Saturday 25 February 2017

“Ai nói yêu em đêm nay?”



Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ I mùa Chay năm A 05/3/2017
           
“Ai nói yêu em đêm nay?”
Ai nói yêu em đêm mai?
Ai sẽ yêu em sau này?
Son phấn nào giết ngây thơ?
Ánh đèn nào màu đơn côi?
Lệ sao nhiều hơn mưa lũ.”
(Y Vân – Ai Nói Yêu Em Đêm Nay)
(Mt 7: 24-28)

Sao anh lại cứ hát: yêu em mỗi đêm nay? Thêm nữa, nếu hiểu chữ “Em” đây là Hội thánh Nước Trời, thì sao đây? Và, sao chỉ nói yêu Em đêm nay chứ không phải “Yêu Anh đêm nay”, hoặc ngày mai? Yêu em hoặc yêu anh là yêu ai trong đời người thế?

Đó, là những câu hỏi vụt lên trong đầu bần đạo, vào một đêm không ngủ vốn nảy sinh trong đầu quá nhiều “dự án”, nhớ không hết. Thôi thì, bần đạo nhớ gì viết nấy, nghĩ sao làm vậy, thôi nhé.

Vâng. Viết phiếm tuần này, kể cũng hơi hơi khó. Khó, là bởi các chủ-đề nảy sinh trong đầu lâu nay, đều đã viết và đã phiếm hết cả rồi. Mà đã phiếm, thì phải phiếm những gì hơi hơi mới một chút, thiên-hạ mới chịu đọc. Chứ, viết đi viết lại mãi những chuyện Giáo hoàng với giáo tông, kinh với kệ thì có ai chịu mở sách ra đọc đâu. Nghĩ thế nên, bần đạo bèn nhắn nhủ bạn đọc rằng: nếu lần này bần đạo có viết những gì không hay cho lắm, thì xin bạn đọc bỏ qua cho, kẻo phiền.

Vậy, giờ đây mời bạn và tôi, ta đi vào vùng trời đầy những phiếm bằng truyện kể đầu như sau:

Thuở xưa có một tên trộm. Một hôm sau một mẻ trộm, chưa được gì hết đã bị phát giác. Anh ta chạy thục mạng loanh quanh tìm chỗ trốn, bước đường cùng đến một đập nước đành nhẩy vội xuống bờ đập. Nhìn quanh quất không thấy có một lùm bụi nào để chui vào ẩn trốn, anh đành ngồi đại xuống đám cỏ đầy bùn. Xa xa đám người rượt theo tìm anh đang chạy tới. Bí quá, anh nhắm mắt lại không dám nhìn họ, cũng không dám nhúc nhích. Đám đông chạy tới nơi, ngạc nhiên thấy một người ngồi an nhiên giữa đám bùn.

Họ bảo nhau:
“Ông này là ai?” 

Một người thấy tư thế của ông giống như một thầy tu, nên nói với mấy người kia:
“Có thể ông ta đang ở trong thiền định!” 

Thế là mọi người đồng chắp tay kính cẩn chào và hỏi:
-Thưa thầy, chúng con xin phép làm rộn thầy. 

Từ nẫy giờ thầy có thấy một người nào chạy ngang qua đây không? Chúng con đang truy tìm một tên trộm.” Anh trả lời: “Ờ… tôi không để ý, không nghe thấy gì hết.” Thế là đám đông kéo nhau đi. Chừng một đoạn đường họ quay trở lại chỗ anh ngồi. Anh vẫn còn ở đó vì chưa biết đi đâu. Thấy anh im lặng, không nhúc nhích, họ rất kính nể, sụp xuống xá lậy và mời anh về trụ ngôi chùa làng đến bây giờ chưa có vị tăng nào về. Trong lúc ngặt nghèo như thế, anh chỉ biết nhận lời để chờ thời.

Tuy ở trong chùa, nhưng máu ăn trộm nơi anh vẫn mạnh. Anh định bụng chờ cơ hội thuận tiện, trộm một mẻ kha khá rồi trốn biệt qua tỉnh khác thật xa.

Sáng sớm hôm đó, anh vào chánh điện, tóm gọn cho vào tay nải nào lư hương, đèn đuốc… những món đồ thờ phụng cổ kính đắt giá, sửa soạn ra đi. Thình lình một Phật tử đến than khóc vì một người thân mới qua đời đêm qua. Ông ta đến chùa nhờ anh cầu siêu. Anh để vội tay nải xuống, lấy khăn lông lau lau chùi chùi mấy món đồ, làm như đang lau dọn bàn thờ. Anh an ủi ông Phật tử vài câu, ghi tên kẻ quá vãng vào tờ giấy và hứa sẽ đến nhà tụng kinh. Thế là mưu toan ăn trộm một lần nữa lại bất thành! Anh thở dài, ngao ngán. Xếp vội các món đồ thờ trở lại lên bàn, anh lót lòng đỡ mấy miếng bánh còn lại từ chiều hôm qua, xong chuẩn bị đến nhà Phật tử. Cũng may anh tìm được nghi thức tụng kinh cầu siêu trong tủ kinh sách, nên yên lòng khoác áo ra đi.

Và như thế ngày này qua ngày nọ, anh ẩn nhẫn trong chùa đợi thời cơ. Nhưng chẳng gặp được cơ hội thuận tiện. Rồi người thì hỏi đạo, kẻ thì thỉnh đi tụng đám, anh không có thì giờ tính kế mưu nữa, chỉ biết tìm tòi trong tủ kinh những sách Phật pháp đọc và học để trả lời câu hỏi của Phật tử. Rồi anh tập ngồi thiền, niệm Phật cho khỏi suy nghĩ lo lắng đến tương lai. Lâu ngày cuộc sống của anh “đạo tặc” bất đắc dĩ phải nương náu của chùa này cũng êm xuôi, dần dần anh cảm thấy an ổn hơn. Và thấm thoát đã hơn năm.

