Saturday 28 April 2012

“ Thương nhớ ..ơ hờ thương nhớ ai,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm Mùa Phục Sinh năm B 06.5.2012

Thương nhớ ..ơ hờ thương nhớ ai,”
“Sông xa từng lớp lớp mưa dài
“Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
“Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng  Đôi Mắt Người Sơn Tây)
(Mt 1: 18-19, 20; Mt 11)
Lại thú thật rằng: bần đạo đây, xưa rày vẫn biết và nhận mình chẳng là gì cả, mà chỉ là giáo dân hạng thứ cùng phó thường dân rất Nam Bộ, thôi. Nhưng –vâng, chữ “nhưng” này quả đáng giá ngàn vàng-  bởi bần đạo thường được đấng bậc thuộc tầm cao cỡ cả vẫn cho bần đạo được tháp tùng dự các buổi hội luận dành cho linh mục, tu sĩ và nữ tu Úc, do cựu giáo sư thần học Kevin O’Shea CSsR tổ chức tại Đại học Công giáo Sydney vào độ tháng 5/2011.
            Hội luận hôm ấy, diễn giả bàn về “Sự khác biệt trong nghiên cứu tính Sử học của Đức Giêsu”. Đây là một hội luận khá giá trị và hiếm thấy ở “miệt dưới” xứ Úc này. Và, diễn giả cao tuổi là thế nhưng lại thao thao bất tuyệt về nhân vật Giêsu Kitô rất lịch sử kể ở Tân Ước.
Điểm dễ thương của diễn giả là: dù có cao hứng và hùng hồn cách mấy đi nữa, đức thày  vẫn thấy vui để thính giả cắt ngang nguồn hứng mà hỏi han. Và, câu han hỏi hôm ấy do một nữ tu trọng tuổi đặt ra như sau: “Đọc sách thánh, tôi thấy rất ít chỗ đề cập đến thánh cả Giuse, tại sao thế? xin cho biết…”
Trả lời, diễn giả đã đi ngay vào chi tiết:

Theo sử liệu gần đây cho biết, thì: tuổi thọ người Do thái sống thời của Chúa, chỉ từ 35 đến 40 tuổi là cao nhất. Tính cho đúng, thì: Đức Giêsu khởi công rao giảng vào độ tuổi 30. Lúc ấy, thánh Giuse là cha Ngài ở dưới đất xấp xỉ cũng gấp đôi tuổi của Ngài. Và, từ đó trở đi: ta có thể nói chắc chắn rằng: thánh Giuse khi ấy không còn sống, đúng vào thời Chúa giảng rao công khai, nữa…”

Bần đạo nghĩ, tính cách sử học là thế. Thế còn tác giả Tin Mừng viết hồi thập niên 50, 60 hoặc 70 ở thế kỷ đầu đời, làm sao nhớ được chuyện của thánh cả, mà ghi chép! Thế nên, dân gian nói nhiều về đấng thánh rất hiền lành, quả không thiếu. Không thiếu lời và lẽ như ca từ người nghệ sĩ, nay vẫn hát:

“Buồn viễn xứ khôn khuây,
Buồn viễn xứ khôn khuây.
Em hãy cùng ta mơ!
Mơ một ngày đất mẹ.
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa, khô ráo lệ.”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

“Buồn viễn xứ”, chắc đây không là nỗi buồn của Giuse thánh cả hiền từ, cao thượng. Cao và hiền, một cuộc đời chẳng bon chen, hơn thiệt. Chẳng đòi hỏi mọi người đánh bóng tên tuổi cùng thân phận mọn hèn của mình làm chi cho nên tội. Thân phận của thánh nhân, tưởng chừng như bọt bèo, nước chảy mây trôi hay sao đó, nhưng đâu phải thế. Bằng chứng là, nhiều người vẫn đề cao, ủng hộ, rồi còn tung hô tinh thần khiêm hạ của thánh cả, đến độ dám tuyên dương nhè nhẹ, như bạn đạo ở đâu đó, từng hỏi và nói như sau:

“Không hiểu sao, chứ con có cảm giác rằng: thánh cả Giuse khi phát giác bạn đời mình có thai, lại biết rất chắc rằng mình không là tác giả, vì xưa nay không hề “biết” đến ái ân xác thịt…hẳn lòng ngài cũng rối trăm bề, đến hết biết. Mới đây, con nghe có người nói: thánh cả đã cảm nghiệm những 7 nỗi “buồn viễn xứ” khi ngài buộc lòng phải yêu cầu Đức Maria, Bạn Đời mình hãy đi mà về nhà mẹ. Ngược lại, có người còn bảo: cũng nên nói thêm về 7 điều mừng vui thánh nhân hưởng. Vậy, xin cho biết 7 điều buồn/vui của thánh cả là những gì? Sao Kinh thánh nói quá ít về thánh Giuse thế? Có chăng những điều buồn/vui như mọi người bảo? (Vấn nạn của một độc giả ở Sydney)    

            Con dân nhà Đạo khi đã hỏi những điều về thánh “cả” ở trên cao, thì chỉ như thế cũng đã đủ. Nhưng, so với thi văn ngoài đời khi nói về “người” có cặp mắt rất “u uẩn chiều lưu lạc” đời thường, như sau:

            “Em hãy cùng ta mơ
Mơ một ngày đất mẹ
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa khô ráo lệ…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

            Nghệ sĩ ngoài đời tả về người có gốc nguồn từ Sơn Tây, đất Hà thành cặp mắt uẩn u, thì như thế. Như thế, nhà Đạo mình nói sao về nỗi niềm buồn/vui của thánh cả, bây giờ đây? Diễn tả về thánh cả như vậy đúng không? Đã hỏi về chuyện Đạo, thì xin mời bạn và mời tôi, ta lắng tai nghe đức thày vị vọng ở Sydney có những lời rất đáp trả, sau đây:

“Sùng kính 7 nỗi buồn/vui của thánh cả, là điều chẳng ai lấy làm lạ hết. Chí ít, là những người trong Giáo hội rất thánh ở khắp nơi. Ngay từ đầu, việc này do hai linh mục Dòng Phanxicô chủ xướng khi các ngài bất chợt bị cơn giông bão xảy đến khi lên thuyền ngang qua biển bờ Flanders làm chết mất 300 người. Các tu sĩ gặp may đã bám vào ván tàu nổi trôi suốt 3 ngày trời, để rồi cuối cùng các ngài nhờ việc cầu nguyện cùng thánh cả Giuse ra tay thương giúp hầu sống sót.
Lúc ấy, chợt có người trẻ xuất hiện bên cạnh tấm ván của hai đấng khuyến khích các ngài cứ tin tưởng nơi anh để rồi anh sẽ đưa các ngài vào cầu cảng trong vịnh, rất an toàn. Hỏi kỹ tên tuổi, các ngài mới vỡ lẽ ra rằng người trai trẻ không là ai khác ngoài thánh cả Giuse và thánh nhân hiện hình người trai trẻ yêu cầu hai vị đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng mỗi ngày 7 lần, để nhớ đến 7 nỗi buồn/vui thánh nhân vẫn cảm nghiệm. Và sau đó, thánh nhân trẻ bèn biến mất.
Không cần biết truyện kể có xác thực hay không, ai cũng hiểu rằng việc sùng kính mến mộ 7 điều buồn/vui ở thánh cả cũng từ đó bén rễ sâu trong lòng người. Và, mọi người đã bắt đầu đọc 7 kinh, mỗi khi đọc đều suy tưởng về một trong các nỗi niềm ấy, sau đó lại sẽ đọc tiếp một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh dâng Chúa Cha. Lời lẽ trong kinh, cũng thay đổi nhiều, nhưng tựu trung tất cả đều đề cập đến cùng một nỗi niềm vui/buồn lẫn lộn.
Nỗi buồn đầu tiên, thánh Giuse cam chịu là đã phát giác ra Đức Maria Bạn Đời mình đã cưu mang một trẻ bé mà thánh cả biết chắc chắn không là con mình. Chính vì thế, thánh nhân mới quyết định “xa lánh” người Bạn Đời mà thánh nhân yêu thương hết lòng dạ (Mt 1: 18-19). Niềm vui đầu theo sau đó là lúc thần sứ xuất hiện với thánh nhân trong giấc mộng mà bảo: “Giuse, con của Đavít, chớ sợ lấy Maria làm vợ: thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần Chúa”(Mt 1: 20). Và, niềm vui được minh xác, nên thánh cả đã chấp nhận Maria làm vợ mình.
Nỗi buồn thứ hai tiếp đến, là khi thánh cả thấy Đức Giêsu Con mình lại đã sinh hạ trong cảnh khó nghèo, bèn đặt con vào máng đựng cỏ bò/lừa vẫn mà lòng quặn thắt ( Lc 2: 7). Nỗi buồn này cũng đã trở thành niềm vui khi thánh nhân thấy các đạo sĩ cùng nhiều vị viếng thăm và bái lạy Con của mình rồi còn dâng tặng phẩm vật quí giá những gồm vàng, hương thơm và mộc dược (Mt 2: 11).
            Nỗi buồn vui thứ ba, là: 8 ngày sau khi sanh Chúa, thánh cả thấy máu Con mình lần đầu chảy vào ngày Chúa chịu cắt bì. Nỗi buồn, kéo dài không lâu bởi sau đó thánh cả đã vui hơn khi Con mình được đặt tên Giêsu như thần sứ báo trước ngày bạn đời Maria cưu mang Chúa (Lc 2: 21).
            Buồn/vui thứ tư, là khi thánh gia đem Con đến đền thờ để giới thiệu các đấng bậc, chỉ 40 ngày sau khi sinh. Buồn một nỗi, là khi cụ già Simêôn nói tiên tri về lưỡi đòng đâm thấu tâm can người Mẹ. Và, niềm vui có được cũng là lúc cụ Simêôn lại thông báo: Trẻ Thánh sẽ nâng nhấc toàn thể dân Do thái (Lc 2: 35).
            Buồn thứ năm cũng rất lớn, là khi thánh cả nằm mộng thấy thần sứ khuyên đem Mẹ Con lánh nạn bên Ai Cập vì Hêrôđê ra lệnh ruồng bắt trẻ thơ (Mt 2: 13). Và niềm vui tới với thánh cả, là ý nghĩa việc Con Chúa đến Ai Cập, có nghĩa lật đổ các ngẫu tượng lâu nay được thờ, ở nơi đó.
            Nỗi buồn đếm thứ sáu, là lúc thánh cả lại mơ thấy thần sứ báo mộng hãy đem Con về lại Israel, như Tin Mừng ghi: “Archelaus nay trị vì toàn cõi Giuđa thay cho Hêrôđê cha mình, nên thánh cả lo ngại không dám đến” (Mt 12: 22). Nỗi buồn được đáp trả bằng niềm vui khi Thánh gia trở về Nazarét, rất an toàn (Mt 2: 23).
Nỗi buồn đếm số bẩy, là khi thánh gia để lạc người Con yêu ở đền thờ khi Con lên 12 và đó còn là niềm vui khi Thánh gia tìm ra Ngài chỉ sau 3 ngày ngồi bên giáo sĩ” (Lc 2: 41-51).
Cũng nên biết, Đức Giáo Hoàng Piô thứ VII trị vì Hội thánh từ năm 1800 đến 1923, ban ân xá cho ai có lòng sùng kính 7 niềm vui lẫn nỗi buồn của thánh cả. Và, ân xá sẽ gia tăng gấp bội nếu việc sùng kính này được cử hành vào ngày Thứ Tư trong tuần, hoặc nếu người sùng kính mở tuần cửu nhật sùng kính thánh cả trước ngày lễ bổn mạng của ngài. Còn hơn nữa, sẽ nhận ơn toàn xá nếu ai có lòng sùng kính thánh cả có niềm vui nỗi buồn 7 mối, và sống thực như thế suốt tháng.
Ban ân xá, hẳn người người rày thấy được là Hội thánh đã chúc phúc cho ai có lòng sùng kính như thế, đến bây giời.” (x.Lm John Flader, The Catholic Weekly ngày 18/3/2012 tr. 11)

            Những điều vừa kể trên, là kể theo cung cách long trọng ở nhà Đạo. Đối với người đời, thì nghệ sĩ lại là người thay vào đó bằng giòng chảy mô tả tình tiết tốt đẹp của quí nhân hiền lành, nổi cộm như:  

            Em vì chinh chiến thiếu quê hương,
Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn.
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm,
Em có bao giờ, Em có bao giờ,
Em thương nhớ thương…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bdd)

Sài Sơn, Bương Cấn hay Xứ Đoài, đó cũng chỉ là ảnh hình của những miền đất mà quí nhân hiền lành từng đặt chân đến hoặc từ đó ra đi. Ra đi rồi, lại sẽ cùng bạn đời, cứ hỏi “Em có bao giờ thương cứ thương”. Thương cứ thương. Nhưng, hỏi vẫn cứ hỏi. Hỏi rằng: “Đôi mắt người Sơn Tây” vẫn là đôi mắt/mặt hình để anh thương, thôi. Thương cứ thương, cả những người lành thánh vẫn âm thầm chịu đựng nghịch cảnh đến với mình.
Thương cứ thương, còn là chấp nhận và hiểu rằng: trong cái hoạ nghịch cảnh ấy, bao giờ cũng ngời sáng niềm hạnh phúc sẽ đến ngay. Và, thương cứ thương, là cũng suy và nghĩ rất đúng rằng: dù sự thể có ra sao, vẫn nên coi đó là ân huệ Bề Trên gửi để cảnh giác hoặc ủi an, vỗ về để Ngài-cùng-ta vui hưởng một “kết hậu” đang trờ tới, ngay thôi.
Xét cho kỹ tâm tính tốt lành hạnh đạo của thánh cả trong gia đình rất thánh thiêng, cũng nên nhấn mạnh đến tính cách âm thầm chấp nhận nghịch cảnh xảy đến với đời người. Bởi, đời của con người bình thường hoặc của thánh nhân cao cả vẫn là chuỗi ngày có những hoạ-phúc/phúc-hoạ quyện lẫn với nhau, rất khôn nguôi.
Xét cho cùng, về tính cao cả của thánh Giuse là đức tính cao đẹp cần đề cao hơn ai hết. Nhân đức ấy, đặc trưng này vẫn nằm ở điểm, là: thánh nhân như người thường ở huyện, một khi đã hợp tác/dính dự vào với công trình cứu độ của Thiên Chúa, sẽ cảm thấy vinh dự vì nhận thấy thân phận yếu kém của mình mà lại đã được Thiên Chúa để mắt đến nên sẽ lạc quan với công trình cứu độ cao quý.
Hãy tưởng tượng, nếu thánh Giuse lại cứ khăng khăng chống đối kế hoạch Thiên Chúa dùng phàm nhân như ông để tham gia vào công trình cao cả mà cứu nhân độ thế, thì chắc hẳn kế hoạch ấy cũng sẽ không hoàn thành như đã từng xẩy ra với con người.
Thành thử, sự cao cả ở thánh nhân Giuse HIền lành là ở chỗ: cứ để mọi sự do Chúa định như một thứ Hội chứng “Xin vâng” mà Bạn Đời của mình từng diễn tả ngày thăm chị họ Elizabét. Và “hội chứng”này, nay vẫn còn diễn tiến ở nhiều nơi, và mọi thời.
Về với ý tưởng/lập trường của bậc thày dẫn giải về thần học Kinh thánh ở buổi hội luận hôm ấy, thì sự cao cả của thánh cả Giuse và Đức Maria bạn đời ngài, là: tuy xuất hiện rất ít trong Tân Ước, nhưng lại nói nhiều hơn nhiều đấng. Thật vậy, hai ngài không chỉ nói bằng lời, nhưng bằng sự âm thầm/lặng thinh trong chấp nhận một sự thể ngoài sức tưởng tượng của con người.
Chấp nhận và thực ý định của Thiên Chúa là Cha, bất kể những gì có thể xảy ra đối với chính mình, hoặc người của mình. Đó mới là lý do khiến Hội thánh chỉ gọi mỗi Giuse con vua Đavit, là “Thánh Cả”. Cả đây, không có nghĩa trên cả bạn đời hoặc người Con Chí Ái của mình về thể xác. Mà là, sự cao cả tuyệt vời, trong hành xử như người được chọn làm nhân vật thánh rất “cao” và “cả thể”.
Quan viên ở đời, có lẽ hiểu chưa rõ ý/từ “Đôi Mắt Người Sơn Tây” theo nghĩa thi phú, nên cứ hát:

“Đôi mắt Người Sơn Tây
Đôi mắt Người Sơn Tây
Buồn viễn xứ khôn khuây ..”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bdd)

            Để người đọc có dịp thư giãn hầu hiểu rõ hơn ý/từ và ý tứ của vai trò đấng thánh “cả”, có lẽ cũng nên tìm về với truyện kể nhè nhẹ, như sau:

            “Chuyện xảy ra tại một trường đại học 
Sắp hết giờ giảng, giáo sư bỗng đề nghị với các sinh viên,
"Tôi cùng mọi người thử một trắc nghiệm nhỏ, ai muốn cùng tôi thử nào?"
Một nam sinh bước lên.Giáo sư nói, "Em hãy viết lên bảng tên của 20 người mà em khó có thể rời bỏ".
Chàng trai làm theo. Trong số tên đó có tên của hàng xóm, bạn bè, và người thân...Giáo sư nói: "Em hãy xoá tên của một người mà em cho rằng không quan trọng nhất!"
            Chàng trai liền xoá tên của người hàng xóm.
Giáo sư lại nói: "Em hãy xoá thêm một người nữa!".
Chàng trai xoá tiếp tên của một đồng nghiệp.
Giáo sư nói tiếp:"Em xoá thêm tên một người nữa đi". Một người không quan trọng nhất trong cuộc đời. chàng trai lại xoá tiếp.....
Cuối cùng, trên bảng chỉ còn lại ba cái tên, bố mẹ, vợ, và con.
Cả giảng đường im phăng phắc, mọi người lặng lẽ nhìn vị giáo sư,
cảm giác dường như đây không còn đơn thuần là một trò chơi nữa rồi!! Giáo sư bình tĩnh nói tiếp:
"Em hãy xóa thêm một tên nữa!" chàng trai chần chừ, rất khó khăn mới đưa ra được sự lựa chọn...
anh đưa viên phấn lên..... và gạch đi tên của bố mẹ!
"Hãy gạch đi một cái tên nữa đi!",
tiếng của vị giáo sư lại vang lên bên tai.
chàng trai sững lại, rồi như một cái máy, từ từ và kiên quyết
gạch bỏ tên của đứa con trai...Và anh bật khóc thành tiếng,
dáng điệu vô cũng đau khổ.
Vị giáo sư chờ cho anh bình tĩnh lại hồi lâu và hỏi: "Lẽ ra người thân thiết nhất với em, phải là cha mẹ và đứa con, bởi cha mẹ là người sinh thành và dạy dỗ em nên người, đứa con là do em dứt ruột sinh ra, còn người vợ thì có thể tìm người khác thay thế được, vậy tại sao, với em người vợ lại là người mà em khó dời xa nhất?" Cả giảng đường im lặng, chờ nghe câu trả lời.
Chàng trai bình tĩnh và từ tốn nói:"Theo thời gian, cha mẹ sẽ là rời bỏ tôi mà đi,
con cái khi trưởng thành,cũng chắc chắn sẽ rời xa tôi,
            người luôn ở bên, làm bạn với tôi suốt đời, thực sự chỉ có vợ tôi!
Và cũng chính là người cằn nhằn tôi suốt ngày !!!

Người kể truyện hôm nay, thấy truyện kể của mình mà lại đem áp dụng vào những chuyện của thánh nhân hiền lành rất cao cả, thấy cũng kỳ. Bèn có một đề nghị bạn, đề nghị tôi là những người đang nghe câu truyện kể, rằng: đâu ai cấm bạn và tôi ta thay đổi giới tính của người trong truyện. Tức là, thay vì nói về bạn đời nữ giới thì ta thay người bạn đời bằng: “chồng tôi”. Có thay đổi như thế, mới thấy rằng người bạn đời nào cũng vậy, dù nam hay nữ cũng vẫn là những quí nhân hiền lành, và cao cả. Hệt như thánh cả, rất Giuse.
Nói như thế, thì có vẻ hơi bốc phải không bạn, phải không tôi? Thôi thì ta cứ tạm coi như thế rồi lai rai hát hoài ý từ người nghệ sĩ vẫn cứ viết và cứ hát, rằng:

“ Thương nhớ ..ơ hờ thương nhớ ai,”
“Sông xa từng lớp lớp mưa dài
“Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
“Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai.
“Em hãy cùng ta mơ
“Mơ một ngày đất mẹ
“Ngày bóng dáng quê hương
“Đường hoa khô ráo lệ…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

Hát thế rồi, xin đề nghị bạn và đề nghị tôi, ta cứ ung dung cất lên lời ca ngợi các đấng bậc hiền lành và cũng thánh không thua gì đấng bậc rất “thánh cả” ở trời Đông Do thái năm ấy. Và, cả các thánh-không-được-phong của mình nay vẫn hỗ trợ, cầu bàu cùng với Thánh gia cho tất cả người nhà, ở trần thế, giống như thế.

Trần Ngọc Mười Hai
tuy chưa làm thánh
nhưng cứ nhớ lời Phaolô thánh nhân
vẫn vui chào mọi đấng thánh
ở trần gian
là thế cả.


Saturday 21 April 2012

“Theo gió heo may đến đêm gọi tình ,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ tư Mùa Phục Sinh năm B 29.4.2012

“Theo gió heo may đến đêm gọi tình ,”
Một trời áo tím trong mắt trên môi.”
(Phạm Thế Mỹ - Tóc Mây)
(Ga 20: 31)
            “Gió heo may”, là gió gì mà nghệ sĩ nhà mình lại cứ theo mãi đến tận “đêm gọi tình” thế? “Gió heo may”, hay có phải là gió hắt hiu, xào xạc, lưu luyến không khiến bần đạo cứ phải lấy giấy bút ra mà viết rồi lại lách. Viết cho tách bạch. Lách cho khéo. Để, người đọc với người nghe có được giòng chảy những viết và lách của mình thấy cũng “lách chách”, đến là vui tai.
            Chủ đề “gió heo may” hôm nay, bần đạo chỉ muốn viết và lách mỗi chuyện phiếm đường dài, lai rai, không tranh cãi hoặc kết bè/kết bạn vào phe mình. Nhưng, đôi lúc thấy nhiều gai góc, cũng rất nhọn và khó lòng. “Gió heo may” một chủ đề đưa đẩy về sử tính bần đạo viết, nay có đôi giòng thơ/nhạc lời ca vang sau đây:
“Như chiếc nôi êm ru cơn mộng lành,
Gọi vầng trăng cũ sáng cho hồn vui.
Như cánh hoa đêm đong đưa nụ tình,
Gọi mời cơn gió hôn lá trên cao.
Như cánh chim đêm bơ vơ một mình,
Trời bao nhiêu gió tóc bao nhiêu buồn.”
(Phạm Thế Mỹ - bđd)

            “Gọi vầng trăng cũ”, quả là bần đạo cũng có “cơn gió thoảng”, rất gọi mời. Gọi, là gọi gió heo may rất hiu hắt. Mời, là mời bạn đạo ở khắp nơi, về đây thưởng thức câu ca có kèm đôi ba ý/từ rất tình tứ. Mời và gọi, để bạn và tôi, ta nghe thêm đôi điều nghệ sĩ hát:

“Mùa hè vui đôi chân chấp cánh,
Tóc mây hồng cho mắt long lanh.
Trời mùa đông môi em thắp nắng,
Tóc mây dài, chân vui đường vắng.
Rồi mùa xuân cây thay áo mới,
Tóc mây vàng cho nắng thêm tươi.
Rồi mùa thu xôn xao lá úa,
Tóc mây buồn phủ kín tim tôi.”
(Phạm Thế Mỹ - bđd)

