rồi Người tiếp tục hỏi:
-Nếu con điếc, con có còn lắng nghe Lời Ta không?
Làm sao nghe biết được điều gì nếu tai mình điếc?
Tôi chợt hiểu rằng: Nghe Lời Chúa không chỉ bằng đôi tai, mà bằng cả tấm lòng nữa. Tôi bèn đáp:
-Cũng thật khó, nhưng con vẫn yêu mến Lời Ngài.
            Và rồi Người lại hỏi:
-Nếu con câm, con có còn ca tụng Danh Ta nữa hay không?
Làm sao ca hát được khi mình không thể cất nên lời?
Nhưng tôi nhận ra rằng: Chúa muốn ta ca vang từ tâm can và đáy lòng. Tiếng hát của ta có thế nào cũng vẫn là tiếng hát ca. Và ngợi khen Chúa không chỉ là hát ca, nhưng bằng cả những tháng ngày gian nan khổ ải, ta vẫn ngợi ca Thiên Chúa bằng cách cảm tạ Người. Vì thế tôi nói:
-Dù con không thể hát được nữa, con vẫn sẽ chúc tụng ngợi ca Ngài
Tôi nghĩ mình trả lời cũng đã hay, nhưng.. Thiên Chúa Ngài vẫn cứ hỏi:
-Thế thì tại sao con vẫn cứ phạm tội?
Tôi bèn trả lời:
-Chỉ vì con mang thân phận làm người. Con chưa thể nào trọn lành đủ.
-Thế sao khi yên ổn rồi con lại xa Ta là thế? Sao, lúc nguy nan con mới nguyện cầu rất thật lòng? Tôi câm nín, chỉ còn biết khóc. Chúa lại tiếp tục gạn hỏi:
-Sao con chỉ hát với cộng đoàn vào buổi tịnh tâm thôi? Sao, chỉ kiếm tìm Ta khi con vào chốn phụng thờ? Sao con cứ cầu xin biết bao nhiêu thứ chỉ cho mình? Sao, con cầu mà thiếu xác tín?
Lệ trào chảy xuống trên má tôi, khi nghe hỏi: “Sao con lại xấu hổ về Ta? Sao, không ra đi mà rao giảng Tin Mừng? Sao lúc gặp gian truân, con lại cứ khóc với người khác trong khi Ta chìa vai Ta cho con tựa đầu mà khóc, con lại không tựa? Sao con chối từ khi Ta cho con cơ hội phục vụ Danh Ta?
            Tôi định bụng trả lời, nhưng biết nói gì đây?
-Ta ân ban cho con sự sống, không phải để con vứt bỏ nó. Ta ân ban cho con tài năng là để con phục vụ, nhưng con vẫn quay lưng. Ta mặc khải Lời Ta cho con, nhưng con không kiếm tìm hiểu biết. Ta nói khó với con, nhưng con cứ bưng tai, bịt mắt. Ta chúc phúc cho con, nhưng con lại cứ hướng nhìn nơi khác. Ta sai tôi tớ của Ta đến với con, nhưng con ngồi yên đó khi họ bị đuổi xua. Ta nghe lời con kêu cầu và nhậm lời mọi điều con cầu khẩn. Con có thực sự mến Ta chăng?”
Tôi không thể trả lời. Làm sao trả lời được đây? Tôi vô cùng bối rối. Không còn lời để biện bạch.  Tôi sẽ nói gì đây? Lòng dạ như kêu thét và mắt tôi đã đẫm lệ, Tôi trình Ngài:
-Lạy Chúa, xin thứ tha. Con thật không xứng làm con Ngài.
Chúa bèn đáp lại:
-Ấy đó, ân Huệ của Cha!
Tôi lại hỏi:
-Sao Chúa vẫn thứ tha con?  Sao Ngài lại yêu con đến thế?
Chúa trả lời:
-Vì con là công trình Sáng Tạo của Ta. Con là con của Ta. Ta chẳng thể nào rời, khi con khóc, Ta đồng cảm và cùng khóc với con. Ta cùng cười với con, khi con vui mừng hớn hở. Khi con mất hết tinh thần, Ta đã khích lệ con. Ta vực con dậy, khi con vấp ngã, mệt mỏi, Ta bồng bế con và sẽ ở với con cho đến ngày sau hết và sẽ còn yêu thương con mãi mãi.”
Chưa bao giờ tôi khóc nhiều như thế. Làm sao tôi có thế dửng dưng sống? Làm sao tôi lại đã xúc phạm Chúa thật nhiều? Tôi hỏi Chúa:
-Ngài thương con đến mức độ nào, thân lạy Chúa?
Chúa chìa tay Ngài và kìa dấu đinh xuyên thủng. Tôi gục đầu dưới chân Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, và lần đầu tiên trong đời, tôi nguyện cầu thực sự!”