Thói quen mới của anh bây giờ là theo thời khóa của nếp sống nhà chùa, từ miếng ăn miếng ngủ đến lao động và công phu sáng chiều. Anh vui với công việc hàng ngày: quét dọn vệ sinh nhà cửa, trồng trọt chút rau chút bắp. Anh vui với những người nông dân chất phác chân lấm tay bùn, chia xẻ với họ từng niềm vui nỗi buồn, thúng nếp họ gặt, đám khoai anh trồng. Nghĩ lại thời gian qua anh đã sống quá tệ hại, không biết đến công lao cần cù khó nhọc của họ, mà nỡ trộm cướp thành quả dành dụm chắt chiu của họ. Thật tội lỗi biết bao! Anh cảm thấy hối hận vô vàn. Và từ đó anh dành nhiều thì giờ bái sám.

Kể từ đây dấu vết thói quen của cuộc đời một tên trộm thực sự tan biến. Anh bây giờ là một con người mới, con người hiền thiện và là chỗ nương tựa tâm linh cho dân làng.”
(Truyện kể do bạn bè dịch từ Anh Ngữ có đầu đề là “The Buddha in mud”)

Truyện kể ở trên, có phải duy nhất chỉ thấy ở nhà Phật chốn tụng niệm lễ bái ở chùa chiền? Thế còn, ở nhà Đạo chốn khổ tu/khắc kỷ có vị nào tương-tự như thế không? Trả lời câu hỏi này mà không am-tường lịch sử đạo-giáo há nào trả lời cho có, rất lấy lệ.

Thế nhưng, nếu xét chuyện dân gian thời Babylon hoặc truyện kể Trung Hoa, Ấn Độ thời nào đó, vẫn có những truyện khá giống nhau ở cốt truyện. Chỉ khác mỗi cung-cách viết lách và kể lể cho phù-hợp với văn-chương, văn hoá của người nghe hoặc với tâm-trạng và thời khắc lúc người kể viết ra trên giấy bút.

Lại nữa, có một truyện kể dân-gian chốn người phàm ở trời Đông, bên nước “Đại Cồ Việt” hoặc ở nước Trung Hoa người Đại Hán na ná cốt truyện và lối kể của Kinh Sách thời xưa/cổ, như bên dưới, xin nghe thử:

“Truyện rằng:  
Một người phú hộ giàu có nọ, khi đến tuổi già yếu, biết mình đã gần đất xa trời, ông liền gọi những người mắc nợ đến để yêu cầu thanh toán nợ nần.

Ông phán bảo những con nợ rằng: nếu các ngươi không thể trả nợ cho ta ở đời này thì các ngươi phải cam kết thề hứa một cách trọng thể là sẽ hoàn trả các món nợ của các ngươi ở kiếp sau, ta sẽ đốt hết các tờ khế ước mà các ngươi đã ký kết với ta. Nghe vậy, người thứ nhất mắc nợ ông 10 lượng vàng đến quỳ gối thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con hứa trả nợ cho ông bằng cách làm con ngựa để ông cưỡi lên và con sẽ đưa ông đi bất cứ nơi nào ông muốn.
Người thứ hai mắc nợ ông 100 lượng vàng cũng đến quỳ gối và thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con xin chấp nhận làm trâu kéo cày, kéo xe chở đồ cho ông để hoàn trả
món nợ đời này.

Người phú hộ ưng nhận lời hứa của hai người này và bằng lòng đốt tờ khế ước xóa nợ cho họ.
Sau cùng, người thứ ba với món nợ cũng rất khổng lồ là 1000 lượng vàng cũng đến quỳ gối trước mặt ông và thưa:
-Thưa ông, để hoàn trả món nợ khổng lồ của con với ông từ trước đến nay, kiếp sau con sẽ làm cha của ông.
Nghe vậy, người phú hộ tức giận, ông truyền đem roi sắt đến đánh cho một trận nhừ tử vì tội vô lễ và bất kính, nhưng người này bình tĩnh giơ tay ngăn cản người phú hộ và xin được phân trần sự việc. Ông nói:

-Thưa ông, con vốn biết món nợ của con lớn lao lắm, cho dù kiếp sau con có làm thân trâu ngựa cũng không đủ trả nợ cho ông, nhưng con sẵn sàng làm cha của ông, vì chắc hẳn ông cũng quá rõ trách nhiệm nặng nề của cha mẹ đối với con cái mình. Con sẽ làm việc ngày đêm để lo cơm ăn áo mặc cho ông. Con sẽ che chở cho ông như cha mẹ che chở đứa con thơ và chăm sóc ông những khi ông đau ốm cho tới tuổi già. Con sẽ không ngại bao gian khó hy sinh nào, cho dù có phải hy sinh tính mạng để ông được no ấm và không thiếu thốn gì, và khi chết, con sẽ để lại cho ông tất cả gia tài mà con đã tích lũy được với sức lao động và mồ hôi nước mắt của con. Ông thử nghĩ xem đó có phải là cách đẹp nhất để con trả món nợ khổng lồ kia cho ông sao?

Người giàu có lim dim đôi mắt trầm tư lắng nghe. Một lúc sau ông gật gù mỉm cười rồi đứng dậy đốt bỏ khế ước, tha món nợ khổng lồ của hắn như đã tha cho hai người trước.
(St sưu tâm)

Đi từ sự thể ở cốt truyện rồi rút ra một kết luận để học-hỏi, xem ra có quá đáng không?

Nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi, hôm nay bần đạo nói và hỏi cũng hơi nhiều, cốt để nói lên một hiện-trạng xảy đến với nhà Đạo mình, rất nhiều năm, cả ở thời quá khứ, hiện-tại lẫn tương-lai. Hiện-trạng, là trạng-huống hiện-tại của nhiều vị khi nghiên-cứu Kinh Sách lại hay có thói-quen hơi “quá lời”, thường đưa ra nhiều kết-luận chưa được kiểm chứng.

Nói và hỏi, cùng kể lể câu chuyện hơi dài giòng, cũng chỉ để kể về hiện-trạng mà có lần bạn-bè trong chốn thân quen cứ là hay thắc mắc: tại sao Hội thánh kể lại nhiều truyện oái-oăm, kỳ-khú ở Cựu Ước, như: truyện vua Đavít cướp vợ người khác, hoặc những chuyện bê-bết của thành Sôđôma và Gômorê tệ là thế, mà kể xong người người lại cứ bảo: “Đó là Lời Chúa!” Câu hỏi đặt ra hôm nay cho nhiều vị, là: Phải chăng các lời kể trong Kinh Sách đều là “Lời Chúa” hết?