            Nhiều lúc ngồi trầm ngâm suy nghĩ, bần đạo thấy mình lâu nay nói không nhiều, nhưng viết và lách lại không thiếu. Có thiếu chăng, chỉ thiếu có điều là: chưa đánh gục được ba thằng Tây đen/Tây trắng vốn chẳng chịu gục ngã dưới giòng chảy tản mạn, để được “lắp cánh bay cao” cho kịp bạn đạo cấp tiến.
Suy cho cùng, bần đạo thấy nhiều chuyện đời cũng nên lập đi lập lại mà suy xét, rồi mới hiểu. Và, có thế mới thấy là: dù cố gắng dãi bày tư tưởng thông thoáng của ai đó khá nhiều lần; cuối cùng thật cũng khó mà lay chuyển nếp sống đã hằn dấu vết trên vai/trong lòng nhà đạo mình đã bén rễ từ thời ông tằng/ông tổ ở đâu đó, rất cũ xưa.
            Thôi thì, nói gần nói xa chẳng qua nói thật, và cũng thật như đếm, để bà con mình cho ý kiến phản hồi, mà thêm thắt. Bày tỏ lập trường đến thế rồi, nay bần đạo xin về với chủ đề rất cũ, nay được các bậc thức giả lan man gạn hỏi, cho rõ. Số là, mới đây, bần đạo bầy tôi bắt chộp được vấn nạn của độc giả Sydney lâu nay thấy nhen nhúm tâm tình khá thách thức bèn chạy đến đức thầy ở tuần báo, để tỏ bày như sau:

“Tôi nghe một số tín hữu trong cộng đoàn kháo láo với nhau rằng: điều ta học được từ Phúc Âm không hẳn đúng sự thực trăm phần trăm. Nói cách khác, là: những chuyện xảy ra thời Chúa sống giống như phép lạ Chúa làm, chưa hẳn là sự kiện lịch sử, thực sự xảy ra. Điều mà các vị ấy nói, là thế này: truyện kể ở Phúc Âm, có cái không nhất thiết là chuyện thật  xảy ra ở thời Chúa sống như Kinh Thánh nói. Thú thật với cha là: điều tôi nghe được đã làm tôi bối rối không ít. Vậy thì, những gì mà các bạn đạo ấy nói, có đúng không? Nếu vậy, ta hiểu thế nào về tính lịch sử của Phúc Âm?”

Đương nhiên, là: mỗi khi có người nào vấn nạn chuyện triết lý hoặc thần học thì người ấy hẳn vẫn mong được trả lời thoả đáng. Nhưng thoả đáng sao được khi các chuyện vào thời của Chúa, vẫn chưa có di tích lịch sử rõ rệt để minh chứng. Chưa có sử gia chuyên nghiệp ghi sự kiện lịch sử ngay tại chỗ! Nên, vấn đề đặt ra quả là gai góc, có lẽ ta cũng cứ tìm đến đấng bậc ở các nơi để tìm hiểu ngõ hầu tránh không bị mang tiếng là “phiến diện” hoặc “một chiều”. Minh định như thế rồi, nay ta vào việc.
Trước nhất, là câu trả lời của đấng bậc rất John Flader, linh mục giải đáp trên báo:

“Trả lời vấn nạn này, tôi nghĩ ta nên nói về căn bản sự thật của Kinh Thánh. Trước tiên cần minh định: Kinh thánh là Lời của Chúa được Chúa Thánh Thần linh hứng cho các thánh sử viết. Đây không là công trình của loài người do danh hào/nhân sĩ khôn ngoan trong Đạo chuyển ý về các nhân vật lỗi lạc ở Do thái như Đức Giêsu, tổ phụ Môsê hoặc cả đến Adong về vấn đề nào đó ta cần hiểu rõ.
Công Đồng Vatican II, qua Hiến Chế Mặc Khải ở Kinh Thánh có nói: “Thực tại thánh thiêng Chúa mặc khải trong Phúc Âm là nhờ thần hứng Chúa Thánh Thần soi sáng cho các thánh sử viết. Mẹ Thánh Giáo Hội căn cứ vào niềm tin ta có từ thời các thánh tông đồ, công nhận rằng: Cựu Ước cũng như Tân Ước, là sách thánh thích đáng với đời sống của Giáo hội, không sai sót về tổng thể cũng như chi tiết trên cơ sở cho thấy là: tất cả những gì được ghi trong đó nhất nhất đều do Chúa Thánh Thần linh ứng cho thánh tác giả viết ra (x. Ga 20: 31; 2Tim 3: 16; 2P 1: 19-21; 3: 15-16). Nói thế có nghĩa là, tất cả đều do tự Chúa Thánh Thần là Tác giả, đã chuyển cho Hội thánh biết mà theo đúng sự thật khách quan.” (x. Hiến Chế vừa kể, đoạn 11).
Thứ hai nữa, do bởi Chúa Thánh Thần là Tác giả, nên Kinh Thánh không thể chứa điều gì sai sót. Chúa là Sự Thật, Ngài không hề bị ai dối gạt và Ngài chẳng bao giờ lừa dối ai, về bất cứ điều gì. Chắc chắn một điều, là: Ngài không cho Hội thánh được phép chấp nhận sách nào trong Kinh thánh như tiêu chuẩn của niềm tin nếu như sách ấy chứa đựng gì sai quấy.
Trong chiều hướng như thế, Công Đồng Vatican II lại thêm: “Vì lẽ ấy, nên tất cả các tác giả được thần hứng và các thánh viết Sách này đều đã khẳng định rằng những điều các ngài ghi trong đó đều được Chúa chuẩn nhận, vì thế ta hiểu rằng các sách trong Kinh thánh thảy đều chính xác, không sai chạy, luôn luôn dạy bảo về sự thật, vì mục đích cứu độ chúng ta, Và, muốn mọi người tín thác vào Sách của Ngài”. (ibid)
Năm 2010, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 cũng trích đoạn trên đây để khích lệ mọi người hãy tôn trọng Sách thánh bằng cách đưa vào tông thư mang tựa đề “Lời của Chúa” (x. Tông thư vừa kể đoạn #11).
Các thế kỷ trước, các thánh tổ phụ Giáo hội còn nêu rõ những điều đó, hệt như thánh Giêrônimô có lần từng quả quyết: “Sách thánh không hề nói láo bao giờ.” (x.Giêronimô chương 31, đoạn 55) Và thánh Chrysostômô cũng lại khẳng định: “Khi các con thấy ai bốc lên những lời biện luận gay gắt, dám nói nghịch lại sự thật của Sách, thì các con cứ coi họ như những người khùng điên của thế kỷ.” (Xem Giêrônimô Bài Giảng số 1, đoạn 10, chương 16)
Thông thường, khi giải thích điều gì trong Sách thánh, điều quan trọng nhất là phải khẳng định về tâm trạng sáng suốt của tác giả Sách thánh và học hỏi kỹ hình thức văn phong, lối viết khác nhau mà các ngài sử dụng. Bởi thế nên, Công Đồng Vatican II lại căn dặn: “Nói về ý của tác giả viết nên Sách thánh ta phải rất thận trọng, nghĩa là: mỗi lần đề cập đến hình thức văn chương này khác ở trong đó, để tìm ra sự thật diễn bày ở Sách thánh rất khác với văn bản lịch sử cũng như văn chương, thi tứ và sách tiên tri cũng như bất cứ hình thức văn chương nào khác.” (x. Lời Của Chúa, đoạn 12)
Tắt một lời, truyền thống Giáo hội còn dạy ta rằng: những gì kể trong Tin Mừng mà Hội thánh lâu nay sử dụng, khẳng định rằng những gì Đức Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống làm hoặc dạy dỗ vì ơn cứu độ vĩnh cửu đều mang tính chất lịch sử rất chính xác” (x. bđd đ. 19)

            Như mọi khi, hễ đức thày trả lời cho vấn nạn của ai, đức ngài cũng đều trả lời rất mạch lạc, không sai chạy. Nói thế, tức: đức thày nói theo sách vở, có bài bản đàng hoàng. Tuy nhiên, sách vở và bài bản mà đức thày ghi ở đây đều mang tính xưa cũ có từ thời ông tằng ông tổ rất Giêrônimô và Chrysostômô, là đấng thánh thời cổ lỗ.
            Thế nên, hôm nay, trước khi đi vào giòng chảy có lập trường/tư tưởng của đấng bậc khác, cũng nên làm nhẹ đầu óc vẫn rất căng do lập trường khác biệt của các vị nói hơi khang khác bằng giòng nhạc tiếp tục chảy qua câu hát:

“Ôi tóc mây bay ru lên điệu buồn
Sợi tình theo gió vỗ cánh bay xa
Ôi tóc mây thơm men say lạ thường
Tình ta xanh lá tóc mây không vàng.”
(Ngô Thuỵ Miên – bđd)
  
            Lại cũng thêm ở đây, rằng: lập trường của đấng bậc ở trên, với thời gian, có thể như “sợi tình theo gió vỗ cánh bay xa”. Bay cao xa, là vì nay đã thấy xuất hiện một số ý kiến cũng không kém phần thực tế lại cũng khách quan từ đấng bậc giảng dạy ở Đại Chủng Viện hoặc Đại Học Công giáo, trên thế giới. Trước nhất, là lời của bậc thày từng “đứng bục” giảng dạy ở Đại Học Công giáo Rôma và New York, Lm Kevin O’Shea, CSsR như sau:

“Nghiên cứu tính sử học của Đức Giêsu, có lẽ việc ta nên làm là: đọc và xét về lời phát biểu của Bruce N. Fink khi ông nói: “Đấng khi xưa từng ngang qua vùng Đất Lành và hiện diện ở Kinh thánh có khá nhiều diện mạo. Ngài là Đấng Bậc Rao Giảng. Là, Ngôn sứ, Nhà thơ, Nông dân thợ thuyền, Đấng thấu suốt mọi chuyện lại rất ngoan hiền. Ngài nương náu chốn ngoài rìa xã hội và lân la ngoài phố chợ, nơi có nhiều người qua lại. Chuyện Ngài sinh hạ và kinh qua thời niên thiếu vẫn là chuyện không mấy sáng tỏ, rất còn ngờ. Ngài đã xuất hiện trước công chúng, nhưng lại ẩn khuất dưới bóng của thánh nhânhiền lành chỉ sống ở sa mạc, đi trước Ngài, làm đấng tiền hô, đó là thánh Gioan Tẩy Giả.

Các truyện Ngài kể về Nước Trời đã lôi kéo mọi người từ nơi chốn thấp hèn thảy đều tìm đến. Những truyện như thế được Ngài giải thích thật dễ hiểu, lại vẫn mang đặc tính nhiệm mầu sâu sắc. Sự lạ Ngài làm, đã gây ấn tượng mạnh lên số đông, nên đôi lúc, đó cũng là cớ cho một số người khác nghi ngờ. Ngài ý thức rất rõ sứ vụ tông đồ Cha giao phó nên Ngài quyết đối đầu giáp mặt, không chỉ với đám người thuộc hạ sống đời khổ ải thôi, mà cả với những người giữ cửa ở đền thờ nữa. Những điều nói về Ngài ít khi mang tính rạch ròi/soi tỏ, nên tự nó khó có thể giải thích được ý nghĩa ở phần thâm căn, sâu thẳm. Nếu Đức Giêsu là Đấng ta khó tìm được dấu vết Ngài để lại, thì ta càng khó mà chế ngự được Ngài.” (x. Bruce N. Fink, The Hitchhiker’s Guide to the Historical Jesus, Baker 2011)

Thông thường ta vẫn nên tìm đến các bài truy tầm thẳm sâu bằng nhiều đợt khác nhau về tính chất sử học của Đức Giêsu, có thế mới hiểu được rõ những gì đuợc viết ở trong đó.

Đợt đầu để truy tầm tính chất sử học nơi Ngài được nối kết với thời kỳ về sau, vào lúc tác giả Schweizer đề cập vào hồi đầu thế kỷ thứ 20. Đợt hai, ta lại có được công trình của Kasemann cùng với học trò của Bultmann vào giữa thế kỷ ấy. Đợt 3, ngang qua vụ bùng nổ nghiên cứu tính chất sử học nơi Đức Giêsu đã có từ năm 1986 với NT Wright ngang qua cụm từ mọi người gọi là “Đợt truy tầm thứ 3”, trong đó các nhà chú giải như Mark Goodacre, April Deconick và Craig Evans không còn dùng nguyên tắc phân loại như thế nữa. Một trong các khó khăn khi xếp loại như thế xem ra cả Schweizer lẫn Kasemann đều không đưa ra thêm đợt truy tầm về tính cách lịch sử của Kinh thánh lần nào nữa. Nhận định của Manson, Dodd, Jeremias vv., cũng đều rất đúng.

Đợt truy tầm thứ 3 là thời điểm rất đáng kể để các nhà nghiên cứu có thể nhấn mạnh một lần nữa đặc trưng Do-thái-tính của Đức Giêsu. Và, điều này đem đến thành công lớn. Craig Evans lại thêm: đợt truy tầm lần này xem ra cũng đã hoàn tất.

Điều này khiến ta nhớ đến danh hoạ Rembrandt, người rất muốn vẽ chân dung Đức Giêsu mang nhiều chất Do thái hơn. Ông chống lại ý tưởng phải vẽ chân dung Chúa có trán cao, thân hình mảnh dẻ hao hao kiểu nữ tính với chiếc mũi cao và dài, miệng rất nhỏ phù hợp với hình tượng mà tín hữu thời tiên khởi và thời Byzantin vẫn nói đến. Ông cũng sử dụng mẫu người có dáng dấp Do thái. Và, ông quyết định vẽ chân dung Chúa giống hệt người Do thái nghĩa là khiêm nhu, hiền từ, tử tế. Ông bảo: có như thế mới chính xác, và phù hợp với mẫu người Cận Đông.

Rõ ràng, các công trình nghiên cứu mang tính văn hoá và bối cảnh của đất nước Palestin hồi đầu thế kỷ vẫn còn tiếp diễn về lâu về dài. Năm 2011, có đến gần 10% các thí điểm cổ sinh vật học nói đến sinh hoạt của Đức Giêsu đã được khai quật. Và tính ra, có đến chục ngàn thủ bản trên giấy bồi, bút tích cũng như văn bản cổ sử khác được ấn hành và phân tách, vào năm 2011. Công việc này vẫn chưa đến hồi kết thúc. xem thêm Craig Evans, The Future of historical Jesus studies, three blogs, July/August 2011, trang blog Njear Emmaus)

Đó là tóm tắt cho bài dẫn nhập có chủ đích tham khảo một số thành quả trong quá trình nghiên cứu tính lịch sử của trình thuật về Đức Giêsu. Và, Lm Kevin O’Shea lại trích thêm đôi lời của Craig Evans qua đoạn văn như sau:

“Rõ ràng, những gì Craig Evans muốn nói, là: Đức Giêsu không ra ngoài hoặc chống lại thế giới của người Do thái mà Ngài chung sống. Ngài chấp nhận Thiên Chúa của người Do Thái cũng như đền thánh, quyền uy, lối bình bầu thăng tiến và niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Ngài cũng thực hiện mọi sinh hoạt thực tế như bất cứ người Do thái nào khác trong đó có việc bố thí, nguyện cầu, chay kiêng, hy sinh, nghỉ ngơi ngày hưu lễ, đọc và trích dẫn Kinh thánh của Do thái giáo. Ngài đến với hội đường cách đều đặn, thông thường. Ngài đổi mới sáng kiến tận bên trong. Ngài đem đến cho mọi người một giải thích mới mẻ, chứ không phải là những điều mà các ngôn sứ từng thực thi. Nói khác đi, Ngài còn hơn cả tư cách của một ngôn sứ mới mẻ đã xuất hiện. Ngài lo cho người bé bỏng, thôi thúc việc cho đi chính mình, trong đó có lòng xót thương, tha thứ, nhu cầu của con người và chấp nhận người lỗi phạm như người phạm lỗi. Ngài là người Do thái sốt sắng, mộ Đạo, tự tin rằng mình được xức dầu và Thần Khí Chúa đỡ nâng để loan báo Nước Thiên Chúa đã đến với gian trần cũng như trên thiên quốc. Ngài không thuộc bất cứ giáo phái nào. Ngài có nhiều người dõi bước theo chân Ngài. Một cách nào đó, Ngài vẫn nghĩ rằng cái chết của Ngài sẽ đem lại Giao ước mới, đồng thời chấm dứt mọi sai lệch về Đấng Thánh phán xét Israel.” (x. bđd tr. 2)   