            Dĩ nhiên truyện kể nào cũng là cổ thời đại rất hư cấu, nhiều tưởng tượng. Chí ít, là hư cấu và tưởng tượng xảy đến với cuộc đời. Nhưng ý nghĩa truyện kể vẫn được người kể lôi kéo về đề tài để phiếm, rất hôm nay. Chủ đề và ý nghĩa nhỏ vẫn là: tất cả chưa là tận thế. Vẫn chưa muộn để nghĩ suy về một cảm thông, yêu thương và tha thứ, trong mọi trường hợp. Hôm nay và mai ngày.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Cũng rất nhiều ngày thổn thức
vì nỗi đau lòng xót dạ của người và của mình
vẫn hiện rõ trong đời.

Saturday 11 August 2012

“Trời mưa gió, lá cây tơi bời khắp nơi,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 20 thường niên năm B 19.8.2012
“Trời mưa gió, lá cây tơi bời khắp nơi,”
“tan nát bao cánh hoa tươi bên thềm
gió chiều thét gào não nề.
Ôi! Trời mưa gió điêu tàn gieo bao đau thương!”
(Khánh Băng – Vọng Ngày Xanh)
(1Co 4: 6)       
            Thời buổi này, còn ngồi đó mà hát vọng về chuỗi ngày rất xanh, cũng không đành. Đành sao được, khi người nghệ sĩ lại cứ hát những lời tả oán lê thê, ê chề, rất như sau:

                        “Người nghệ sĩ, âm thầm trong đêm gió mưa,
                        Mơ màng nâng tiếng tơ đàn dịu dàng
                        Cho hết bao niềm hận sầu kiếp người lạc loài,
                        Gợi tình quê hương với bao nhiêu lời thương nhớ…”
                        (Khánh Băng – bđd)
           
            Thật ra thì, không chỉ mỗi nghệ sĩ mới “âm thầm trong đêm gió mưa”, những “mơ màng”, với “tiếng tơ đàn dịu dàng”, có đôi “lời thương nhớ”. Thương và nhớ, mà tuổi ấu thơ hôm nay vẫn gánh chịu “kiếp người lạc loài”, “niềm hận sầu”.  Cũng rất đúng, khi kiếp trẻ thơ hôm nay lại cứ mang thân phận “đau thương”, “điêu tàn”, nhiều “hận sầu”. Hận, là vì đời mình vẫn “tơi bời hoa lá”. Và, sầu là bởi trời mưa gió, cứ “thét gào não nề” ở đâu đó, lại “gieo bao đau thương” đến với thế hệ mới lớn, chẳng biết gì cuộc đời vui hưởng vẫn rất mong.
            Nói rõ hơn, là nói: việc giáo dục thế hệ trẻ hôm nay bị thúc bách/giày vò về nhiều thứ. Nặng nhất, là quyền được hưởng những gì đáng hưởng, như nhận định của một số đấng bậc mô phạm đang trăn trở chuyện đó, đã cho biết:

“Thật ra, chẳng có gì gọi là sai trái trong huấn luyện/đào tạo giới trẻ cả. Chỉ mỗi lo ngại về việc đảm nhiệm đào tạo để giới trẻ có công ăn việc làm như một phần của cuộc sống. Đã có thời, tôi làm Trưởng Khoa Y đại học nọ, chợt thấy rằng ở nơi đó, người ta quá chú trọng đến việc giảng dạy sao cho sinh viên dễ kiếm được nghề nghiệp. Bởi thế nên, có nhiều trường chỉ lập ra ít môn nào có liên quan chặt chẽ đến ngành y khoa mà thôi. Làm thế, là bởi các em sinh viên của ta hầu hết đều thông minh, nên họ chỉ thấy mình bị thôi thúc chọn lựa môn nào thích hợp cho chuyện trau dồi tay nghề, chứ không muốn học bất cứ môn gì gây sao lãng.
Nhà trường quyết tạo cho sinh viên y khoa chỉ tập trung tâm trí cùng giờ giấc vào môn học nào có liên quan trực tiếp việc chẩn đoán hoặc điều trị bệnh nhân, thôi. Thật dễ thấy lý do tại sao nhà trường lại làm thế. Đơn giản chỉ vì nhà giáo nay quan niệm môn học nào không liên quan đến nghề nghiệp của y sĩ, đều là thời gian phung phí, cần bỏ đi. Có vị còn chủ trương: phải thông cảm với sinh viên về sự thể là: giáo dục khoa y là công việc nhiêu khê, nặng nề và đắt giá. Bởi thế, cũng đừng nên thêm vào thời gian và tổn phí những gì không cần thiết cho thực tế ở đời hoặc những gì không thích hợp với môn học nào thực tế có liên quan đến nghề nghiệp của họ. Nếu sinh viên y khoa thích nghiên cứu thêm về lịch sử, triết lý hoặc văn chương, thì các em sẽ còn nhiều thì giờ để làm việc đó khi đã về hưu. Tức, thời điểm có rất nhiều để bỏ ra với các địa hạt không mấy thiết thực cho nghề nghiệp của y sĩ. Theo tôi, điều đó chỉ có lý, nếu ta tính mỗi chuyện làm lợi cho sinh viên trong giai đoạn tạm thời mà thôi; nhưng làm thế, sẽ giảm mất giá trị khi ta đeo đuổi mục đích và phương châm của đại học.
Nói cho cùng, thì với tôi, dĩ nhiên ta có bổn phận chuẩn bị cho sinh viên có được hành trang mang theo để họ có thể thành công trong đời. Thế nhưng, ta cũng có bổn phận giúp họ ít là suy nghĩ về loại người mà họ muốn trở nên. Thật ra, cả hai mục tiêu của giáo dục/đào tạo đều không thể bỏ cái này để chỉ chọn cái kia thôi, mà là giúp họ trở thành con người như thế nào và họ sẽ làm gì trong cuộc sống mai sau. Ví dụ để dẫn chứng, là: chẳng ai dại gì cứ ngồi đó mà tranh luận bảo rằng: các nhà phẫu thuật không học sâu/hiểu rộng về triết lý nhân văn hay gì khác, vẫn có thể cắt bỏ bướu ung thư tiền liệt tuyến, rõ ràng là thế. Nhưng, có học triết lý/nhân văn thì sau này các sinh viên mới có thể cảm thông/cải thiện nhận thức của các em để tạo cuộc sống có chất lượng được.
Tóm lại, không chỉ mỗi y/bác sĩ là người có được điều lợi khi hưởng nền giáo dục bao quát/thông thường, mà bất cứ ai cũng có thể như thế. Nói cho cùng, sinh viên nào cũng có thể chọn nghề nào thích hợp với khả năng và sở thích của họ, ngõ hầu đem nhiều lợi ích cho tay nghề chuyên môn của họ, với tư cách là con người, nếu như họ có cơ hội được học thêm các môn khác như: khoa học giả tưởng, sử ký, tiểu sử, triết lý và khoa học. Và, nhờ lợi ích này, họ sẽ có cơ hội để học hỏi về tình yêu và những mất mát; về trí nhớ cũng như ước vọng; về sự thuỷ chung và trách nhiệm, về thế giới quanh mình cũng như vũ trụ. Và nhất là, về những gì có liên quan đến con người, nói chung.” (X. Steven Schwartz, The Dangers of Knowledge Without Wisdom, MercatorNet 28/2/2012)