Để trả lời cho câu hỏi ở trên, hôm nay bần đạo lại sẽ dựa vào chứng-cứ do giáo-sư thần-học nổi tiếng đưa ra như sau:

“Trong chương đầu của cuốn sách thứ 3 do tôi viết, tôi có nhấn mạnh lên tổng-hợp cơ-cấu hiểu biết về các kinh-nghiệm từng trải của con người. Tôi bàn nhiều về kinh-nghiệm niềm tin ở Kinh Sách được hiểu không như nền thần-học lời Chúa, bởi: lời của Chúa là lời con người nói về Thiên-Chúa. Tôi nói về chuyện ấy chỉ cốt bảo rằng: nếu ta cho rằng Kinh Sách là Lời Chúa, thì điều đó đơn-giản không phải là sự thật.

Điều đó chỉ nói một cách gián-tiếp về Lời của Chúa, mà thôi. Mọi điều được viết trong Kinh Sách là những chứng-từ của con người đối với Thiên-Chúa, do những người từng sống trong lịch-sử và từng trải-nghiệm về Thiên-Chúa, thôi.

Khi Kinh Sách viết: “Thiên-Chúa đã nói thế, Đức Kitô đã nói như vậy…” tức: không phải Thiên Chúa hoặc Đức Kitô là Đấng từng nói thế theo nghĩa tuyệt-đối/chính-xác, mà chính con người là phàm-nhân lâu nay nói về kinh-nghiệm của họ về Thiên-Chúa. Kinh-nghiệm của những người như thế đến từ Thần Khí và theo nghĩa chính xác này, ta có thể nói một cách không sai chạy rằng Kinh Sách là Bản-văn được thần-hứng, có Thần-Khí tạo nguồn hứng trong đó.

Tuy nhiên, cùng lúc ta cũng nên nhớ đến sự trung-gian mang tính nhân-bản, lịch-sử, nhất-quán. Là phàm-nhân, con người chẳng bao giờ có được cuộc đối-đầu trực-tiếp với Thiên-Chúa hết. Đối hay giáp-mặt là cuộc chạm trán mặt-đối-mặt. Đối đầu/chạm trán này luôn xảy đến qua các trung-gian. Tất cả chỉ là người phàm mắt thịt nói về Thiên Chúa, mà thôi.

Đây là điều cực kỳ quan-trọng khi ta nghiên-cứu thần-học và tìm-tòi để hiểu về sự tiến-hoá của các tín-lý/giáo-điều nhà Đạo. Không thể hiểu được thần-học mới nếu không hiểu ý-niệm này khi ta gặp được mặc-khải do lịch-sử là trung-gian/hoà-hợp nói về kinh-nghiệm diễn-giải của phàm-nhân. Khi con người chúng ta không chấp-nhận được sự trung-gian hoà-hợp này, chắc chắn ta sẽ không thể tránh khỏi được sự việc trượt té vào với chủ-nghĩa căn-bản, rất triệt-để.” (X. Lm Andrew Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994 tr. 41-43)

Cứ theo những điều được trích-dịch ở trên, thì giả như bần đạo là nghệ sĩ chuyên ca hát hoặc viết nhạc, hẳn sẽ phải tìm đến nhạc-bản vừa trích-dẫn để hát riêng cho mình, những ca-từ dễ thương khả dĩ áp-dụng vào nhiều trường-hợp, rất như sau:   

“Ai dìu bước em đêm nay?
Ai dìu bước em đêm mai
Ai dìu bước em tương lai?
Nhịp chân nào . . . đưa rã rời?
Ôi tiếng kèn nghẹn như tiếng khóc
Thương cho người một kiếp vô duyên
Rồi từng đêm . . . từng đêm
Qua biết tay . . . bao người
Một lần son . . . nhạt môi
Cay đắng thêm . . . trong đời
Tàn một . . . cơn mê
Bẽ bàng một . . . mình ai
Nghe như trong lòng
Giông tố . . . đang buốt sâu.”
(Y Vân – bđd)

Có hát hò hoặc lý-luận chuyện đạo-hạnh, tưởng đó cũng là cung-cách hoặc đường-lối suy-tư chuyện gì đó, thần-học hoặc học hỏi chuyện thần thiêng, đạo-đức rất lành thánh, hạnh đạo? Bạn cứ tự hỏi cho nhiều rồi tự tìm kiếm cho mình câu trả lời thật đích-đáng. Có như thế, mới nhớ dai, nhớ hoài, nhớ mãi mãi những chuyện cần thiết để nhớ cho riêng mình và cho người.

Nhớ hay quên, cũng đề nghị bạn/đề-nghị tôi, ta thử về với Kinh Sách có những giòng chảy khuyên nhủ hoặc kể lể thế nào đó, để hướng dẫn tâm-linh của riêng mình đi vào một suy-tư, biện-luận lành thánh, rất để đời. Về, là về với Lời của bậc lành thánh rất như sau:

“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành,
thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào,
nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.
Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành,
thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.
Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành".
28 Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong,
dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người,
vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư của họ.”
(Mt 7: 24-28)

Gọi những câu trên là Lời Chúa, nghe cũng được. Không có gì là quá đáng. Nhưng, hát những lời dưới đây, có ăn-nhập gì với đề tại mình đặt ra cho mọi người không chứ? Hát, là hát những lời nghe qua hơi “âu yếm”, nghe lại thấy thấy cũng êm-ả một đường-lối sống rất hạnh đạo, rằng:
 
Ai nói yêu em đêm nay?
Ai nói yêu em đêm mai?
Ai sẽ yêu em sau này?
Khi bóng chiều thẫn thờ rơi
Vũ trường chợt bừng cơn say
Ai nói yêu em đêm nay?
Đời chẳng mong . . . chờ ai
Sắp đến trong . . . tay người
Đời chẳng mong . . . chờ ai
Không vấn vương . . . tơ chùng
Tàn một . . . đêm sau
Qua một bàn . . . cờ vui
Tương lai tan thành
Sương kín . . . trong nửa khuya
Ai nói yêu em đêm nay?
Ai nói yêu em đêm mai?
Ai sẽ yêu em sau này?
Khi xế chiều phấn son phai
Rã rời cuộc đời buông say
Ai nói yêu em đêm nay?
(Y Vân – bđd)

“Tương-lai tan thành sương kín …trong nửa khuya”. Hoặc: “Rã rời cuộc đời buông say” đêm nay”, âu cũng chỉ là giòng chảy đầy ý-nghĩa của một cuộc sống có yêu, có thương rất nhiều “đêm”, mà thôi.