            Đó là lập trường về tính chất sử học của Đức Giêsu. Sử học đây, theo đấng bậc trích ở trên là theo nghĩa được phần lớn các sử gia có lương tâm trách nhiệm, vẫn sử dụng phương pháp đã được chuẩn thuận để nghiên cứu. Đương nhiên, là: khi nghiên cứu những chuyện có tính nghiêm túc như thế, sử gia nào thuộc nhà Đạo cũng đều muốn đi sâu đi sát với Đức Giêsu “rất thực”, càng nhiều càng tốt.
            Với nhà Đạo, là như thế. Như thế, tức công việc của mình là nên đi sâu đi sát với sự thật. Chính đó là sử tính. Như thế, với người đời là diễn tả bằng thơ văn/âm nhạc để hát như sau:

            “Mùa hè vui đôi chân chấp cánh,
            Tóc mây hồng cho mắt long lanh.
            Trời mùa đông môi em thắp nắng,
            Tóc mây dài cho vui đường vắng…”
            (Phạm Thế Mỹ - bđd)

            “Cho vui đường vắng”, là con đường ít người theo. Bởi mỗi khi theo nó, là đã sợ. Sợ người đồng Đạo đồng cảnh, bảo mình có “chảnh” mới “làng tàng”. Thế nên, lũ phó thường dân hôm nay, chỉ dám gợi nhớ những câu khẳng định của giới chú giải Kinh Sách nhà Đạo, hệt như sau:

“Về phương pháp đọc Tin Mừng của Chúa, có hai cách: một là học hỏi một cách khoa học, và tìm kiếm trong lòng tin (nói gọn là: bình luận và đức tin). Hai bình diện nhất thiết cách biệt nhau, vì giá trị và phương pháp có khác nhau. Đời Chúa Yêsu như một biến cố trong thời gian, tất nhiên khoa sử học được quyền khảo sát để xác định vị trí, điều kiện sinh hoạt, và các điều thuộc sự kiện quá khứ. Nhưng đức tin mới mở ra cho ta ý nghĩa hằng có, ý nghĩa cho ta bây giờ của sự kiện đó.
Bình luận và đức tin phải liên kết chặt chẽ với nhau ở ta (nếu ta có thể bình luận khoa học được); bằng không, thì phải thận trọng trong quả quyết lịch sử và tin cậy vào những thành quả chắc thực của các học giả đã ra công nghiên cứu.
Dùng lịch sử, đức tin nhận tất cả yêu sách của sử học, và chính khảo sát lại rất mực quí báu đối với mình. Lịch sử đòi hỏi: khi đứng trước văn kiện phải tuyệt đối thành thật đối với văn bản và sự kiện. Khi đứng về phiá đức tin, thì Tin Mừng đòi quyết định và nhận lấy lời phán xét trên những cái mà mình uốn nắn Lời của Chúa cho thoải mái với cách sống của mình. Và đối với ta, còn nguồn mạch làm ta chắc chắn trong kiếm tìm Chúa, là Hội thánh. Trong Hội thánh, ta đón nhận Chúa với tất cả yêu sách của mầu nhiệm Ngài.
Tóm lại, khi đọc và tìm hiểu Kinh thánh, luôn phải nhắm điều cốt yếu là: tín thư và sứ mạng của Chúa Yêsu trong khuôn khổ Cựu Ước –tức lời Ngài so chiếu với việc của Ngài- nhưng chi tiết phải đặt trong tín thư tổng quá.” (X. Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, Sách Thánh và Mặc Khải Cứu Rỗi, tài liệu giảng huấn phổ biến nội bộ, www.giadinhanphong.blogspot.com)

            Nói gì thì nói, nói theo kiểu bình dân là bảo: với nghiên cứu sử tính của Đức Giêsu, người trời Tây nay thấy có khác biệt về qui cách sống Đạo. Sống Đạo, không là sống theo chiều hướng hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen, rồi từ đó có cung cách đặc sệt đầy cảm tính nên vẫn cứ ỉ ôi, sâu thẳm, hình thức cứ lôi thôi lại rất cổ. Sống như thế, e khó lòng hoà hợp với thời đại khoa học tiến bộ. Sống Đạo cho đúng cách, là sống nghe theo lời dặn của Thầy mình từng nhắc nhở ở Tin Mừng:

            “Chính nhờ bởi tin vào Danh Ngài,
mà anh này, kẻ mà các ông thấy và biết đấy,
đã được Danh Ngài làm cho vững mạnh;
chính lòng tin nhờ vào Danh ấy
đã cho anh được vẹn toàn khang kiện như vậy trước mặt các ông.”
(Cv 3: 16)

Quả có thế. Nhờ vào Danh Ngài mà mọi người ở trong cũng như ngoài nhà Đạo vẫn nhờ đó mà có được lòng tin tưởng vào Đức Chúa. Đấng đã sống như ta, nhưng lại là Con Thiên Chúa, rất tính chất sử học và cũng rất người, ở đời.
Trong tin tưởng như thế, nay ta cứ thư giãn với truyện kể ở bên dưới để mãi mãi còn vững tin dù ai có thắc mắc về niềm tin của mình cũng mặc. Truyện là truyện như sau:

“Có ba vị bác sĩ khoe nhau về tính khoa học hiện đại cũng rất lịch sử của riêng mình. Người thứ nhất là một bác sĩ người Do thái nói;
-Ở nước chúng tôi, nền y khoa rất hiện đại nhưng không hại điện đến độ, chúng tôi cắt chân tay hoặc cơ phận sinh dục của người nào đó đưa cho người kia thì chỉ 6 tuần sau là người được ghép cơ phận sẽ tỉnh bơ làm việc khơi khơi thôi
-Chưa bằng khoa học của chúng tôi ở Đức còn ghê hơn nữa. Chúng tôi có thể xẻ một ít não từ một người đàn ông rồi ghép vào đầu người đàn bà, chỉ 4 tuần sau là người này hoạt động bình thường, như đàn ông…
-Cũng chưa bằng ở Nga La xô chúng tôi thường cắt phân nửa quả tim của từ ngực một người đàn bà, rồi mang sang cho người đàn ông khô khan khó chịu đủ mọi thứ. Chỉ 2 tuần sau người đàn ông kia sẽ yêu đương da diết như phụ nữ, chẳng vấn đề gì…
-Cũng không bằng ở Hoa Kỳ, có người từ Kênya sang đây, chẳng có óc, chẳng có tim cũng chẳng có cơ phận dục tình gì, thế mà bọn tôi vẫn biến họ thành tổng thống đấy. Có ghê không…”

            Đúng là truyện kể. Rất dễ nể. Nể nhất là người kể chẳng sợ gì cảnh sát với công an khi bị hỏi tích chất trung thực lịch sử của cốt truyện. Thế mới biết. Chuyện ở đời đâu dễ gì hiểu. Phải không bạn, phải không tôi?
            Để trả lời có lẽ không gì bằng, ta dùng lại lời của đấng bậc trên mà kết thúc, bảo rằng: “Lời của Chúa và việc Ngài làm có giá trị vĩnh viễn. Nhưng cũng là lời và việc lịch sử: phải biết hoàn cảnh lịch sử.”  (x. Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, bđd)
Xem như thế, ta cứ bình tĩnh mà đọc Sách thánh và cứ tin. Tin, theo tinh thần của tác giả thánh muốn lồng khung cảnh lịch sử vào trong lời nói và việc làm của Chúa, theo nghĩa nào đó, không hẳn phải là nghĩa đen ngòm, rất bất tiện.

Trần Ngọc Mười Hai
và những quyết tâm     
học hỏi từ đấng bậc
nhiều kinh nghiệm lịch sử
và rất thánh.

Saturday 14 April 2012

“Một lần em có nói:”

Normal 0 MicrosoftInternetExplorer4
Chuyện phiếm đọc vào tuần thứ Ba Phục Sinh năm B 22.4.2012

Một lần em có nói:”
“Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.
Dù mùa đông chuyển mình,
Và mưa gió đi về buồn rũ bên song”
(Từ Công Phụng – Xứ Thâm Trầm)
            (Rm 15: 1)
            Nếu ta thay đổi tiếng “Em” rất đáng yêu ở trên thành “Niềm Tin” rất linh thiêng, thì bạn và tôi hẳn sẽ thấy ở nơi đó có niềm vui rất lạ và hấp dẫn. 