            Trích dẫn ý kiến của các bậc mô phạm trong ngành giáo dục như đương kim Phó Viện trưởng viện Đại học Macquarie Syndey ở trên, không phải để tóm tắt những điều mà các vị có chức năng cần lưu ý. Trích như thế, chỉ để bạn để trôi, ta có dịp tản mạn về cái-gọi-là công tác giáo dục/đào tạo ở một số nước có nền văn minh/văn hiến, cũng đã khá. Trích và dẫn như thế, còn là phổ biến cho bạn bè/người thân một ít thông tin thuộc loại không thể không biết.
Trích và dẫn, còn giúp đỡ/ dẫn đưa người đọc và người viết vào với cảnh huống rối bời ở nhiều nơi, dù nơi đó phải là chốn miền lý tưởng cho con em và chính mình cần học và biết. Trích rồi dẫn, là để tìm hiểu thêm lý lẽ đã khám phá từ nhiều nơi và nhiều thời, mà mọi người vẫn đồn đoán. Trích và dẫn thông tin đa dạng, là để đáp trả lời ca mà người nghệ sĩ nhà mình vẫn hát, có những câu như sau:

            “Lòng chạnh nhớ đêm nào ngắm trăng
            vàng chiếu bên bờ nước xanh mơ hồ.
            Lòng chạnh nhớ trên đồng lúa xanh
chiều ấy ta nhìn cánh chim trời bay.
            Lòng chạnh nhớ Xuân nào ngắm
Xuân về với bao mạch sống
Xuân chan hoà.
            Tình xưa ấy đâu còn với bao ngày lửa binh tàn phá,
            Ôi điêu tàn!”
            (Khánh Băng – bđd)

            Trích và dẫn, cũng nên thêm đôi giòng chảy bức bách về sự kiện ở đâu đó, có liên quan đến nhân vật tên tuổi, từng gặp nhiều phản chứng. Trích và dẫn, là chỉ mỗi trích dẫn thôi mà chẳng cần chanh chua/biện luận thêm lời bàn nào ngõ hầu người đọc có dịp suy gẫm những điều sau đây:

“Ai cũng biết, Hollywwod không là chốn ngự trị của những hôn nhân kéo dài nhiều tháng ngày với các cặp phối ngẫu từng là tài tử màn bạc rất nổi bật. Thế nhưng, nếu các cặp này lại là các tài tử gạo cội của điện ảnh hoặc sân khấu lại muốn đi đến đổ vỡ/ly dị, thì ít ra họ cũng phải cho biết lý do nào khiến họ quyết định này khác, chứ. Đó là những gì khiến tài tử Katie Holmes đưa ra. Tức, viễn tượng của một nền giáo dục kỳ lạ mà Giáo hội Duy Khoa Học của bố đứa con của cô là tài tử Tom Cruise từng áp đặt.
Mới đây, báo The Independent có đề cập chuyện Giáo hội trên buộc vợ chồng tài tử phải kiểm tra tình trạng tâm tính của con cháu về điều mà Giáo hội này gọi là “Kiểm tra an toàn” giúp Giáo hội. Đại để, thì đây là thủ tục giúp Giáo hội kiểm xem đám trẻ con trong Giáo hội có hạnh kiểm tốt/xấu, qua câu hỏi: “Có bao giờ em cố tình làm cho thân xác của em ra dơ bẩn không?” hoặc câu khác, như: “Có bao giờ em kể những cái xấu của người khác cho bạn mình nghe không?” Cùng lúc đó, các em phải đưa ra câu trả lời, để người hỏi dùng máy móc đo lường tần số/dữ kiện phát từ cơ thể của các em, tương tự như máy dò tìm người nói dối, thôi.
Dĩ nhiên, ai cũng muốn cho con cái mình biết cách mà phân biệt đuợc thế nào là nhân đức và tư cách đồi bại, ngõ hầu khuyến khích các em có thói quen tốt lành, trong đời sống. Thế nhưng, tra vấn con trẻ theo kiểu máy móc như thế khác nào đối xử với các em không khác gì đồ vật hay loài thú, mà thôi. Đó cũng là tội phạm chống phẩm cách cũng như tự do của con người, dù người ấy còn bé, chưa biết gì.” (X. Carolyn Moynihan, Between Divorce and Scientology: the Fate of a Child, MercatorNet 04/7/2012)