“Đời chẳng mong chờ ai!” “Không vấn vương tơ chùng”… âu cũng là những lời và lời của người đời. Chứ chẳng thể nào là “Lời Chúa” hết. Dù “lời” ấy có nói về tình-tự thương yêu, đằm thắm rất con người, chỉ thế thôi.

Xem thế thì, câu hát cứ mải miết hỏi rằng: “Ai nói yêu em đêm nay? Ai nói yêu em đêm mai? Ai sẽ yêu em sau này?” nếu cứ vang-vẳng mãi trong tai người nhà Đạo, hẳn sẽ làm người nghe chết khiếp đi được. Không chết, cũng sẽ ngồi lại mà suy-nghĩ, tư-lự thật nhiều rồi cũng sẽ quyết-định đi đến hành-động có những quyết-tâm, thật không nhỏ.

Thế đó, là hiệu-quả của việc phiếm hoài, phiếm mãi lai rai cả vào thời sau này, để rồi đạo-giáo của ta sẽ khá hơn thời trước và thời về sau, những là tương-lai/mai ngày nhiều hưng-phấn. Nghĩ thế rồi, mời bạn/mời tôi ta cứ thế trực chỉ về đằng trước mà ra đi. Đi, mà không ngoái lại về phía sau vì đã có câu trả lời ở trong bụng cho câu hỏi “Ai sẽ Yêu em đêm nay”, hoặc mai ngày rất vĩnh cửu.

Trần Ngọc Mười Hai
Chỉ dám hỏi mình/hỏi người
những câu hỏi
nhè nhẹ như thế,
mà thôi.       

Saturday 18 February 2017

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em"



Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 8 mùa Thường niên năm A 26/02/2017

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em"
trong những tháng năm dài,
Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai.
Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn.
Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.
(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

(Giacôbê 1: 2-3)

Nhớ thế sao? Thế bạn và tôi, ta có nhớ “người em bé bỏng” ở đâu đó, trong các “viện” như được kể thế này không? Truyện kể, là kể về các người “Em” ấy như thế này đây:

Theo thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang California, Mỹ thì: trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên 65 tuổi. 1/3 số người ấy đang sống chung với con cháu. Số còn lại, đang ở trong viện dưỡng lão (nursing home). Vẫn theo thống kê này, những người Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home! Dưới đây là vài dữ-kiện:

Xế chiều 29 tháng Chạp vừa qua, tôi lái xe đến Viện Dưỡng Lão ở thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem như khá nhất trong số các viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì là ngày giáp tết nên quang cảnh ở đây khá lặng lẽ. Các lối đi trong khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác dưới những tàn cây, không thấy cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân, trò chuyện với nhau. Bãi đậu xe cũng chỉ lác đác vài chiếc của nhân viên trực. Nhìn khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu dành cho người Mexico thì đông người hơn, có lẽ các vị này không biết hôm nay là đêm giao thừa của người Việt.

Bước vào bên trong, tất cả đều vắng vẻ. Nhìn một lát, tôi mới thấy y tá đẩy một chiếc xe lăn, trên đó có một cụ ngồi ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, nước dãi chảy dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một cụ bà khác ngồi im lìm trên ghế nhựa, nét thẫn thờ. Tôi hỏi: "Có con cháu nào vào thăm Bà chưa?". Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở dài nghe mệt mỏi.

Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà sang đây theo diện bảo lãnh của con trai. Bà kể: "Lúc đầu, mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng chỉ được vài năm, con dâu nói: thấy tôi ở dơ vì khi cháu nội của tôi sổ mũi, tôi bèn lấy tay bóp vào mũi nó, vắt nước cho sạch. Bực mình quá, tôi bèn nói: hồi nhỏ, tao cũng hay vắt nước mũi cho chồng mày vậy, có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời ton hót của nó, bèn đẩy tôi vào đây".

Một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ vào hộp bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào bảo: "Cái này con tôi nó cho, cái kia là của hội, còn hộp đó là quà của nhà chùa".

Theo tập tục người Việt mình, thì cứ gia đình nào gồm 2, 3 thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu cùng ở chung với nhau đều được xem là gia đình hạnh phúc, ăn ở có đức, có hiếu. Nhưng, đối với  người Mỹ và người phương Tây có bản tính thực tế, thì họ lại không nghĩ vậy; bởi lẽ, ngay từ hồi còn trẻ, họ đã học được tính tự lập - và điều này đã tác động rất mạnh lên thế hệ thứ 2 người Việt. Thứ 3 nữa, là: người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ, tất cả hầu như ít nói tiếng Việt mà chỉ sử-dụng tiếng Anh, tiếng Mỹ, cả khi về nhà.

Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng từ lối sống của Mỹ: 18 tuổi ra ở riêng; cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão. Mọi thành công về mặt tiền bạc, học vấn, vv. đã khiến họ chẳng quan tâm nhiều đến quá khứ của bậc cha ông. Nếu như còn ở Việt Nam, hầu như con cái đều ngồi im nghe cha mẹ chỉ giáo, dù miễn cưỡng; còn thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 lại chọn lối bỏ ra ngoài sống, không quan tâm gì đến cha mẹ, và điều đó dẫn đến xung đột thế-hệ... Xung đột có khi chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân nhỏ nhưng không được giải quyết cho thấu đáo, thường dẫn đến mâu thuẫn ngày một trầm trọng.

Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi nằm phòng số 3 có nói: "Có nhiều điều ở Việt Nam ta coi như bình thường thì qua đây lại trở thành bất thường. Về bữa ăn chẳng hạn, nếu tôi dùng muỗng riêng của mình để múc canh trong tô chung thì anh rể nhà tôi sẽ trợn mắt nhìn tôi, rồi từ lúc đó đến cuối bữa ăn, nó không hề đụng vào tô canh ấy nữa!"