Sở dĩ bần đạo bọn tôi nảy ra ý nghĩ về chuyện đổi tên và chữ nghĩa ở trên là do tham dự đêm “Hát Cho Nhau” ở Sydney nghe giọng ca của hát sĩ Kim Ngân trình bày khá đạt bài “Xứ Thâm Trầm” của người nghệ sĩ vừa thoát chốn thâm trầm, nên có lời lẽ rất thấm như sau:

“Em đến thật êm đềm
           Như giấc mơ trong mùa Hạ
           Mây trời lang thang ngoài khung trời vắng
            Trên gót chân vương nhẹ nhàng
            Em đến trong cơn dịu dàng
           Lúc em đi từng giọt ngân vang trên vùng câm lặng
            Một lần em có nói
           Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Nghe hát sĩ hôm ấy nhẹ nhàng hát bài “Xứ Thâm Trầm”, bần đạo liên tưởng đến lời thánh nhân hiền lành dạo ấy cũng có lời thâm trầm nhủ với dân con đạo hữu ở Rôma như sau:

            “Bổn phận của chúng ta,
những người có đức tin vững mạnh,
là phải nâng đỡ những người yếu đuối,
(tức những người) không có đức tin vững mạnh,
chứ không phải chiều theo sở thích của mình.”
(Rm 15: 1)

            Quả thế. Nhiều lúc bần đạo cũng quên mất là mình còn có bổn phận nâng đỡ kẻ yếu đuối, có đức tin không vững mạnh đủ, nên cứ thế quẩn quanh với ý nghĩ “chiều theo sở thích tư riêng của mình.”
            Xét cho kỹ, người người còn thấy: sở thích riêng tư của mỗi người đều ra như vô hạn. Trong khi đó, bản chất con người hoàn toàn vô hạn. Vô hạn, cả trong mầm sống rất “gien”. Bởi, “gien” mầm của con người đều không hoàn hảo. Ngay đến chất DNA của mỗi người cũng đã có vài hợp chất trộn lẫn với mầm “gien” của người khác, vật khác. Trộn với mầm của cha mẹ, giòng họ hào kiệt, rất anh hùng nữa.

            Còn nhớ, Tin Mừng của thánh sử cũng từng nói: sở thích riêng không tồn tại nhưng niềm tin căn bản lại đứng vững. Chính đó là sự khác biệt giữa cái tồn tại và hư mất. Có lẽ vì thế mà nghệ sĩ trên lại hát thêm:

“Một lần em có nói:
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này,
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.
Sẽ không còn ngàn kiếp truân chuyên,
Và hết nhân duyên.
Tôi trở về kết đọng linh hồn,
Làm mặt đá xây hồ lãng quên.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Hát lên ca từ nghệ sĩ viết, không phải để tin như đinh đóng cột; mà, để từ đó, ta tìm đến “nhân duyên” những là “kết đọng linh hồn”, mà tồn tại. Để rồi, cứ thế ta làm “mặt đá xây hồ lãng quên”.

            Hôm nay đây, nhân lúc nghe lại ca từ người nghệ sĩ viết, bần đạo lại thấy “hồ lãng quên” của riêng mình đã tràn bờ, chảy lênh láng. Nên chẳng còn nhớ “những người yếu đuối” ở đời, vẫn chờ một quyết tâm từ nơi mình. Quyết, là quyết ra tay hành xử như người có niềm tin thực hiện bổn phận rất nhỏ, là: đi vào trọng tâm niềm tin-yêu thần thánh mà tranh đấu để người người có sự đồng đều hầu vui sống, với người.

            Thật sự mà nói, sống niềm tin-yêu trong đời, không chỉ sống với ưu tư tiếp cận Chúa và quan tâm đến sở thích riêng của mình, thôi. Nhưng, còn biết rằng Chúa vẫn muốn ta tạo dựng thế giới không chỉ dính líu chuyện tư riêng, tức quan tâm đến người khác chứ không như lối sống bỏ mặc cho ai rơi vào cảnh nghèo đói, tù tội.

            Có niềm tin Kitô-giáo, là có được niềm ưu tư bận tâm lo cho những người bị giới chức cầm quyền vẫn đưa vào đời đói khát, chèn ép, để sống không ra người. Sống có niềm tin Chúa ban, là sống có ưu tư, chăm sóc hoặc để tâm đến vấn đề xã hội. Biết đem hoà bình đến với mọi người. Sống ý thức tạo môi trường thoải mái, vô tư, thích đáng để người người có cơ hội chứng tỏ kỹ năng của riêng họ.

            Sống có niềm tin, là tin rằng Đức Chúa của mình không đơn giản chỉ yêu thương mỗi cá thể “người” hoặc mỗi dân con được chọn để ban niềm tin riêng mà là tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, sắc tộc vì “yêu-thương-thế-gian” nên Ngài đã ban Con Một Ngài đến với dân con mọi người để họ có thể chứng tỏ tình thương yêu Ngài đem đến, trên thực tế.

            Chúa muốn mỗi người và mọi người trên thế giới có khả năng thụ hưởng ngang bằng nhau niềm vui chân-thiện-mỹ Ngài ban tặng để họ có thể cải thiện nếp sống độ lượng trong “thế gian” có nhiều điều cần được cải thiện. Thế gian ấy, ngày hôm nay đây, còn dẫy đầy nhiều ham hố, bất công, tranh giành, trù dập khiến người người cứ hãi sợ.

            Sống niềm tin, còn là sống làm sao để mỗi lần nghe bạn mình hát to ca từ ở dưới, sẽ nhớ mà về với thế gian, như sau:

“Một lần em có nói:
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này,
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.
Dù mùa đông chuyển mình,
Và mưa gió đi về buồn rũ bên song.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Hát lời ca như thế, còn để bảo rằng: Thiên Chúa tạo dựng con người là để họ có cơ hội ngang đồng mà sống cùng nhau, dù không giống nhau. Sống đúng tư cách của con-người-là-hình-ảnh-của-Thiên-Chúa. Sống đúng qui cách của những người có được niềm tin theo chân Chúa, tức: sống rất mực theo cung cách không xử sự với người khác như đồ chơi, phẩm vật; mà như nhân vị có đầy phẩm giá, rất tư cách. Sống đúng tư cách của kẻ tin vào Chúa, còn là sống có công tâm, vô tư, chính đáng. Là, không bao giờ hành hạ bất kỳ ai, dù họ có làm sai hoặc khác chánh kiến/lập trường chính trị. Sống vô tư, như thể mình không chủ ý chỉ khai thác thông tin, tiền bạc hoặc xác dục.
            Sống công tâm, là đảm bảo cho mọi người có quyền và cơ hội hưởng thụ đồng đều điều kiện sống rất cần thiết để phát triển con người họ như nhân vị. Sống, đúng nhân vị, chứ không là con số hoặc giá áo, túi cơm. Có cơ hội đồng đều để sống và hưởng thụ nhiều thứ, như: thực phẩm, cơ ngơi, công việc, nền giáo dục và sự tự do tạo cuộc sống theo ý mình. Sống chính đáng, là dám phụng thờ và tin vào Đấng mình chọn lựa làm Bề Trên, Ân Nhân. Là, có tự do gầy dựng gia đình thể theo nền văn hoá hoặc cung cách của riêng mình, và có tự do đóng góp của cải, tài năng, trí tuệ hoặc vật chất cho xã hội.