            Quả có thế, không thể nại cớ an ninh/an toàn cho Giáo Hội –dù Giáo hội nào- để đối xử với người trẻ nhỏ hệt loài thú hoặc đồ vật. Không cần biết, chủ trương đó có là đường lối hoặc phương cách của nền giáo dục nào đó xuất xứ từ văn minh/văn hoá rất “duy khoa học” tôn lên thành giáo hội. Chẳng cần tìm, xem “Giáo hội” ấy có là đạo giáo theo nghĩa niềm tin tôn giáo rất khác biệt, không! Chỉ biết có mỗi điều, là: cũng nên và cũng cần định hình nền giáo dục của đạo giáo có chủ trương nhân bản, mới đúng nghĩa là giáo và dục.
            Ở đây nữa, chẳng cần và chẳng nên bẻ chữ ra làm nhiều mảnh để phân tích tách bạch mọi bề xem thế nào là giáo dục và thế nào là Giáo hội, hết. Mà, chỉ nên nhìn lại xem Hội thánh Chúa có điểm gì là son vàng về giáo dục trẻ nhỏ, rõ như ban ngày. Nhìn lại, để cùng người nghệ sĩ ta hát đôi câu ca mang ý nghĩa một gợi nhớ. Nhớ tình xưa. Nhớ lối đi có trăng mờ, vẫn yêu đời:

                        “Ngày xưa ấy, mỗi khi trăng mờ lối đi
                        Ta nắm tay hát vang câu yêu đời
với ngàn tiếng đàn nhịp nhàng,
con thuyền êm lướt trên giòng trong đêm thanh.”
(Khánh Băng – bđd)

            Nhớ ngày xưa ấy, là nhớ về nền giáo dục nhà Đạo, ở trên cao. Rất thích thú. Nhớ và hiểu rằng: nền giáo dục Công giáo mình cũng đã thay đổi rất nhiều kể từ ngày các vị theo chân Đức Giêsu đi khắp chốn mà dạy dỗ muôn dân để họ có được lòng tin. Thay và đổi, theo chiều hướng phát triển, đa-dạng-hoá và đáp ứng với thời đại, nhưng chiều sâu của của đường lối giáo dục ấy, vẫn tồn tại.
            Nếu có dịp đi các nơi trên thế giới hẳn nhiều người sẽ nhận ra là: trường Công giáo đã có mặt ở nhiều nơi. Giáo dục ở trường Đạo, khác nhiều lối dạy của người đời, cả ở tiểu học, trung học cho đến đại học. Có trường chuyên dạy nữ sinh. Có trường chỉ gồm nam sinh đến học, trường khác lại hỗn hợp cả hai phái tính. Có trường chủ trương nhiều phòng ốc với sân chơi. Có nơi chỉ tụ tập học sinh dưới bóng râm hay kho bãi. Có trường đòi hỏi học phí khá cao, có trường lại miễn phí. Có phòng học chỉ nhận một số học sinh ngoài đạo, ít oi. Có lớp lại chỉ dành riêng cho học trò ngoài Công giáo. Nhưng vẫn gọi là trường Đạo.
            Chủ trương đa năng/đa dạng như thế, cốt để chứng minh rằng người Công giáo quyết đặt nặng tầm quan trọng của nền giáo dục nhà trường, lên hàng đâu. Dạy gì thì dạy, trường Đạo vẫn không quên và không bỏ môn giáo lý hoặc môn dạy sao cho học viên trở thành người Công giáo tốt, hoặc con người sống đúng cách hoặc đúng đạo làm người, trước khi làm người đi Đạo. Có những nơi, vì lý do nào đó, vẫn cứ dạy con em nhưng chẳng biết gì về đạo làm người, và cũng chẳng học được cung cách của người có Đạo, nên mới xảy những chuyện trớ trêu như truyển kể để thư giãn, sau đây:

“"Lần đầu tiên, mới tới Hà Nội, tôi không khỏi bỡ ngỡ, khi tìm nhà của một người quen làm trưởng một khu phố văn hóa.Thấy có mấy đứa trẻ con đang nô đùa ngoài ngõ, tôi hỏi:
-Này các cháu có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa ở đâu không?"
Một đứa trẻ trai, trạc trên dưới 10 tuổi, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt xấc láo, ranh mãnh, đáp gọn lỏn:
-Biết, nhưng …”cóc” chỉ!
Tôi lắc đầu đi sâu vào ngõ văn hóa, gặp một thanh niên, tôi hỏi:
-Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở chỗ nào không anh?
Gã trẻ tuổi chẳng thèm dòm ngó gì đến tôi, trả lời cộc lốc:
-“Cóc” biết!
Khi gặp ông trưởng khu phố văn hóa, tôi đem chuyện này kể cho ông ta nghe với lời than thở:
-Anh ạ, các bậc phụ huynh ở đây không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với khách lạ thô bỉ đến thế hả anh?!
Chẳng cần suy nghĩ gì, ông trưởng khu phố văn hóa đã thuận miệng trả lời tôi ngay:
-Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó “cóc” nghe!
Lúc ấy cô con gái của ông bạn tôi là cô giáo, dạy môn văn, vừa đi dạy về và tôi đem chuyện ấy ra kể lại. Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một chuyện như sau:
-Hôm ấy cháu giảng bài văn, có đoạn kể thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đã đánh gục Tây, đánh nhào Mỹ v..v..Cuối cùng, cháu kêu một em học trò trai lớn nhất lớp, bảo nó cắt nghĩa hai chữ: "dũng cảm” là gì? Nó đứng lên suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn lỏn:
-Nghĩa là .. là .. “cóc” sợ!
Sau đó cháu lại có cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và đào tạo, liền đem chuyện thằng bé học trò đã cắt nghĩa 2 chữ "dũng cảm" là: "cóc sợ!" cho ông nghe. Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu, ra điều suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, ông nghiêm nghị nhìn cháu rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa khám phá ra một chân lý, chậm rãi đáp:
-Ừ, mà nó cắt nghĩa như thế cũng ...”cóc” sai!
Cô kết luận:
-Ðấy, bây giờ luân lý, đạo đức của con người như thế đấy. Rồi đây, các thế hệ trẻ miền Nam cũng vậy thôi! Làm sao tránh được?
Ông bố rầu rĩ thở dài:
-Ðất nước kiểu này thì ...”cóc” khá ..”
(trích dẫn từ điện thư tràn lan trên mạng…rất hà rầm)
            Dạy gì thì dạy. Giáo dục ra sao, có người vẫn gọi đó là giáo dục. Vấn đề là: người học có theo kịp và thực hiện được điều mà bậc thày vẫn dạy hay không? Hoặc, người học phải chỉ học cho qua ngày đoạn tháng, để lấy lệ hoặc để “trả nợ quỉ thần”, hay không? Hoặc, có học đấy nhưng chỉ để nhận tấm “giấy lộn” làm bằng mà có được việc làm hoặc chỗ đứng, ở trên cao. Nghe nói, ở một số nơi, dân chúng còn cậy nhờ hoặc thuê mướn người học giùm, hoặc thi giùm để có chút bằng cấp treo tường hoặc chứng minh với cấp trên hầu lên lương, lên ngạch, lên chức.
            Thế đó, là chuyện đời. Ở ngoài đời. Còn chuyện trong đạo, thì sao? Đạo mình có khuyên dạy người đi Đạo biết mà học hỏi những gì mình chưa quán xuyến, hoặc chưa biết chứ? Để trả lời, việc hay nhất có lẽ cũng nên trở về với nguồn cội của Đạo mình, ở Kinh thánh có những câu, khá sâu sắc, như:

                        “Hãy di mà học lời này:
                        Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải lễ tế!”
                        (Mt 9: 13)
            hoặc:
                        “Thưa anh em, tôi đã áp dụng các điều đó
cho tôi và Apôlô, vì lợi ích của anh em,
để anh em theo gương chúng tôi mà học cho biết
đừng có đi ra ngoài những gì đã viết,
kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác.”
(1Co 4:6)
            Xem như thế, thì có học hay không cũng “đừng đi ra ngoài những gì đã viết”, “kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác.” Phải chăng điều thánh nhân dạy mọi người trong Đạo, là cách “học làm người”, cho nên người. Hiểu như thế, có lẽ cũng nên nghêu ngao ca những lời như sau:
                        “Ngày xưa ấy, mỗi khi trăng mờ lối đi
                        Ta nắm tay hát vang câu yêu đời
với ngàn tiếng đàn nhịp nhàng,
con thuyền êm lướt trên giòng trong đêm thanh.”
(Khánh Băng – bđd)
            Hãy cứ học và cứ hát. Sẽ có ngày bạn và tôi, ta nắm được chân lý để đời. Cho mọi người.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn nhủ lòng mình
những điều như thế
            suốt một đời.