Vì vậy, đối với người Việt cao tuổi sống ở Nam Cali, thì ba chữ "viện dưỡng lão" từ lâu vẫn là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tâm can, tạo cơn kinh hoàng đến độ có cụ quỳ sụp xuống ngay trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: "Ba lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng được chứ đừng bắt ba vô đây". Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn, khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên đến thăm ông không, thì ông bực bội nói: "Làm ơn đừng nhắc đến vợ con tôi nữa. Vợ, con gì mà để tôi sống như thế này đấy!"

Ông Lê Cẩm, phòng số 9 kể: "Năm tôi 68 tuổi, việc đi đứng bắt đầu yếu, mắt bắt đầu mờ, tay thì run nên con trai tôi nó bảo: mai con đưa ba vô “nursing home”. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè sáng hôm sau nó đưa tôi vô đây thiệt. Tôi có bảo nó là sao con nỡ lòng nào làm vậy đối với ba?, thì nó nói tỉnh bơ: Ba già rồi thì vô viện dưỡng lão sống, chứ làm vậy là làm sao?" Tôi hỏi: bác có biết mai là Tết Nguyên Đán rồi không? Ông nói: tôi cũng biết chuyện đó, vì ba bữa trước đây con tôi vô thăm, có đem cho tôi mấy hộp kẹo, mứt. Thoáng nhìn gò má nhăn nheo của ông, tôi bỗng thấy lăn dài những giọt nước mắt: "Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy mà…".

Công bằng mà nói, nỗi kinh hoàng viện dưỡng lão của các cụ cao tuổi người Việt - ngoài việc bị tách khỏi môi trường gia đình quen thuộc ra, thì: hầu hết các cụ đều nghĩ là mình bị bỏ rơi, hoặc con cháu hắt hủi nên mới thế. Còn một nguyên nhân nữa, đó là: khi tuổi tác đã  cao, sức khỏe tàn dần, các cụ cũng xuống tinh-thần nhiều thì bệnh tật ắt phải có. Chuyện các cụ không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ thường tình nên khi bệnh tật của các cụ đã đến thời kỳ nghiêm trọng, thì chỉ còn cách duy nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão thôi.

Kevin Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đang sống ở viện dưỡng lão, có nói: "Tôi và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con thì đi học, nên không lấy đâu ra thời giờ chăm sóc mẹ.  Còn, mướn y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc cho mẹ thì tôi không đủ tiền".

Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão, đó là: khi về già, các cụ thường bị lú lẫn hoặc ít ra là mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra vợ ra chồng hoặc con cái, nên mới bảo mấy người đừng tới gần. Kevin Nguyen nói tiếp: "Mẹ tôi nay đã đổi tính, nên khó chịu. Lúc nào cụ cũng gắt gỏng, nghi ngờ hết mọi người".

Chị Lam Hương, cũng có mẹ sống ở viện dưỡng lão, đã tâm sự: "Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ là trong nhà có người ăn cắp tiền của cụ mặc dù tiền đó là của con, cháu cho cụ. Ngày nào cũng vậy, cụ cú lôi túi tiền ra đếm đi đếm lại đến vài chục lần rồi cụ chửi um xùm, bỏ ăn, thậm chí có hôm còn cuốn quần áo đòi ra khỏi nhà, vì như cụ nói: "Nhà này toàn quân ăn trọm không à!". Riết rồi không ai chịu nổi cụ nữa đành đưa cụ vào viện".

Lại có lý-do dẫn tới nỗi sợ phải nhập viện dưỡng lão, đó là: một số nhân viên ở nhiều viện do thiếu khả năng chuyên môn, thiếu nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ, cộng với tình hình bị cắt giảm ngân-sách tài trợ từ chính phủ do thâm thủng ngân quỹ dẫn đến tình trạng nhiều người bị ngược đãi hoặc bỏ mặc về phương diện sinh lý lẫn tâm lý ngày càng tăng, chưa kể tình-trạng có cụ bị bắt phải nín lặng, không được phép than-van, kêu cứu khi lên cơn đau dạ dày hay thấp khớp.

Cụ Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân ở thành-phố có nói: "Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng và tôi buộc phải uống thuốc an thần nhiều nên rất thản nhiên. Khi tôi báo cáo sự việc này lên ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại công việc điều hành bệnh viện".

Theo tôi tìm hiểu, Viện Dưỡng lão ở Westminster có khoảng 90% người già trên 65 tuổi. Số còn lại từ 80 trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Các viện này thường được chia làm hai khu chính là: nội trú và bán trú với nhiều khu phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện, nhưng không đủ tiền nằm lại vì viện-phí rất cao, nên phải chuyển vào viện dưỡng lão để nằm chờ bình phục rồi mới về nhà.

Thường, thì nhân viên quản lý sắp xếp các khu ốc theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu người Việt, khu Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v... Nếu thiếu phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ Lê Thị Lài 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ da đen rồi được chuyển sang khu người Việt, cụ cứ ngơ ngác như người bị tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu con số người Việt ở đây đông, các cụ sẽ được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt, nhưng chỉ là bữa trưa và tối thôi, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn của Mỹ.

Hầu hết trường hợp các cụ được đưa vào đây là do bị bệnh cần có sự trợ giúp thường xuyên của nhân viên y tế cũng như thiết bị mà chỉ các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Các cụ đây thường mắc những bệnh mất năng lực thể chất lẫn tinh thần các cụ yếu đến độ không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được.

Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài CBS, người từng thực-hiện nhiều phóng sự về chuyện ngược đãi người già ở viện dưỡng lão cho biết: "Nhiều người trong số các cụ cần có được chăm sóc suốt đời, vì các cụ không thể hồi phục để tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai các cụ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh viện nếu bệnh nặng rồi sẽ chết ở đó, và thứ ba là bệnh viện trả về để chờ chết…".

Đến bữa, các cụ còn khỏe thì chậm chạp lê chân bước hoặc tự mình lăn xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng chờ điều dưỡng mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều-dưỡng-viên người Việt ở đây, cho biết: "Viện có rất ít điều dưỡng người Việt nên tụi em thường bị điều đi phục vụ trong toàn khu, chứ không chỉ khu người Việt mà thôi". Theo luật tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là dịch vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc 2 tiếng một ngày.