            Sống niềm tin, là sống và hát được những lời ca mà người nghệ sĩ gói ghém vào câu thơ ở dưới:

“Thôi, ngủ đi em, ngủ đi em.
Cho tuổi này hết ưu phiền
Tôi trở về xứ thâm trầm,
Một mình sống âm thầm.
Hoài đợi chuyến xe nào,
Một lần đã qua.
Đời chúng ta để lại dấu chân, người đã quên
Còn thắp lên, ngời sáng tình xưa.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            “Về xứ thâm trầm”, “một mình sống âm thầm” trong niềm tin, là sử dụng tài nguyên riêng tây để giúp mọi người, mọi nhân vị có được cơ hội thuận tiện mà phát  triển. Phát huy và triển khai kỹ năng tư riêng của mỗi mình dù người ấy dở hơn mình. Sống và sử dụng tài năng riêng tư để giúp mọi người, mọi gia đình hoặc thánh hội cho đúng chức năng, đạt đúng phúc lợi và thể hiện đúng con người họ. Để rồi, họ cũng như ta, sẽ có trách nhiệm về cuộc sống cũng như sinh hoạt cộng đoàn trong đó mình cũng như họ đều có cơ hội ngang bằng, đồng đều.

            Cộng đoàn kẻ tin vào Chúa, là những người có quyết tâm tác tạo cuộc sống tốt đẹp cho mọi người, trong xã hội. Bởi, một khi mọi người đã quyết tâm tạo cuộc sống xã hội cho đẹp, tức đã biết tôn trọng thế gian trong đó người người vẫn cứ sống. Thế giới hôm nay có rất nhiều người còn “nghèo rớt mồng tơi”, vẫn làm những công việc nguy hiểm đến tính mạng. Vẫn chui rúc ở đâu đó, xó xỉnh này nọ thiếu vệ sinh, thiếu cả điều kiện tối thiểu để sống cho ra sống. Để sống đúng phẩm cách con người.

            Sống như người tin vào Thiên Chúa an bình và công chính, là sống có cổ võ nguyên tắc làm nền cho một xã hội trong sạch. Xã hội, luôn đề cao tinh thương yêu, đỡ đần, giùm giúp bất cứ ai. Sống, để còn dìu nhau vào xã hội có lý tưởng; ở nơi đó, không còn cảnh người ám hại người. Không còn cảnh tượng ghét ghen, giành giựt, vị kỷ.

            Sống có niềm tin an vui, là sống có mình và có người, vẫn nhớ nhau. Nghĩ đến nhau. Dù, là bạn bè/người thân hay chỉ là người dưng khác họ, như truyện kể để minh hoạ một lập trường, rất như sau đây:

Từ nhỏ đến lớn, tôi luôn là trò cười của bạn bè, vì tôi rất dở trong khả năng tìm đường. Có lần, một người bạn của tôi đã hài hước nói: “Hy vọng lối lên Thiên Đường cũng có bảng chỉ dẫn, nếu không thì chắc là cậu sẽ lạc mất”.
Tôi cười:
- Tớ chỉ cần tìm một ngọn đồi có hàng rào nhiều cây hoa giấy - Và khi bạn tôi nhíu mày suy nghĩ để xem đó là cái gì, thì tôi kể cho anh ta nghe câu chuyện về ông bố của tôi.
Ông bà nội tôi rất nghèo, bố và 5 anh em trai phải cố gắng ghê gớm lắm mới tồn tại. Chính thời thơ ấu đó đã làm cho bố tôi trở nên cứng rắn. Khi anh em chúng tôi nhận ra rằng những đứa cùng lớp với mình đều được bố mẹ cho tiền tiêu vặt, chúng tôi bèn hỏi xin bố tiền.
Bố bình thản đáp :
- Nếu các con đã đủ lớn để xin tiền thì các con cũng đủ lớn để kiếm tiền. Và thế là, chúng tôi đi làm đủ các việc vặt cho khu phố, như dọn vườn hoặc lau nhà. Bố không bao giờ hỏi về số tiền mà chúng tôi kiếm được, cũng không bao giờ khen.
Khi chúng tôi lớn lên, đi học khá xa nhà. Không có xe riêng, chúng tôi phải đi xe bus. Dù bến xe bus cách nhà tới gần 2 cây số, cả vào những ngày mưa gió bão bùng, bố tôi cũng chẳng bao giờ lái xe ra đón. Nếu ai đó càu nhàu (anh trai tôi vẫn càu nhàu suốt), bố sẽ nói nghiêm khắc:
- Chân các con để làm gì?
Còn tôi thì không ngại đi bộ cho bằng nỗi sợ đi một mình dọc đường cao tốc vắng vẻ, vòng một vòng rồi mới có đường đi lên đồi để về nhà. Tôi thấy tủi thân vì dường như bố tôi chẳng quan tâm gì đến sự an toàn của tôi. Nhưng cảm xúc đó biến mất vào buổi tối mùa hè… Đó là ngày khá mệt mỏi với những bài thi dài làm tôi kiệt sức. Tôi chỉ muốn về nhà nằm dài ra ngủ. Khi xe bus dừng ở trạm cuối, tôi xốc lại cái balô đầy ụ sách, chuẩn bị đi bộ một chặng dài.
Tôi đi dọc theo đường cao tốc ở dưới chân đồi, cho đến khi nhìn thấy một hàng rào nhiều hoa giấy chạy dọc theo con đường lên đồi dẫn tới nhà tôi. Lúc nào tôi cũng thấy dễ chịu khi nhìn thấy cái hàng rào ấy, vì như thế có nghĩa là tôi sắp về đến nhà.
Hôm đó, khi tôi vừa nhìn thấy đám hoa giấy thì trời bắt đầu mưa. Tôi ngồi xuống để nhét mấy cuốn sách đang cầm trên tay vào balô, rồi lấy cây dù ra. Khi đứng dậy, tôi chợt nhìn thấy cái gì đó màu xám đang di chuyển dọc hàng rào. Nheo mắt nhìn kỹ, tôi nhận ra đó chính là cái nón của bố tôi. Và tôi biết - mỗi ngày tôi về nhà, bố đều đứng trên đồi, sau dãy hàng rào để quan sát, cho đến khi bố biết tôi về nhà an toàn rồi mới thôi. Tôi lau nước mắt chợt chạy dài trên đôi má. Thì ra, bố vẫn quan tâm đến tôi mà có bao giờ tôi biết được chuyện đó.
Hôm ấy, về đến nhà, tôi thấy bố đang ngồi trên ghế bành giả vờ như không biết gì, bằng một giọng thản nhiên bố hỏi:
- Về rồi hả con?...
“Cậu thấy đấy”
- Tôi kết thúc câu chuyện kể cho bạn mình nghe- “Tớ chẳng cần lo là có tìm thấy con đường dẫn đến Thiên Đàng hay không”.
Nhiều người vẫn nói: Thiên Đường là khi bạn thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, hoặc chùm sáng trên cao. Nhưng, tôi lại nghĩ: khi tôi nhìn thấy dãy hàng rào đầy hoa giấy dẫn lên đồi, và bố tôi đang đợi ở trên đỉnh đồi rồi nói: “Về rồi đấy hả con?...” Thế đó, là Thiên Đường của bọn tôi….

            Vâng. Đúng thế. Thiên Đường, hay còn gọi là “thế gian” của nhà Đạo bọn tôi, vẫn cứ thế. Vẫn cứ nói và cứ hát những câu thơ, rất giản dị, rằng: 
      
“Em đến trong cơn dịu dàng,
           Lúc em đi từng giọt ngân vang trên vùng câm lặng.
            Một lần em có nói:
           Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.”
(Từ Công Phụng – bđd)

            Với riêng tôi và nhiều người, thì “về xứ thâm trầm” có “giọt ngân vang”, “trong dơn dịu dàng” ấy vẫn không xa “cuộc đời này” là mấy. Vẫn cứ như Thiên Đường ở trần gian, hay “thế gian” của bọn mình vẫn cứ thế. Vẫn còn đó, những ước ao của một xã hội gồm những an bình, hiền hoà, đầy công lý.
            Xã hội ấy, vẫn còn thấy âm vang của lời thơ rất thâm trầm, tràn đầy những ý tứ và ý từ như:

“Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này,
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này.
Sẽ không còn ngàn kiếp truân chuyên,
Và hết nhân duyên…”
(Từ Công Phụng – bđd)

Nhưng thực sự, thì xứ ấy, nhân duyên này vẫn ở trong tâm can người nhà Đạo, hôm nay và mai ngày, mãi mãi rất nhiều đời. Của con người mà mình không hay biết đó thôi.

            Trần Ngọc Mười Hai
            vẫn còn tin
            những chuyện như thế
            đã và đang xảy ra hôm nay.
            Rất mai ngày, ở trần thế.