Jenny Pham tiếp: "Khi có kiểm tra, viện dưỡng lão thuê thêm điều dưỡng cho đông, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều-dưỡng-viên chăm sóc 10 người theo luật định để che mắt đoàn. Khi kiểm tra đi rồi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc đến 19, 20 người…". Tôi hỏi: "Mấy bữa nay, gia đình có vào thăm các cụ nhiều không?" Jenny Pham đáp: "Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện nguyện, hoặc các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây, có cụ ở đã 5 năm trời không có ai đến thăm lần nào".

Tôi hỏi: "Đêm giao thừa, đây có tổ chức gì không?" Jenny Pham lắc đầu: "Dạ không, mấy cụ còn khỏe hoặc minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, kể chuyện xưa. Còn, thì hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là mùng 1 tết rồi, có biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì hết".

Tôi ra về và khi bước ngang phòng số 7, thấy có đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đứng cạnh một cụ già ngồi xe lăn, người phụ nữ nói: "Chào ông nội rồi đi về con". Ông cụ miệng méo xệch: "Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô mà". Anh con trai đỡ lời: "Con đưa các cháu vào chúc Tết ba, bây giờ dẫn  tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn rồi…".

Dù có biết là: ở bầu thì tròn ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao tôi vẫn thấy nao nao vì bên quê nhà giờ này, gia đình nào cũng đang quây quần, họp nhau vui vẻ…” (Siêu Tầm sưu tầm)

Niềm vui nỗi nhớ xảy đến vào ngày “đầu năm”, kể cũng nhiều. Nhưng, nỗi-niềm nhung nhớ của mỗi người và mỗi vị, lại vẫn khác. Khác hoàn cảnh, tuỳ vào văn-minh/văn-hoá mỗi sắc tộc của nhiều người.

Ngày đầu xuân mỗi năm, người người đều có niềm vui riêng. Niềm vui ấy, có khi đượm ướt nỗi niềm nhung nhớ những ngày xa xưa, lại cũng là nỗi nhớ “ngày đầu xuân”, thôi. Bần đạo đây, nay bất chợt tìm ra được nhạc-bản cũng hơi buồn của tác-giả Diệu Hương, xứng-hợp với đề tài dự tính bàn-luận, thế nên xin trích-dẫn đôi ba ý-tứ nơi ca-từ của tác-giả, rất như sau:

“Làm sao em biết tình này chất chứa thật đầy,
Giấu kín từ trong con tim buồn bã?
Tình vô biên quá, để rồi khó nói bằng lời,
Cho môi khô héo dần thôi.
Một đời tôi vẫn nhớ tới em, trong những phút xa xôi.
Em đến tình cờ với tôi, như thoáng một giấc mơ.
Vì biển ơi! con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa giòng.
Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa.”
(Diệu Hương – bđd)

Nghe hát câu “Nhớ tới Em trong những phút xa xôi”, bần đạo lại nhớ đến “Người Em” nọ trong Hội thánh từng viết bức thư đầy tình-tiết gửi lên Mẹ Bề Trên Cabrini có ý/lời như sau:

“Mẹ Cabrini thân mến,

Tôi viết cho Mẹ bức thư này kèm một ý-tưởng về bộ phim tập nhiều kỳ có tiêu-đề là “Saint and the City” lồng trong truyện kể về đời của Mẹ.

Dĩ nhiên, chốn thị-thành được kể ở trong phim, chắc phải là thành-phố New York, nơi Mẹ từng đặt chân đến tá-túc, sau khi rời nước Ý năm 1889. Nhưng, bộ phim dài nhiều tập kể ở đây, lại nói đủ mọi thứ chuyện chứ không như cuốn phim có tựa đề hơi hơi giống là phim: “Sex and the City”, nói rất ít.

Phim truyện đây, không thấy nói đến các cô đi giày cao gót cứ “ì xèo”, mà chỉ lác đác trình chiếu một vài cao ốc rải rác thôi. Tuy nhiên, phim truyện đây, lại có đủ của ăn/thức uống, áo quần, tức những nhu-yếu-phẩm cần cho cuộc sống, mà Mẹ đem giúp đám di-dân vừa rời châu Âu chốn tả tơi tuyệt vọng, đi loạng-choạng trong khung-cảnh một châu Mỹ khá chộn-rộn. 

Tôi thầm đoán là Mẹ cũng cần đến “Netflix” để giải khuây ở trên đó chốn quê trời lồng lộng. Thế nên, xin cho phép tôi được kể cho Mẹ nghe một trong các chủ-đề được đề-cập ở phim “Sex and the City” khi mọi người cứ đi tìm ông Chủ Bự, một đối-tác trọn-hảo trong phim truyện. Còn, phim của Mẹ, thì việc kiếm tìm ông Chủ Bự, là một tìm kiếm rất sâu-sắc khiến Mẹ bị đánh động nhiều, đó là độ dài nối kết với việc kiếm tìm tương-quan đích-thực với Thiên-Chúa. Mẹ dư biết, là: Thiên-Chúa có bao giờ Ngài chịu đi mua sắm ở Đại-lộ số 5 đâu. Ngài cũng không ăn vận diêm dúa, đầy những lụa-là để gây ấn-tượng cho bất cứ một ai.

Thế nhưng, ông Chủ Bự đây, lại không biết đến hãi sợ, nếu ông buộc phải có quyết-tâm nào đó. Không như hàng triệu người khác, tâm can Mẹ đây không bị đánh động từ các truyện thần kỳ kể về thành-tựu của nước Mỹ, coi đó như truyện kể về những người từng đạt mọi thành-tựu. Thần dân của Mẹ, vẫn chiến-đấu không ngừng nghỉ bằng mọi cách, từ: ngôn-ngữ, nghề-nghiệp, tiền bạc, cho đến nỗi nhớ nhà, sự hỗn độn/căng-thẳng về gia-cảnh, và cả đến nỗi sầu mất mát, những cố-gắng nghèo-nàn để có được một nền y-tế, giáo-dục cũng khả-quan. Mẹ là nguồn hứng-khởi cho phần đông chúng tôi, những người được mời gọi hãy đáp trả mức-độ hỗn-độn ngoại-thường ở thế-giới tân-kỳ này.

Cao Uỷ Tỵ Nạn cho chúng tôi biết, là: hơn 60 triệu người trên thế-giới, nay bị bứng gốc; hơn 20 triệu người buộc phải rời bỏ nước ra đi làm kẻ tỵ nạn, xin tầm trú. Mỗi ngày, có đến 34 ngàn người phải xa quê chỉ vì nơi họ ở, đang có xung-đột/bức-bách đủ mọi cách. Con số những người như thế, vẫn dao-động hết mọi người. Vâng. Mẹ thấy đó, từng đợt và từng đợt, rất nhiều người cứ phải di-dời ra khỏi nơi mình ở, như vận-chuyển của Thánh Thần Chúa, đấy.

Thật khó có thể thăm-dò đo-đạc hiện-tượng dao-động này. Nhưng, đây lại vẫn là lời mời gọi gửi đến hết mọi người, để ta ôm chặt sự sống mà không biết đến hãi sợ. Mẹ là lữ-khách đi khắp nơi về khắp chốn mà không biết mệt, hiểu theo nhiều nghĩa. Khi Mẹ đặt chân đến vùng trời New York vào độ tuổi 38 cùng với 6 nữ-tu khác, Mẹ chỉ có một ít thứ gọi là “của riêng”. Lúc ấy, Mẹ cũng chẳng biết mọi người có vui lòng đón tiếp Mẹ hay không nữa. Cộng-đoàn Dòng bé nhỏ của Mẹ đã di-dời về khu nhà ổ chuột và phải xin xỏ đây đó mới đủ nuôi sống bấy nhiêu chị. Tự trong xương tuỷ, Mẹ biết thế nào là tình-trạng không được nghênh-đón đành phải phục-vụ những người có cùng một trải-nghiệm như mình. Tôi nắm chắc rằng, những năm tháng ngày giờ trở về sau, Mẹ thấy vui hơn khi biết được rằng tên tuổi của Mẹ nay gắn liền với Trạm trú-ẩn, tỵ nạn ngay trong thành-phố Melbourne của Úc.

Tôi tự biết mình không nên đề-cập những chuyện như: tầm-cỡ cao thấp/lớn nhỏ như bao giờ. Thế nhưng, khi ấy Mẹ thuộc những người nhỏ thó, thấp bé không ai quan-tâm. Tôi bị mê-hoặc bởi truyện kể về những người hăng say/kiên-quyết nhưng cứ lầm lẫn về tầm vóc, kích-thước của mỗi người. Thánh nữ Têrêxa thành Calcutta chẳng hạn, bà cũng chỉ cao không đầy thước rưỡi thế mà bà vẫn làm được nhiều việc cả thế. Mẹ đây, lại cũng thấp bé như bà và có thể thấp hơn nữa. Mẹ là người con áp út trong số 11 anh chị em trong gia đình đông-đúc, trong đó chỉ có 4 người đạt đến tuổi trưởng-thành.

Như thế nghĩa là, Mẹ được dưỡng-nuôi trong một gia-đình có khả-năng đối-đầu với mọi mất mát, thua thiệt. Ngay đến sức khoẻ, Mẹ cũng bị coi là người mỏng-mảnh, dễ bể. Bất cứ ai gặp Mẹ, đều nghi-ngờ rằng với sức khoẻ tồi-tệ như thế, sao Mẹ lại có thể kéo dài, tồn tại được.

Nước Mỹ, nay có vai-trò đáng kể trong việc vượt lằn ranh của chính họ. Và nay, họ vừa  trải qua cuộc vận-động tranh cử vào cuối năm 2016 rồi, khiến đôi lúc, tôi cũng mong sao có người như Mẹ đây, và một số công-dân rất ít được tấn-phong thành bậc hiển-thánh, đứng trên bệ cao để chỉ đường đi nước bước cho mọi người; và cũng cởi mở đủ, để không cần gì đến ảnh hình này khác mà chỉ cần lương-thiện và tình thương, thôi. Tôi vẫn tin vào lời thán-phục ghi bên cạnh Nữ Thần Tự Do, một tượng đài luôn ghi rõ lời mời chào nổi tiếng những bảo rằng: “Hãy cho tôi đám đông nghèo đói, mệt mỏi và chộn rộn của bạn đi!”

Điều trớ trêu, là Mẹ đã ra đi về cõi vĩnh hằng chỉ ít ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1917, khi Mẹ trở bệnh sau ngày chuẩn bị gói quà đem cho trẻ nghèo. Giáng sinh mời gọi Mẹ và tôi, ta suy tư nhiều hơn nữa về lời của Thân Mẫu Đức Giêsu khi Cụ bảo: “Lòng từ-bi của Ngài ở tuổi này tuổi khác, đạt đến những người biết kính sợ Ngài”. Thông điệp đây, còn tốt và đẹp hơn ánh đèn mầu nhấp-nháy ở Quảng Trường Thời-Đại bên New York nhiều. Hẳn, ta cũng nên dựng lên kênh truyền-hình để chiếu phim tập hay như thế.

Michael McGirr
(X. A Letter to Mother Cabrini, Australiancatholics magazine số Christmas 2016 tr.27)

Thông-điệp trên, nay ta cũng nên phổ-biến cho chán vạn người đang sầu/buồn vào đêm Giáng Sinh, ở đây đó. Ấy đấy, lại là ý-tưởng mà bần đạo có được sau lễ Giáng Sinh 2016 và đầu năm Đinh Dậu 2017, rất Âm-Lịch. 

Sầu/buồn ngày lễ hội, lại vẫn là tâm-trạng của nhiều người thời cách-mạng vi-tính, rất tinh-vi. Sầu/buồn đây, có thể cũng giống như mối sầu thành thị, rất không tên. Sầu và buồn, là nỗi-niềm từ đâu tới, thật không rõ. Chỉ rõ có một điều, là: buồn và sầu đến độ chẳng biết vì sao và làm thế nào cho vợi bớt nỗi niềm không tên ấy.

Sầu/buồn nhiều nỗi, còn là tâm-trạng người nhà Đạo hôm nay, khi thấy Giáo-Hội vẫn có những thứ được nhiều linh mục nói đến ở các bài giảng và bài viết, như giòng chảy, ở bên dưới:

“Tình thương-yêu và lòng từ-bi nhân-hậu của Chúa đã tạo nhiều ảnh-hưởng hơn những chuyện tầm-phào/yếu kém trong cuộc sống của ta. Thành ra, ta có thể vui hưởng tính hài-hước trong cặp đôi bất-xứng giữa sự thật lớn lao ta tin tưởng và cung-cách bé nhỏ qua đó ta xử-thế. Hoặc, các vụ tranh-cãi giữa những người không hợp lòng hợp ý với nhau và cả những chuyện người đi nhà thờ không chịu nổi cảnh cứ phải ngồi lâu nghe giảng giải đến khá dài ở nhà thờ.

Vốn biết Chúa thương yêu mỗi người chúng ta cả vào khi ta phạm lỗi tày trời rất nhiều lần, Ngài vẫn tha thứ cho ta trước khi ta xưng thú hoặc yêu cầu Ngài quên đi; mặc dù thế, ta vẫn có thể vui vẻ chịu đựng tính-khí rất thất-thường đối với nhau; cả những khi kể cho nhau nghe những câu chuyện về các giám mục và linh-mục hoặc thấy thoải mái khi nghe người ngoài đạo kể chuyện tiếu lâm về người đi Đạo…” (Xem thêm Lm Andrew Hamilton sj, The Church’s Divine Comedy, AustralianCatholics Magazine số Christmas 2016 tr. 17-20) 
Nói về các bậc nữ-lưu chân-phương/lành thánh giống như trên, là nói rất nhiều về giáo hội ở nhiều nơi. Nói như trên, chỉ có thể nói về người đi Đạo và/hoặc cho người đồng Đạo, rất quen với giáo-lý, thần học, đúng ra là nói về các nữ-phụ an lành/hạnh đạo, là phải nói như người ngoài đời sống ở đời, rất “ngoài luồng”. Tức, đượm chút mắm muối tiêu đường, thật rất tếu.

Nói về nam-nhân/nữ-phụ tốt lành/hạnh đạo, đôi lúc ta cũng nên nói như kể truyện đời nhiều chất dí-dỏm, dị-hợm để cười đùa cho quên nỗi sầu buồn, một đời người. Nói thế, là nói như truyện kể thêm thắt ở bên dưới cho đỡ buồn đời:

“Hai vợ chồng nọ kéo nhau vào siêu-thị mua sắm. Đến gian-hàng nọ có đặt chiếc cân điện-tử nói thành tiếng, khi từng lượt người bước lên cân. Thấy chiếc cân quá hiện-đại rất tầm cỡ, mọi người đều thích thú thay nhau, bước lên bàn cân.

Một cô khách bước lên bàn cân, thì chiếc cân điện-tử bèn nói: “Cô cân nặng 62 pounds, so với chiều cao như thế này mà cân được 92 pounds thì cô là người hoàn-toàn, có sức hấp-dẫn nhiều đàn ông.

Một bà mệnh-phụ vừa bước lên cân, đã nghe chiếc cân điện-tử phán những câu xanh rờn, rằng: “Bà cân nặng 102 pounds, hơi bị quá có một chút thôi, chỉ cần đi bộ 2, 3 cây số mỗi ngày là bà sẽ có vóc dáng đáng yêu ngay thôi, chẳng cần phải kiêng cữ gì hết”. Bà vợ nghe thế, lấy tay đẩy ông chồng  rồi nói: “Anh lên cân thử đi!”

Khi đức ông chồng bước lên, thì chiếc cân liền lên tiếng: “Ông bạn chỉ có 93 pounds thôi thì quá gầy ốm. Vợ ông cần phải tẩm bổ/bồi dưỡng cho ông, và cấm ngặt không được làm ăn chăn gối gì hết trong 3 tháng…”

Nghe thế, bà vợ nhà lại bước lên cân lần nữa, thì lần này chiếc cân chẳng nói năng gì, đợi mãi cũng chẳng thấy tăm hơi gì hết, bà bực quá bước xuống. Tức thì, chiếc cân mới phát ra hiệu lệnh thật rõ ràng: “Xin bà con vui lòng bước lên từng người một, đừng chen lấn kẻo hư cân…” (Truyện kể đăng trên mạng)       

Kể những chuyện vui cười xảy ra trong cộng đồng nhà Đạo hay ngoài luồng, không phải và không chỉ kể về những giòng chảy thần học khô cứng đến chán nản, không ai còn muốn nghe nữa. Thế nhưng, nói về chuyện đạo hạnh nhà Đạo, tưởng cũng nên kể những lời hay/ý đẹp của đấng thánh hiền vẫn nhủ khuyên dân con Đạo mình như sau:

Thưa anh chị em,
anh chị em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui
khi gặp thử thách trăm chiều.
Vì như anh chị em biết:
đức tin có vượt qua thử thách mới sinh lòng kiên nhẫn.
Chớ gì anh chị em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra
bằng những việc hoàn hảo, để anh chị em nên hoàn hảo,
không có gì đáng trách, không thiếu sót điều gì.”
(Giacôbê 1: 2-3)

Nói gì thì nói, tưởng cũng nên nói cho mọi người bằng giòng nhạc có giai-điệu bay bổng hoặc trầm lắng như sau:

“Tình vô biên quá để rồi khó nói bằng lời
Cho môi khô héo dần thôi
Một đời tôi vẫn nhớ tới em trong những phút xa xôi
Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ
Vì biển ơi con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa dòng
Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa. “
(Diệu Hương – bđd)

Hôm nay đây, người viết nhạc mang tên Diệu Hương đã nói thay cho nhiều vị, nhiều người. Chí ít, là những người, hoặc những vị đang có vấn-đề gì đó trong cuộc sống khó phôi pha. Thế nhưng, như câu hát ở trên đã đề-cập, cũng nên đề nghị với bạn và với tôi, những người đang đọc các giòng chữ ở đây, một lời nhắn thêm nữa của tác-giả, mà rằng:

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em trong những tháng năm dài
Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai
Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn
Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.
(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

Vẫn nhớ một đời người, không là “xót xa một mối tình không may”, hoặc tệ hơn nữa khi em “Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai.” Nhưng vẫn là: “Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ. Giấc mơ có một đời phúc hạnh, sướng vui mãi không ngờ.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ chúc và mừng mọi người
Những ngày vui hơn pháo Tết
Suốt một đời.